Bản án số 52/2021/HS-ST ngày 06/08/2021 của TAND TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 52/2021/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 52/2021/HS-ST ngày 06/08/2021 của TAND TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Quảng Ngãi (TAND tỉnh Quảng Ngãi)
Số hiệu: 52/2021/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/08/2021
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 06/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2021/HSST ngày 26/5/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2021/QĐXXST-HS ngày 09/7/2021 đối với bị cáo:

Lê Ngọc X, sinh ngày 12/10/1992; nơi cư trú: Thôn T, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị Đ; bị cáo đã ly hôn, có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 26/02/2021 đến ngày 04/3/2021 áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Lê Văn H, sinh năm 1981 và chị Lê Thị C, sinh năm 1983; cùng nơi cứ trú: Thôn T, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 25/02/2021, Lê Ngọc X đến nhà chị Lê Thị C để nhậu cùng với anh Lê Văn H là chồng chị C cùng với Trần B và Lê Văn C là bạn của anh H. Ngồi nhậu khoảng 10 phút thì Lê Ngọc X đi vệ sinh, khi vệ sinh xong X nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong nhà chị C. Sau đó, X lên lại vị trí chỗ nhậu ngồi tiếp tục nhậu khoảng 20 phút thì đi xuống buồng ngủ của vợ chồng chị C, đến vị trí tủ đựng quần áo để trong phòng, X mở cánh cửa tủ nhìn thấy phía ngăn tủ ở trên cùng có 01 túi xách da màu hồng, mở túi xách ra phát hiện bên trong túi xách có 03 cục tiền đã cột dây, X lấy tất cả 03 cục tiền bỏ vào túi trong áo khoác jean của mình và đi ra ngoài tiếp tục ngồi nhậu, ngồi nhậu được 5 phút thì X nói nhà có việc và đi về. Sau khi về nhà, X kiểm tra số tiền trộm cắp được của vợ chồng chị C là 36.000.000 đồng, X mang số tiền này xuống sòng bạc ở khu vực bãi biển thuộc thôn T, xã N, thành phố Q đánh bạc. Tại đây, Lê Ngọc X thua bạc, chỉ còn lại 1.100.000 đồng, X đến thuê phòng trọ tại đường Nguyễn Công P, thành phố Q với số tiền 500.000 đồng. Sau đó X đến Công an thành phố Quảng Ngãi đầu thú.

* Đồ vật thu giữ:

- 01 áo khoác jean dài tay màu xám, 01 quần jean dài màu xám;

- 01 túi xách màu hồng bằng da;

- 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; Bản cáo trạng số 43/CT-VKS, ngày 25/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo Lê Ngọc X về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173, điểm b, i, r, s Khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo X từ 09 tháng đến 12 tháng tù; tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác jean dài tay màu xám, 01 quần jean dài màu xám.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc X khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đã lén lút vào và trộm cắp 36.000.000 đồng của anh H và chị C. Lời khai nhận của bị cáo đúng như Bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại tại phiên tòa nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; sau khi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan Công an đầu thú; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt; không có tình tiết tăng nặng.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trất tự trị an ở địa phương.

Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo; mặt khác, tại phiên tòa, bị hại đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được ở ngoài để làm ăn kiếm tiền nuôi con nhỏ, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm.

[5] Về dân sự: Anh H, chị C đã nhận tiền bồi thường, không có yêu cầu về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 áo khoác jean dài tay màu xám, 01 quần jean dài màu xám. Đây là quần áo bị cáo X mặc khi thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 túi xách da màu hồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Quảng Ngãi đã trả lại cho chị C là đúng quy định pháp luật;

- 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; đây là số tiền bị cáo X trộm cắp còn lại và đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Quảng Ngãi. Gia đình bị cáo X đã bồi thường cho anh H, chị C 36.000.000 đồng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Quảng Ngãi trả lại cho bị cáo X 600.000 đồng là đúng quy dịnh pháp luật.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi về tội danh, mức hình phạt, vật chứng đối với bị cáo có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo X phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV, tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc X phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo Lê Ngọc X 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (06/8/2021).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, thành phố Q giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

3. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo khoác jean dài tay màu xám, 01 (một) quần jean dài màu xám (Theo Biên giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/7/2021 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi).

4. Buộc bị cáo Lê Ngọc X phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 52/2021/HS-ST Bản án số 52/2021/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất