Bản án số 47/2024/DS-ST ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 47/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 47/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 47/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 47/2024/DS-ST ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Nam Định |
Số hiệu: | 47/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vũ Thị H tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy GCNQSDĐ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 47/2024/DS-ST
Ngày: 10/9/2024
V/v: Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất;
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà:
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Mai Anh Tuấn
Bà Trần Thị Hồng
Ông Trần Trọng Đại
- Thư ký phiên toà:Bà Phạm Thị Hồng Nhung - Thư ký Toà án nhân dân
tỉnh Nam Định
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên
toà:Ông Trần Mạnh Trường - Kiểm sát viên
Ngày 10/9/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định, tỉnh Nam
Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 12/2023/TLST-DS ngày
12 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đấtvà hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số342/2024/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Vũ Thị H, sinh năm 1964; Địa chỉ: Tổ 2, khu A, thị
trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định.
*Bị đơn: Anh Vũ Duy D và chị Vũ Thị Lan P; Địa chỉ: Tổ 2, khu A, thị
trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định. Chị Phươngủy quyền cho anh D.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1 - Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh Nam Định.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Sinh T - Chủ tịch UBND
huyện Y.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Bình Đ – Phó chủ tịch UBND
huyện Y
2 - Ủy ban nhân dân Thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam định.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Doãn N - Chủ tịch UBND
2
Thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam định.
3 - Ông Vũ Duy H, sinh năm 1959
Địa chỉ: Xóm 2, khu A, thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định.
*Người làm chứng: Ông Vũ Xuân Q, sinh năm 1955, Nguyên là Chủ
tịch UBND thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định.
Địa chỉ: Tổ 7, thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định.
Tại phiên tòa:Bà H, anh D, chị P có mặt; Ông Trần Bình Đ, ông Dương
Doãn N có đơn xin vắng mặt. Ông H, ông Qvắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và ý kiến trong quá trình tham gia tố
tụng thì bà Vũ Thị Htrình bày, đề nghị như sau:Ngày 22 tháng 10 năm 1998 bà
có mua mảnh đất của ông Vũ Duy H ở Tổ 2, Khu A, Thị Trấn L, Y, Nam Định
với diện tích là 6m mặt đường WB2, sâu 8m, tổng cộng là 48m2,đất thổ cư với
giá trị tiền là 9.500.000 đồng (Chín triệu năm trăm nghìn đồng) có tứ cận như
sau:phía nam giáp đường cái WB2, phía đông giáp nhà ông H, phía tây giáp
nhà bà B, phía bắc giáp nhà ông L. Hai bên đã mua bán thỏa thuận xong, bà H
đã giao tiền cho ông H đầy đủ và ông H đã giao đất cho bà là Vũ Thị H, bà H
đã sử dụng ổn định. Ngày 01 tháng 10 năm 2002, để thực hiện Nghị quyết của
UBND thị trấn L về việc chuyển đổi thổ cư cho các hộ dân ở Tổ 2, khu A, thị
trấn L, Y, Nam Định để lấy đất mở rộng đường liên thôn, do phần đường mở
rộng chiếm toàn bộ diện tích đất hộ bà B nên bà B được UBND Thị trấn L
chuyển đổi ra đất ao hợp tác xã của Cựu chiến binh khu A giáp với đường
WB2. Bà Bích sống một mình nên hoàn cảnh khó khăn không có khả năng
kinh tế để vượt lập ao thành thổ nên UBND Thị Trấn L và các ban ngành đã
đến để vận động bà H tạo điều kiện cho bà B chuyển sang phần đất mà gia đình
bà H đã mua của ông H và một phần diện tích cũ của bà với tổng giá trị diện
tích chuyển cho bà B là 48m2. UBND Thị Trấn L có trách nhiệm cấp cho bà H
353m2 đất ao của Hợp tác xã giáp với đường WB2, dài 12m, sâu 29,5m tại
Khu A, thị trấn L, Y, Nam Định và UBND thị trấn L đã lập danh sách chuyển
đổi phía đại diện có:Ông Vũ Xuân Q – Chủ tịch UBND thị trấn L, ông Trương
Công P – Cán bộ địa chính, ông Dương Doãn Đ – Trưởng ban Quân dân chính
khu A – tổ dân phố số 2, ông Nguyễn Đức P – Trưởng thôn tổ 2 – tổ dân phố
số 2. Đại diện hộ đất chuyển đổi:Bà Vũ Thị H, bà Vũ Thị B.
UBND thị trấn L nhất trí thỏa thuận như sau:Bà Vũ Thị B tự tháo dỡ nhà
ở và xây công trình về vị trí thửa 180 tờ bản đồ số 19, diện tích sử dụng là
48m2.Bà Vũ Thị H chuyển về tờ bản đồ số 19 thửa 206 diện tích là 353m2.
(Văn bản hội nghị, nghị quyết họp chuyển đổi đất hiện nay do Ông Vũ Xuân
Quyết – Chủ tịch UBND thị trấn L đang lưu giữ).
Đến năm 2006, bà H đã đến UBND Thị Trấn L gặp cán bộ địa chính hỏi
sổ đỏ thì ông P cán bộ địa chính nói là đã có sổ đỏ nhưng ông ấy đưa cho ông
3
Vũ Duy D là anh trai của bà H cầm về hộ. Bà H gặp ông D để lấy sổ đỏ thì ông
D nói là để anh giữ hộ cho, đưa cho bà H sợ bà làm mất nên bà cũng nhất trí để
anh D giữ hộ sổ đỏ. Trên thực tế bà H cũng chưa tận mắt nhìn thấy sổ đỏ như
thế nào, vì anh trai bà giữ nên bà tin tưởng không nghi ngờ gì cả đồng thời đến
lúc đó anh D đặt vấn đề hỏi mượn đất của bà để làm nhà tạm vì bà chưa sử
dụng đến, bà cũng nhất trí nhưng sau đó ông D không làm nhà nghỉ tạm như đã
nói với bà H mà lại làm bằng nhà mái bằng. Bà đã thắc mắc với anh D thì anh
D nói do bà H chưa sử dụng đến thì để cho anh D sử dụng, nếu xây nhà tạm thì
bão gió sẽ không bảo đảm an toàn nên anh D xây nhà mái bằng để tránh bão
gió, sau này khi bà cần ông D sẽ trả lại đất và cho luôn bà sử dụng các công
trình trên đất mà ông D xây dựng. Mặc dù bà H cũng không hài lòng nhưng
anh D đã chót làm nhà, hơn nữa lúc đó bà H đang là mẹ đơn thân một mình
nuôi con nhỏ cũng chưa có nhu cầu sử dụng đến đất ngay nên bà đành chấp
nhận.Sau khi anh D làm nhà, anh D đã cho con trai là Vũ Duy D và vợ của D là
Vũ Thị Lan P sử dụng căn nhà này. Trước khi anh Dmất, anh D có đưa số đỏ
cho bà, bà H nhìn trong sổ đỏ ghi diện tích đất của bà là 133m2, bà có hỏi anh
D tại sao lại như vậy, thì anh D nói với bà H là anh ấy chót làm sổ đỏ tách đất
của bà thành hai thửa: Một thửa là tên Vũ Thị H – 133m², Một thửa là tên là
Vũ Duy D – 220m². Anh D nói với bà là lấy bao nhiêu tiền anh ấy trả, nhưng
sau đó anh D lờ đi không bàn bạc đến vấn đề trả tiền cho bà, nên giữa bà H và
anh D đã xảy ra cãi nhau, phải nhờ anh em trong họ đến họp để bàn cách thức
giải quyết vấn đề. Tại buổi họp anh D đã hứa trả tiền đất cho bà H theo giá thị
trường. Trong buổi họp có chị dâu Nguyễn Thị T ở Tổ 2 khu A, TT L, chị gái
là Vũ Thị T ở tổ 2 khu A Thị Trấn L.Sau khi anh D bị chết, bà H chưa nói
chuyện được với cháu Dlà con trai anh D, cũng là người đang sử dụng đất trực
tiếp của căn nhà mà anh D xây dựng trên đất của bà, cháu D nói với bà là cháu
chỉ ở nhà đất mà bố cháu cho cháu, cháukhông có nghĩa vụ trả lại cho bà H.
Bà H làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định giải quyết những
vấn đề sau:Yêu cầu vợ chồng anh Vũ Duy D và chị Vũ Thị Lan P phải trả cho
bà diện tích đất 220m² mà anh chị đang quản lý, sử dụng. Hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Vũ Duy D và bà Nguyễn Thị L; Hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh Vũ Duy D và chị Vũ Thị Lan.
* Bị đơn anh Vũ Duy D trình bày: Nguồn gốc đất vợ chồng anh đang sử
dụng từ năm 2020 do bố anh là ông Vũ Duy D thừa kế lại cho vợ chồng anh.
Vợ chồng anh đã được cấp bìa đỏ mang tên hai vợ chồng. Trên đất có ngôi nhà
do bố mẹ anh xây dựng từ năm 2009. Mẹ anh mất trước bố anh, khi bố anh còn
sống đã cùng anh em ruột trong gia đình thống nhất làm thủ tục cho hai vợ
chồng anh. Theo anh được biết, nguồn gốc đất bố anh mua của ông H, sau đó
chuyển đổi cho bà B. Việc chuyển đổi với UBND thị trấn L như thế nào thì anh
không biết. Bà H kiện đòi đất và hủy bìa đỏ không đúng nên anh đề nghị Tòa
án trả lại công bằng cho anh và anh cho rằng bà H đã vu khống cho vợ chồng
anh.
* UBND thị trấn L trình bày ý kiến:
4
Nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và hồ sơ địa chính:Theo Bản đồ địa
chính Thị trấn L lập năm 2001:Thửa đất hiện bà Vũ Thị H, ông Vũ Duy D (anh
trai của bà Vũ Thị H) đang sử dụng trên bản đồ địa chính năm 2001, có nguồn
gốc là thửa 206, tờ bản đồ số 19, bản đồ địa chính lập năm 2001, loại đất: đất
ao, do UBND thị trấn quản lý. Năm 2002, UBND thị trấn L có Nghị quyết hội
nghị bàn về chuyển đổi đất thổ cư cho 2 hộ công dân khu A- giải tỏa công trình
nhà ở để mở đường WB2. Trong nội dung hội nghị: để mở rộng đường giao
thông phải giải phóng 2 hộ bà Vũ Thị B, ông Vũ Duy D, hội nghị thống
nhất:Thỏa thuận thu hồi 25 m2 đất của nhà bà B để mở rộng vòng cua ngã ba
đường đi L.Thỏa thuận thu hồi 57 m2 đất của nhà ông Vũ Duy D.Trả cho bà B
50 m2 đất về vị trí đất nhà ông Vũ Duy D để bà B sử dụng.Trả cho gia đình
ông D 200 m2 đất về vị trí đất ao UB phía giáp nhà ông T (là vị trí hiện nay
ông D, bà H đang sử dụng) với các cạnh sau:Phía Bắc giáp đường liên thôn
rộng 12m; Phía Nam giáp đất tập thể rộng 12m; Phía Tây giáp nhà ông Thì dài
16,7m; Phía đông giáp đất ao còn lại dài 16,7m.
Các gia đình tự tháo gỡ, vượt lập và di chuyển UBND không hỗ trợ kinh
phí mà chỉ trả bằng đất ở.
Năm 2009, tại phương án xử lý các trường hợp sử dụng đất không hợp
pháp tại quyết định số 1243/QĐ-UBND của UBND huyện ngày 15/8/2009:Bà
Vũ Thị H sử dụng thửa đất số 542 ( thửa cũ là thửa 206), tờ bản đồ số 19, BĐ
địa chính 2001, diện tích 133,0 m2. Trong đó: diện tích đất không hợp pháp là
58 m2, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính là 23.316.000 đồng, bà Vũ Thị H đã
hoàn thành nghĩa vụ tài chính và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Ông Vũ Duy D (anh trai bà H) sử dụng thửa đất số 526 ( thửa cũ là thửa 206),
tờ bản đồ số 19, bản đồ địa chính 2001, diện tích 220,0 m2. Trong đó: diện tích
đất không hợp pháp là 95 m2, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là 38.190.000 đồng, ông Vũ Duy D đã hoàn thành
nghĩa vụ tài chính và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy phần diện tích UBND thị trấn L đổi để mở rộng đường giao
thông trả cho ông Vũ Duy D 200 m2 đất ở, thì theo phương án xử lý trên: bà
Vũ Thị H sử dụng 75 m2, ông Vũ Duy Dương sử dụng 125 m2, và không phải
thực hiện nghĩa vụ tài chính.Ông Vũ Duy Dương đã chết, hiện nay ông Vũ Duy
D (con trai ông Dương) đang thừa kế sử dụng.
UBND thị trấn L đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xem xét, xét
xử vụ án theo đúng quy định của pháp luật đảm bảo quyền lợi cho người dân
cũng như an ninh trật tự của địa phương địa bàn.
* UBND huyện Y trình bày: Nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và hồ sơ
địa chính như nội dung UBND thị trấnL trình bày nêu trên;Hồ sơ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất: Hồ sơ cấp GCNQSD đất cho bà Vũ Thị H tại
thửa đất số 542, tờ bản đồ số 19, trong quá trình lưu giữ hồ sơ tại cơ quan do di
chuyển hồ sơ lưu trữ nhiều lần, việc bàn giao hồ sơ giữa các thế hệ tiếp cận qua
5
nhiều người do vậy hiện nay hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ Vũ Thị H hiện đang chưa tìm thấy.
Về hồ sơ cấp GCNQSD đất của ông Vũ Duy D và bà Vũ Thị Lan P tại
thửa đất số 526, tờ bản đồ số 19, huyện Y, gồm:Đơn xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông Vũ Duy D;Đơn đăng ký biến động của ông Vũ Duy
D; Văn bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế; Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất tên ông Vũ Duy D;Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên ông Vũ
Duy D;Các biên bản niêm yết công khai và kết thúc công khai ranh giới mốc
giới thửa đất tại thực địa; Trích lục bản đồ địa chính.UBND huyện Y đề nghị
Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xem xét, giải quyết vụ việc theo quy định của
pháp luật.
* Ông Vũ Duy Htrình bày như sau: Vào ngày 23/9/2022, ông là Vũ Duy
H, đang làm việc tại gia đình ông thì có chị Vũ Thị H sinh năm 1964 trú tại Tổ
2 khu A,thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định, con nhà bác Vũ Duy T, có đến
nhà ông H và nói ông ký hộ chị cái giấy tờ giáp ranh giữa các hộ gia đình với
nhau, ông thấy chị H nói vậy thì ông H bảo từ từ để em rửa tay xong vào ký,
sau đó ông vào hỏi chị H ký vào đâu chị H có đưa giấy cho ông ký và ông cũng
không đọc trong giấy của chị H viết những nội dung gì. Cho đến nay ông mới
biết chị H có nhờ ông ký không phải là giấy tờ giáp ranh giữa các hộ gia đình,
như chị H đã nói ban đầu với ông là ký vào giấy tờ là mua bán đất ở giữa ông
và chị H, xảy ra vào ngày 22/10/1998, và có dẫn ông ra UBND xã chứng thực.
Vào năm 1998 ông không nhớ ngày tháng, gia đình ông có mảnh đất ở không
sử dụng đến, với tổng diện tích là 48 m2 đất ở trong đó có 6 m đường và sâu 8
m, phía đông là giáp với gia đình nhà ông, phía tây là giáp với gia đình nhà bà
Bích, phía Nam giáp với đường cái, phía bắc giáp với nhà ông Giới, nên ông có
bán cho bác ông là Vũ Duy T, trú tại Tổ 2 khu A, thị trấn L, huyện Y, tỉnh
Nam Định với số tiền là 9.5000.000 đồng (chín triệu năm trăm nghìn đồng và
bác T có đưa cho ông tổng số tiền là 9.000.000 đồng(chín triệu đồng chẵn).
Sau đó ông và bác ông thỏa thuận viết giấy mua bán đất cho nhau. Chứ ông H
không bán cho chị ông là Vũ Thị H như trên ông đã trình bày, và ông H cũng
không bán cho anh ông là ông Vũ Duy D con bác Tươm Tổ 2 khu A, thị trấn L,
huyện Y, tỉnh Nam Định. Quá trình ông bán đất cho bác ông (T) và viết giấy tờ
mua bán đất ở chỉ có ông và bác T. Còn chị Vũ Thị H nói ông viết giấy tờ mua
bán đất cho chị H là không đúng sự thật.Và ông cũng không nhận tiền của chị
Vũ Thị H về việc mua bán đất ở xảy ra ngày 22/10/1998. Quan điểm của ông
việc bà H đòi đất là không thỏa đáng, không có căn cứ. Ông H kính mong
UBND thị trấn L và Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xem xét giải quyết cho
ông.
* Ông Vũ Xuân Q – Nguyên Chủ tịch UBND thị trấn L trình bày: Năm
2001, Đảng ủy – UBND- HĐND thị trấn L có chủ trương tuyên truyền đổi đất
để mở đường giao thông. Việc đổi đất của bà B cho bà H là có thật, diện tích
cụ thể ông không nắm được. Bà H chuyển sang sử dụng diện tích ao của cựu
chiến binh là bao nhiêu m2 ông không nắm được. Việc chuyển đổi đất giữa bà
6
H và bà B ông không có tài liệu nào lưu giữ. Ông khẳng định không lưu giữ
nghị quyết hội nghị nào cả mà chỉ có nhật ký ghi chép những nội dung làm
việc của riêng ông ngày 01/10/2002. Trong nghị quyết hội nghị của UBND thị
trấn L ngày 01/10/2002 không đúng về thành phần và thời gian hội nghị.
Tháng 6/2004, ông nghỉ chức vụ Chủ tịch, diễn biến quá trình sử dụng đất của
bà H ông không nắm được. Ngoài ra ông Quyết không trình bày gì khác.
Biên bản định giá tài sản ngày 24/7/2024 thể hiện những tài sản do vợ
chồng anh Vũ Duy D đang quản lý sử dụng gồm: 01 nhà mái bằng, khung bê
tông cốt thép xây dựng năm 2008 trị giá 357.650.000 đồng; Mái tôn trên nhà
mái bằng trị giá 43.227.000 đồng; 01 nhà bếp mái bằng, khung bê tông cốt thép
trị giá 86.536.000 đồng; Mái tôn trên nhà bếp trị giá 13.760.000 đồng; Lán bán
mái trị giá 73.120.000 đồng; Toàn bộ sân lát gạch đỏ trị giá 17.113.000 đồng;
Cổng và trụ cổng bê tông cốt thép trị giá 22.980.000 đồng; Toàn bộ tường bao
xây gạch bi trị giá 27.375.000 đồng; Gía trị quyền sử dụng đất tại thời điểm
định giá là 21.000.000 đồng/m2.
Tại phiên tòa, các đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan vẫn giữ nguyên quan điểm giải quyết như trình bày nêu trên. Ngoài ra các
đương sự không trình bày và đề nghị gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án:
-Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp
hành đúng và đầy đủ những quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
-Về nội dung:Đề nghị Hội đồng xét xửkhông chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của bà Vũ Thị H
-Về án phí các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng: Bà Vũ Thị H khởi kiện tranh chấp “Đòi quyền sử dụng
đất” và“Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Vũ Duy D và bà
Nguyễn Thị L” “Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh Vũ
Duy D và chị Vũ Thị Lan P”.Như vậy, theo quy định tạiĐiều 34 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 và khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015
thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định.
Quan hệ pháp luật giải quyết trong vụ án là “Tranh chấp đòiquyền sử dụng đất”
và “Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
[2] Về nội dung: HĐXX nhận định về từng yêu cầu khởi kiện.
[2.1] Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất.
7
Nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và hồ sơ địa chính:Theo Bản đồ địa
chính Thị trấn L lập năm 2001:Thửa đất hiện bà Vũ Thị H, ông Vũ Duy D (anh
trai của bà Vũ Thị H) đang sử dụng trên bản đồ địa chính năm 2001, có nguồn
gốc là thửa 206, tờ bản đồ số 19, bản đồ địa chính lập năm 2001, loại đất: đất
ao, do UBND thị trấn quản lý. Năm 2002, UBND thị trấn L có Nghị quyết hội
nghị bàn về chuyển đổi đất thổ cư cho 2 hộ công dân khu A- giải tỏa công trình
nhà ở để mở đường WB2. Trong nội dung hội nghị: để mở rộng đường giao
thông phải giải phóng 2 hộ bà Vũ Thị B, ông Vũ Duy D, hội nghị thống
nhất:Thỏa thuận thu hồi 25 m2 đất của nhà bà B để mở rộng vòng cua ngã ba
đường đi L.Thỏa thuận thu hồi 57 m2 đất của nhà ông Vũ Duy D.Trả cho bà B
50 m2 đất về vị trí đất nhà ông Vũ Duy D để bà B sử dụng.Trả cho gia đình
ông D 200 m2 đất về vị trí đất ao UB phía giáp nhà ông T (là vị trí hiện nay
ông D, bà H đang sử dụng) với các cạnh sau:
-Phía Bắc giáp đường liên thôn rộng 12m
-Phía Nam giáp đất tập thể rộng 12m
-Phía Tây giáp nhà ông Thì dài 16,7m
-Phía đông giáp đất ao còn lại dài 16,7m
Các gia đình tự tháo gỡ, vượt lập và di chuyển UBND không hỗ trợ kinh
phí mà chỉ trả bằng đất ở.
Năm 2009, tại phương án xử lý các trường hợp sử dụng đất không hợp
pháp tại quyết định số 1243/QĐ-UBND của UBND huyện ngày 15/8/2009:Bà
Vũ Thị H sử dụng thửa đất số 542 (thửa cũ là thửa 206), tờ bản đồ số 19, BĐ
địa chính 2001, diện tích 133,0 m2. Trong đó: diện tích đất không hợp pháp là
58 m2, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính 23.316.000 đồng, bà Vũ Thị H đã
hoàn thành nghĩa vụ tài chính và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Ông Vũ Duy D (anh trai bà H) sử dụng thửa đất số 526 ( thửa cũ là thửa 206),
tờ bản đồ số 19, Bản đồ địa chính 2001, diện tích 220,0 m2. Trong đó: diện
tích đất không hợp pháp là 95 m2, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là 38.190.000 đồng, ông Vũ Duy D đã hoàn
thành nghĩa vụ tài chính và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy phần diện tích UBND thị trấn L đổi để mở rộng đường giao
thông trả cho ông Vũ Duy D 200 m2 đất ở, thì theo phương án xử lý trên: bà
Vũ Thị H sử dụng: 75 m2, ông Vũ Duy D sử dụng 125 m², và không phải thực
hiện nghĩa vụ tài chính.Ông Vũ Duy D đã chết, hiện nay ông Vũ Duy D (con
trai ông D) đang thừa kế sử dụng.
Bà H trình bày nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất:Ngày 22 tháng 10
năm 1998 bà có mua mảnh đất của ông Vũ Duy H ở tổ 2, khu A, thị trấn L, Y,
Nam Định với diện tích là 6m mặt đường WB2, sâu 8m, tổng cộng là 48m2,đất
thổ cư với giá trị tiền là 9.500.000 đồng (Chín triệu năm trăm nghìn đồng) có
tứ cận như sau:phía nam giáp đường cái WB2, phía đông giáp nhà ông H, phía
tây giáp nhà bà B, phía bắc giáp nhà ông L. Hai bên đã mua bán thỏa thuận
8
xong, bà H đã giao tiền cho ông H đầy đủ và ông H đã giao đất cho bà Vũ Thị
H, bà đã sử dụng ổn định. Ngày 01 tháng 10 năm 2002, để thực hiện Nghị
quyết của UBND thị trấn L về việc chuyển đổi thổ cư cho các hộ dân ở Tổ 2,
khu A, thị trấn L, Y, Nam Định để lấy đất mở rộng đường liên thôn, do phần
đường mở rộng chiếm toàn bộ diện tích đất hộ bà B nên bà B được UBND thị
trấn L chuyển đổi ra đất ao hợp tác xã của Cựu chiến binh khu A giáp với
đường WB2. Bà Bích sống một mình nên hoàn cảnh khó khăn không có khả
năng kinh tế để vượt lập ao thành thổ nên UBND thị trấn L và các ban ngành
đã đến để vận động bà H tạo điều kiện cho bà B chuyển sang phần đất mà gia
đình bà đã mua của ông H và một phần diện tích cũ của bà với tổng giá trị diện
tích chuyển cho bà B là 48m2.
Ông Vũ Duy H trình bày: Vào ngày 23/9/2022, ông là Vũ Duy H, đang
làm việc tại gia đình ông thì có chị Vũ Thị H sinh năm 1964 trú tại Tổ 2 khu
A,thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định, con nhà bác Vũ Duy T, có đến nhà ông
H và nói ông ký hộ chị cái giấy tờ giáp ranh giữa các hộ gia đình với nhau, ông
thấy chị H nói vậy thì ông H bảo từ từ để em rửa tay xong vào ký, sau đó ông
vào hỏi chị H ký vào đâu chị H có đưa giấy cho ông ký và ông cũng không đọc
trong giấy của chị H viết những nội dung gì. Cho đến nay ông mới biết chị H
có nhờ ông ký không phải là giấy tờ giáp ranh giữa các hộ gia đình, như chị H
đã nói ban đầu với ông là ký vào giấy tờ là mua bán đất ở giữa ông và chị H,
xảy ra vào ngày 22/10/1998, và có dẫn ông ra UBND xã chứng thực. Vào năm
1998 ông không nhớ ngày tháng, gia đình ông có mảnh đất ở không sử dụng
đến, với tổng diện tích là 48 m2 đất ở trong đó có 6 m đường và sâu 8 m, phía
đông là giáp với gia đình nhà ông, phía tây là giáp với gia đình nhà bà B, phía
Nam giáp với đường cái, phía bắc giáp với nhà ông G, nên ông có bán cho bác
ông là Vũ Duy T, trú tại Tổ 2 khu A, thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam Định với số
tiền là 9.5000.000 đồng (chín triệu năm trăm nghìn đồng và bác T có đưa cho
ông tổng số tiền là 9.000.000 đồng (chín triệu đồng chẵn). Sau đó ông và bác
ông thỏa thuận viết giấy mua bán đất cho nhau. Chứ ông H không bán cho chị
ông là Vũ Thị H như trên ông đã trình bày, và ông Hcũng không bán cho anh
ông là ông Vũ Duy D con bác T Tổ 2 khu A, thị trấn L, huyện Y, tỉnh Nam
Định. Quá trình ông bán đất cho bác ông (T) và viết giấy tờ mua bán đất ở chỉ
có ông và bác T. Còn chị Vũ Thị H nói ông viết giấy tờ mua bán đất cho chị H
là không đúng sự thật. Và ông cũng không nhận tiền của chị Vũ Thị H về việc
mua bán đất ở xảy ra ngày 22/10/1998. Quan điểm của ông việc bà H đòi đất là
không thỏa đáng, không có căn cứ.
Ông Vũ Xuân Q – Nguyên Chủ tịch UBND thị trấn L trình bày: Năm
2001, Đảng ủy- UBND- HĐND thị trấn L có chủ trương tuyên truyền đổi đất
để mở đường giao thông. Việc đổi đất của bà B cho bà H là có thật, diện tích
cụ thể ông không nắm được. Bà Hương chuyển sang sử dụng diện tích ao của
cựu chiến binh là bao nhiêu m2 ông không nắm được. Việc chuyển đổi đất
giữa bà H và bà B ông không có tài liệu nào lưu giữ. Ông khẳng định không
9
lưu giữ nghị quyết hội nghị nào cả mà chỉ có nhật ký ghi chép những nội dung
làm việc của riêng ông ngày 01/10/2002.
HĐXX đánh giá chứng cứ: Bà H xuất trình bản phô tô giấy mua bán đất
của ông H ngày 22/10/1998 có xác nhận của UBND thị trấn L về chữ ký của
ông H ngày 23/9/2022 là không khách quan. Ông H khẳng định không có việc
bán đất cho bà H. Năm 2002, UBND thị trấn L đã thực hiện chủ trương đổi đất
mở đường giao thông theo đúng Nghị quyết hội nghị ngày 01/10/2002. Năm
2009, tại phương án xử lý các trường hợp sử dụng đất không hợp pháp tại
quyết định số 1243/QĐ-UBND của UBND huyện ngày 15/8/2009:Bà Vũ Thị H
sử dụng thửa đất số 542 (thửa cũ là thửa 206), tờ bản đồ số 19, bản đồ địa
chính 2001, diện tích 133,0 m2. Trong đó: diện tích đất không hợp pháp là 58
m2, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính 23.316.000 đồng, bà Vũ Thị H đã hoàn
thành nghĩa vụ tài chính và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Ông
Vũ Duy D (anh trai bà H) sử dụng thửa đất số 526 (thửa cũ là thửa 206), tờ bản
đồ số 19, bản đồ địa chính 2001, diện tích 220,0 m2. Trong đó: diện tích đất
không hợp pháp là 95 m2, phải thực hiện nghĩa vụ tài chính cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. 38.190.000 đồng, ông Vũ Duy D đã hoàn thành nghĩa
vụ tài chính và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Tại thời điểm bà
H thực hiện nghĩa vụ tài chính năm 2009 đối với điện tích đất không hợp pháp
là 58 m2 nhưng bà H không có ý kiến gì. Bà H trình bày, khi anh D còn sống
hứa sẽ trả tiền đất cho bà theo giá thị trường nhưng không cung cấp được tài
liệu chứng gì; Bà H trình bày ông Q là người còn lưu giữ tài liệu chuyển đổi
đất giữa bà và bà B nhưng ông Vũ Xuân Q – Nguyên Chủ tịch UBND thị trấn
L trình bày việc đổi đất của bà B cho bà H là có thật, diện tích cụ thể ông
không nắm được. Bà H chuyển sang sử dụng diện tích ao của cựu chiến binh là
bao nhiêu m2 ông không nắm được. Việc chuyển đổi đất giữa bà H và bà B
ông không có tài liệu nào lưu giữ; Thửa đất của ông Vũ Duy D (anh trai bà H)
sử dụng thửa đất số 526 ( thửa cũ là thửa 206), tờ bản đồ số 19, bản đồ địa
chính năm 2001, diện tích 220,0 m2. Qúa trình sử dụng đã được cấp bìa đỏ và
không có tranh chấp gì; Như vậy, bà H khởi kiện đòi quyền sử dụng đất đối với
thửa đất hiện nay vợ chồng anh Vũ Duy D đang quản lý, sử dụng nhưng không
cung cấp được nguồn gốc và quá trình sử dụng đất, các giấy tờ có giá trị pháp
lý liên quan giao dịch mua bán, chuyển nhượng. HĐXX quyết định không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.
[2.2] Yêu cầu “Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Vũ
Duy D và bà Nguyễn Thị L” và “Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
cho anh Vũ Duy D và chị Vũ Thị Lan P”.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Vũ Duy D và
bà Nguyễn Thị L đảm bảo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo qui định của
Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành; Việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho anh Vũ Duy D và chị Vũ Thị Lan P là do thoả thuận
phân chia di sản thừa kế; Như nhận định tại mục [2.1] HĐXX không chấp
10
nhậnyêu cầu khởi kiện đòi quyền sử dụng đất của bà Vũ Thị H nên yêu cầu
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được chấp nhận.
[4] Về án phí: Bà Vũ Thị H không được chấp nhận yêu cầu khởi kiện
nhưng thuộc trường hợp được miễn án phí. Chi phí tố tụng: Bà Vũ Thị H tự
nguyện nộp và không đề nghị giải quyết, HĐXX không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 266 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Toà án.
1.Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H đối với vợ chồng
anh Vũ Duy D về tranh chấp “Đòi lại quyền sử dụng đất”.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị H về việc: “Hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Vũ Duy D và bà Nguyễn Thị
L” và “Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh Vũ Duy D và chị
Vũ Thị Lan P”.
3. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm bà Vũ Thị H được miễn. Bà Vũ Thị
Hđã nộp 300.000 đồng tạm ứng tại biên lai thu tiền số 0004327 ngày
12/10/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Nam Định được trả lại.
4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được
quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TANDCC- VKSNDCC tại Hà Nội
- VKSND tỉnh Nam Định;
- CụcTHADS tỉnh Nam Định;
- Lưu: VT, Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Mai Anh Tuấn
11
Tải về
Bản án số 47/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 47/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Bản án số 988/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm