Bản án số 182/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 182/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 182/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 182/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp về quyền sử dụng đất và yêu cầu tháo dỡ tài sản gắn liền với đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 182/2025/DS-PT
Ngày 14 - 5 - 2025
V/v“Tranh chấp về quyền sử
dụng đất và yêu cầu tháo dỡ tài
sản gắn liền với đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHNGHĨA VIT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Phạm Thị Xuân Đào
Các Thẩm phán: Trần Thị Mỹ Hạnh
Bà Phan Thị Thu Hương
- Thư ký phiên tòa: Trần Thị Mỹ Thuận Thư Tòa án, Tòa án nhân
dân tỉnh Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa:
Vũ Thị Hồng Uyên- Kiểm sát viên.
Các ngày 08, 09, 12, 13, 14 tháng 5 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 209/2024/TLPT-DS
ngày 30 tháng 7 năm 2024 về việc: “Tranh chấp về quyền sử dụng đất và yêu cầu
tháo dỡ tài sản gắn liền với đất”.
Do bản án dân sự thẩm số 09/2024/DS-ST ngày 16/5/2024 củaTòa án
nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 221/2024/QĐ-PT ngày
07 tháng 8 năm 2024, Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 133/TB.TA ngày
10/4/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị C, sinh năm 1980;
Địa chỉ: 100/10 H, khu phố 2, phường T, thành phố Th, Thành phố Hồ Chí
Minh.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Hà Văn T, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Số 40, đường Z, tổ 8, ấp 1, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông T: Ông Ngọc Thiên H, sinh năm
1994 (Văn bản ủy quyền ngày 11/10/2022) ông Trần Văn Ng, sinh năm 2001
(Văn bản ủy quyền ngày 06/9/2024);
Cùng địa chỉ: Số 225/2, đường Đ, phường 15, quận B, Thành phố Hồ Chí
Minh.
2.2. Bà Trần Thị Minh H, sinh năm 1973;
Địa chỉ: Số 40, đường Z, tổ 8, ấp 1, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Huỳnh Thị Kh, sinh năm 1935;
Địa chỉ: Số 346, tổ 6, ấp 1, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Kh: Huỳnh Thị C, sinh năm 1980.
Địa chỉ: 100/10 H, khu phố 2, phường T, thành phố Th, Thành phố Hồ Chí
Minh (Văn bản ủy quyền ngày 05/8/2022).
3.2. Anh Trần Việt K1, sinh năm 1995 anh Trần Minh K2, sinh
năm 2000;
Cùng địa chỉ: Số 40, đường Z, tổ 8, ấp 1, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
3.3. Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ: khu phố 2, thị trấn V1, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang P Chủ tịch.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Giang Ch– Phó phòng Tài
nguyên Môi trường huyện V (văn bản ủy quyền ngày số 2453/UBND- NC
ngày 10/4/2023).
4. Người kháng cáo: ông Hà Văn T, bà Trần Thị Minh H Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm:
* Theo đơn khi kin, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án tại
phiên tòa nguyên đơn bà Huỳnh Thị C trình bày:
Về nguồn gốc đất: C được tặng cho thừa kế quyền sử dụng đất từ ba
mẹ là ông Huỳnh Văn Th và bà Huỳnh Thị Kh thửa đất số 4 và thửa đất số 16, tờ
bản đồ số 33 P, huyện V, tỉnh Đồng Nai, việc nhận tặng cho, thừa kế đúng pháp
luật không có tranh chấp đầy đủ giấy tờ hợp pháp theo giấy chứng nhận số
L223690 cấp ngày 12/10/1999 giấy chứng nhận số CA719899 cấp ngày
29/12/2015.
Quá trình sử dụng đất và xảy ra tranh chấp: thửa đất số 4 16 của bà C liền
kề với thửa đất số 5, tờ bản đồ số 33 P, huyện V, tỉnh Đồng Nai của ông
Văn T Trần Thị Minh H sử dụng, ranh giới giữa các thửa đất của 2 bên trước
đây là hàng cây dâm bụt. Vào thời điểm trước năm 2015, hai gia đình vẫn có mối
3
quan hệ hàng xóm, nhưng gia đình ông T nuôi heo nhiều xây chuồng heo sát
gần ranh giới nhà bà C, vi phạm vệ sinh môi trường. Gia đình đề nghị ông T
xử thời điểm này ông T bắt đầu phá hủy hàng dâm bụt để thực hiện xây dựng
hàng rào bằng đá và xi măng cao khoảng 1,8m. Sau khi ông T y dựng xong, gia
đình bà C phát hiện hàng rào ông T xây dựng bị sai lệch gia đình đề nghị
ông T xem xét nhưng ông T không đồng ý. Ngày 20/12/2019, gia đình bà có mời
Văn phòng đăng đất đai huyện V về đo đạc ranh giới lại thì ông Văn T
không hợp tác.
Sau nhiều lần nhắc nhở trên tinh thần hàng xóm mà ông T không thừa nhận
việc lấn chiếm đất, ngày 24/8/2020 bà làm đơn gửi Ủy ban nhân dân xã P để giải
quyết tranh chấp về việc lấn đất giữa bà và ông T. Ngày 11/11/2020 Ủy ban nhân
dân P thực hiện buổi hòa giải theo văn bản thông báo số 122/TB-UBND. Trong
buổi hòa giải, H chấp nhận đo đạc “xác định lại như trên bản đồ, đất đến đâu
thì xác định đến đó. Trường hợp mà phải đập bỏ hàng rào để xác định thì đề ngh
bên phải xây lại hàng rào đền bù thiệt hại”. Về phía gia đình không đồng
ý việc này nên hòa giải bất thành Ủy ban nhân dân P, huyện V, tỉnh Đồng
Nai.
Theo đơn khởi kiện C yêu cầu Tòa án buộc ông T, bà H phải trả lại phần
đất đã lấn chiếm có diện tích 367m
2
thuộc một phần thửa đất số 4 và 16 tờ bản đồ
số 33 P, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Buộc ông ông T, H phải tháo dỡ toàn bộ
hàng rào trả lại nguyên hiện trạng cho bà.
Ngày 05/8/2022, bà C có đơn khởi kiện bổ sung với yêu cầu buộc ông T,
H trả lại phần đất lấn chiếm có diện tích 384,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 4 và
16 tờ bản đồ số 33, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ bản trích lục và đo hiện
trạng khu đất bản đồ địa chính số 2765/2022 ngày 22/6/2022 phần đất được giới
hạn bởi các điểm (14, 15, f, c, 19, 7, d, e, 14).
* Đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Hà Văn T là ông Võ Ngọc Thiên
H và bị đơn bà Trần Thị Minh H trình bày:
- Về nguồn gốc đất:
Thửa đất số 5 tờ bản đsố 33 P, huyện V, tỉnh Đồng Nai ông T, H
đang sử dụng nguồn gốc do ông T, H nhận chuyển nhượng của Huỳnh
Thị Thu V từ năm 1994 (bà Huỳnh Thị Thu V và bà Huỳnh Thị C đều là con của
ông Huỳnh Văn Th). Thửa đất của ông T, bà H lúc mua là mua nguyên thửa, khi
mua đất đã ranh giới rõ ràng với ông Huỳnh Văn Th liền bên ở phía nam. Ranh
giới phía nam của thửa đất số 5 khi mua của V một phần giáp với thửa số
16 một phần giáp với thửa số 4 hiện nay của bà Huỳnh Thị C (trước đây là ông
Huỳnh Văn Th đứng tên). Khi mua đất thì được sự xác nhận đồng ý của ông
Huỳnh Văn Th và bà Huỳnh Thị Thu V về ranh giới đất là hàng mì đan bằng sợi
4
dây đen. Sau khi mua đất xong, để ổn định ranh giới giữa 2 bên, ông T, H đã
trồng xen kẽ hàng cây dâm bụt để làm ranh giới giữa thửa đất của ông T, H với
hai thửa đất số 4 và 16 của ông Th.
Ngày 12/10/1999, thửa đất của ông T, H được Ủy ban nhân dân huyện V,
tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L223661 theo hình thức
cấp đất tập trung đối với phần đất đang sử dụng là thửa số 5 tờ bản đồ số 33, diện
tích là 3254m
2
, còn diện tích thực tế cụ thể là bao nhiêu thì ông T, bà H không có
đo đạc, ông T, H chỉ căn cứ vào ranh giới đã xác định từ lúc mua đất với sự
xác nhận của V, ông Th để sử dụng đất ổn định suốt từ đó đến nay không
có tranh chấp.
Năm 2019, sau khi ông Huỳnh Văn Th chết thì Huỳnh Thị C được nhận
thừa kế thửa đất số 4 tờ bản đsố 33 do ông Th để lại, giáp ranh với gia đình ông
T, H. Cho đến khi xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà Huỳnh Thị C
với ông T, H tông T, H mới biết được thông tin cụ thể của các thửa đất
số 4 và số 16. Từ khi ông T, H sử dụng thửa đất năm 1994 cho đến khi ông Th
mất thì giữa hai bên không có bất cứ tranh chấp nào về đất đai liên quan đến thửa
số 5 của ông T, bà H và thửa số 4 và 16 của gia đình ông Th hay bà C.
- Về xác định ranh giới các thửa đất:
Ranh giới đã được xác định từ người sử dụng đất trước đây, V người bán
đất cho ông T. Tức là các đời chủ sử dụng đất từ trước đến nay đã thừa nhận ranh
giới với nhau từ năm 1990 đến nay là đã hơn 30 năm. Khi ông T mua đất của
V thì được V và ông Th xác định ranh giới, không tranh chấp và phù hợp với
ranh giới hiện nay. Điều này đã được nhiều người dân địa phương xác nhận như
ông Tr, ông T1, Tr2 là những cán bđịa phương sống từ lâu tại tại khu vực
này.
Năm 2008, ông T, H xây dựng phần tường rào phía nam thửa đất, mặt
trước giáp đường nhựa hiện nay, phía nam tường rào giáp thửa đất số 4 hiện nay
của C (khi xây dựng là giáp với đất của ông Th), chiều dài tường rào khoảng
hơn 20m. Khi ông T, bà H xây dựng tường rào thì cũng dựa vào ranh giới đất đã
xác định với cha con ông Th và bà V khi mua đất năm 1994, ông Th không có ý
kiến gì về việc ông T, bà H y dựng tường rào.
Năm 2014, ông Huỳnh Văn Th khiếu nại đến Ủy ban nhân dân xã P về việc
ông T, bà H gây ô nhiễm môi trường do chăn nuôi heo, yêu cầu ông T, bà H phải
xây tường rào để tránh gây ô nhiễm sang đất của ông Th. Việc khiếu nại đã được
Ủy ban nhân dân xã P hòa giải giữa hai bên, có lập biên bản giải quyết. Theo kết
quả giải quyết, gia đình ông T, H và gia đình ông Huỳnh Văn Th thống nhất
ông T, H sẽ xây tường rào bằng gạch xi măng trên phần đất của mình để
tránh gây ô nhiễm sang đất của ông Th. Khi xây dựng tường rào, ông T, bà H đã
chủ động xây thụt vào phía trong ranh giới lúc đó là hàng cây dâm bụt 0,2m để
5
hàng cây dâm bụt vùng đệm bảo vệ tường rào. Khi xây dựng tường rào, ông Th
thường xuyên giám sát và không ý kiến gì, thậm chí ông Th còn ủng hviệc
ông T, bà H xây dựng tường rào ranh giới giữa hai bên.
Tại buổi đo đạc do Văn phòng Đăng đất đai tỉnh Đồng Nai Chi nhánh
Vĩnh Cửu thc hin ngày 22/6/2022 C xác đnh ranh giới dài 79,66m là đúng
theo ranh gii gia hai bên t trước đến nay, tc là bà C cũng thừa nhận hơn một
nửa tường rào hin hu ranh gii gia hai bên. Ti phiên tòa C cũng thừa
nhn ch da vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định ông T lấn chiếm
đất, bà C không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh ông T lấn chiếm đất.
- Về yêu cầu khởi kiện của Huỳnh Thị C bị đơn ý kiến như sau: Bị đơn
đề nghị bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Huỳnh Thị C, công nhận phần đất
thuộc một phần thửa đất số 4 và 16 tờ bản đồ số 33 tại P, huyện V, tỉnh Đồng
Nai diện tích 384,4m
2
(43.7 + 5.3 + 166.2 + 0.4 + 167.5 + 0.3 + 1) vị trí (14,
15, f, c, 19, 7, d, e,14) chồng lấn sang thửa thửa đất số 5 tờ bản đồ số 33 tại xã P,
huyện V, tỉnh Đồng Nai cho bị đơn.
- Về yêu cầu phản tố bị đơn ông T đã có đơn xin rút toàn bộ yêu cầu phản tố
không yêu cầu tòa án giải quyết nữa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hà Trần Việt Khoa, anh
Trần Minh Khoa không có bn khai trình bày ý kiến.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện V, tỉnh
Đồng Nai trình bày:
- Ngày 28/10/1998, ông Huỳnh Văn Th có đơn đăng ký quyền sdụng đất
đối với thửa đất số 16, diện tích 4.000,4m², loại đất T+V, tbản đsố 33, xã P
nguồn gốc đất sang nhượng của Huỳnh Thị Thu V năm 1993. Đơn đăng của
ông Huỳnh Văn Th được UBND P ý kiến “đồng ý cấp giấy CNQSDÐ chính
thức” xác nhận ngày 24/5/1999 Phòng địa chính nhà đất ý kiến “được
cấp thửa đất số 16, tờ bản đố số 33, nhưng phải hoàn thành thủ tục chuyển quyền
SDĐ và nghĩa vụ tài chính theo quy định” ký xác nhận ngày 01/9/1999.
Ngày 12/10/1999, UBND huyện V ban hành Quyết định số 533/QÐ.UBH
cấp giấy CNQSDĐ đợt 1 gồm 256 trường hợp cá nhân, gia đình P, trong đó
trường hợp của ông Huỳnh Văn Th thửa đất số 16, diện tích 4.000,4m², loại đất
T+V, tờ bản đồ số 33, xã P cùng ngày 12/10/1999, UBND huyện cấp ký giấy
CNQSDĐ cho s L 223690 hộ ông Huỳnh Văn Th thửa đất số 16, diện tích
4.000.4m², loại đất T+V, tờ bản đồ số 33, xã P.
Đến ngày 03/10/2008, ông Huỳnh Văn Th Huỳnh Thị Kh tặng cho
QSDĐ cho bà Huỳnh Thị C thửa đất số 16, diện tích 4.000,4m
2
, loại đất T+V, tờ
bản đồ số 33, P đã được UBND xã P chứng thực ngày 03/10/2008. Ngày
6
26/11/2008, Văn phòng Đăng quyền sử dụng đất chỉnh biến động trang 4
giấy chứng nhận Huỳnh Thị C được toàn quyền sử dụng thửa đất số 16, diện
tích 4.000,4m
2
, loại đất T+V, tờ bản đồ số 33, xã P.
Việc UBND huyện V cấp giấy CNQSDÐ số L223690 ngày 12/10/1999 cho
hộ ông Huỳnh Văn Th thửa đất số 16, diện tích 4.000,4m
2
, loại đất T+V, tờ bản
đồ số 33, xã P đúng theo trình tự, thủ tục của Luật đất đai năm 1998.
- Ngày 06/7/2015, ông Huỳnh Văn Th và bà Huỳnh Thị Kh có đơn đăng ký
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 4, diện tích 398m², lọai đất CLN, tờ bản đ
số 33, P nguồn gốc đất khai phá năm 1993. Đơn đăng của ông Huỳnh
Văn Th được UBND P ký xác nhận ngày 21/10/2015 và Văn phòng Đăng
đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Vĩnh Cửu thẩm tra ngày 11/12/2015.
Ngày 24/12/2015, Phòng Tài nguyên Môi truờng tờ trình số 1358/TTr-
PTNMT về việc cấp giấy CNQSDÐ cho 38 thửa đất cho 17 hộ tại xã P, trong đó
trường hợp của ông Huỳnh Văn Th và Huỳnh Thị Kh thửa đất số 4, diện
tích 398m
2
, loại đất CLN, tờ bản đồ số 33, xã P. Đến ngày 29/12/2015, UBND
huyện cấp giấy CNQSDÐ số CA 719899 cho ông Huỳnh Văn Th và bà Huỳnh
Thị Kh thửa đất số 4, diện tích 398m
2
, loại đất CLN, tờ bản đồ số 33, xã P.
Ngày 18/02/2019, bà Huỳnh Thị C nhận thỏa thuận phân chia tài sản thừa kế
của ông Huỳnh Văn Th thửa đất số 4, diện ch 398m
2
, loại đất CLN, tờ bản đồ s
33, P đã đuợc UBND P chứng thực ngày 18/02/2019. Ngày 15/3/2019,
Văn phòng Đăng đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Vĩnh Cửu ký chỉnh biến
động trang 3 giấy chứng nhận cho bà Huỳnh Thị C được toàn quyền sử dụng thửa
đất số 4, diện tích 398m², loại đất CLN, tờ bản đồ số 33, xã P.
Việc UBND huyện V cấp giấy CNQSDÐ số CA719899 cho ông Huỳnh Văn
Th Huỳnh Thị Kh thửa đất số 4, diện tích 398m², loại đất CLN, tờ bản đồ
số 33, xã P đúng theo trình tự, thủ tục của Luật đất đai năm 2013.
Ti bn án dân s thm s 09/2024/DSST ngày 16/5/2024, Tòa án nhân
dân huyn V đã tuyên xử:
1. Chp nhn yêu cu khi kin ca Huỳnh Thị C tranh chp v quyn s
dụng đất yêu cu tháo d tài sn gn lin với đất đối vi ông Văn T,
Trần Thị Minh H.
1.1. Buc ông Hà Văn T, bà Trần Thị Minh H phải trả lại cho bà Hunh Th
C phần đất có diện tích là 384,4m
2
thuộc tha đất s 4 16 t bản đồ s 33 xã P,
huyn V, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ bản trích lục và đo hiện trạng khu đất bản đồ địa
chính số 2765/2022 ngày 22/6/2022 của Văn phòng Đăng đất đai tỉnh Đồng
Nai Chi nhánh Vĩnh Cửu v trí phần đất được gii hn bởi các đim (14, 15, f,
c, 19, 7, d, e,14).
7
1.2. Buộc ông Hà Văn T, Trần Thị Minh H phải tháo dỡ toàn bộ tài sản
gắn liền với đất gồm: 155,62m tường rào, v trí tường rào gii hn bởi các điểm
(14,15, f, c, 19, 7); cây trồng trên đất gồm: 02 cây mít, 01 cây bơ, 02 cây vú sa;
2. Đình chỉ yêu cu phn t ca b đơn ông Văn T v yêu cu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số L223690 do Ủy ban nhân dân huyện V cấp ngày
12/10/1999 tại thửa đất số 16 tờ bản đồ số 33 P, huyện V, tỉnh Đồng Nai
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA719899 do Ủy ban nhân dân huyện V
cấp ngày 29/12/2015 tại thửa đất số 04 tờ bản đồ số 33 xã P, huyện V, tỉnh Đồng
Nai.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quy định về thi
hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 23/5/2024, bị đơn ông Hà Văn T, Trần Thị Minh H đơn kháng
cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng
bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận phần đất tranh chấp là
của bị đơn.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng, từ khi thụ vụ án đến khi xét xử tại
phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa Hội đồng xét xthực hiện đúng quy định của
pháp luật. Các đương sự tham gia phiên tòa đảm bảo đúng thủ tục, quyền, nghĩa
vụ theo quy định.
Về việc giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp diện tích đất có
nguồn gốc của nguyên đơn được nhận thừa kế của cha mẹ, bị đơn cho rằng phần
đất tranh chấp là do bị đơn nhận chuyển nhượng của bà Huỳnh Thị Thu V từ năm
1994 quản sử dụng từ năm 1994 đến trước thời điểm Huỳnh Thị C tranh
chấp, hàng ranh phân định ranh giới hàng dâm bụt. Khi ông Huỳnh Văn Th còn
sống chia thừa kế cho Huỳnh Thị C thì ông Huỳnh Văn Th không tranh chấp
khiếu nại, chỉ khiếu nại việc ông nuôi heo ô nhiễm môi trường, UBND xã đã giải
quyết ông đã xây dựng tường rào để không ảnh hưởng đến môi trường, hàng
ranh phân định ranh giới hàng dâm bụt. Tại hồ khai đăng quyền sử
dụng đất của ông Văn T “Tờ cam kết” của Huỳnh Thị Thu V ngày
27/12/1994, V cam kết sau này nếu có ai tranh chấp sẽ hoàn toàn chịu trách
nhiệm. Quá trình giải quyết Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Huỳnh Thị Thu V
vào tham gia ttụng để làm V đã chuyển nhượng cho ông T diện tích như
thế nào, khi chuyển nhượng có đo đạc, chỉ ranh hay không. Ông T cho rằng ranh
giới giữa thửa đất số 5 của ông với thửa đất số 4, số 16 hàng ranh bằng dâm
bụt, bà C ng xác định đất có ranh giới là hàng rào dâm bụt. Tuy nhiên, tại Biên
bản xem xét thẩm định tại chỗ Tòa án đã không xem xét hàng rào dâm bụt vị trí
8
nào trên thửa đất. Tại đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung C yêu cầu ông
T bà H trả lại diện tích 384,4m
2
được giới hạn bởi các điểm (14,15,f,c,19,7,e,14)
theo Trích lục đo hiện trạng khu đất bản đđại chính s2765/2022 ngày
22/6/2022 của Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đồng Nai chi nhánh huyện V. Tuy
nhiên, theo Trích lục đo hiện trạng khu đất bản đồ đại chính số 2765/2022 ngày
22/6/2022 của Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đồng Nai chi nhánh huyện V tại
phần ghi chú chỉ xác định vị trí tranh chấp được giới hạn bời các điểm
(14,15,f,c,19,e,14) diện tích là 216,5m
2
, ngoài ra không xác định vị trí tranh
chấp được giới hạn bởi các điểm (14,15,f,c,19,7,e,14) diện tích 384,4m
2
, nhưng
lại được cấp thẩm giải quyết tuyên buộc bị đơn phải trả lại diện tích đất 384,4m
2
được giới hạn bởi các điểm (14,15,f,c,19,7,e,14) theo Trích lục đo hiện trạng
khu đất bản đồ địa chính số 2765/2022 ngày 22/6/2022 của Văn phòng đăng
đất đai tỉnh Đồng Nai chi nhánh huyện V thiếu căn cứ. Tại cấp phúc thẩm
HĐXX đã tạm ngừng phiên tòa để thu thập chứng cứ làm rõ. Ngày 20/01/2025,
Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh huyện V văn bản số
519/VPĐK.VC-ĐĐBĐ trả lời với nội dung “Ngày 22/6/2022 Văn phòng đăng
đất đai – Chi nhánh Vĩnh Cửu phát hành bản vẽ số 2765/2022. Theo đó, tại phần
ghi chú vị trí tranh chấp nội dung: Vị trí tranh chấp được giới hạn bi các
điểm (14,15,f,c,19,e,14) có diện tích (43.7+0.3+5.3+1.0+166.2) = 216.5m
2
.
Điểm d điểm nằm trong phần diện tích tranh chấp nhưng không nằm trên đường
ranh tranh chấp theo các điểm (14,15,f,c,19,e,14). Cụ thể điểm d không nằm
trên đường thẳng nối các điểm 19,e,14 (có khu đo phóng nới kèm theo). Đối với
các điểm (7,d,19,7) theo bản vẽ đã phát hành không tạo thành một vùng khép kín
nên không xác định được diện tích”. Mặc dù cấp phúc thẩm đã khắc phục nhưng
với kết quả trả lời trên của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai chi nhánh
Vĩnh Cửu thì chưa căn cứ xác định ranh mốc diện tích tranh chấp đgiải quyết.
Đối với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa số 5 cho ông T H
năm 1999, thửa số 16 cho ông Th Khuê năm 1999, cấp sơ thẩm chưa xác minh
thu thập chứng cứ đối với UBND huyện V vviệc UBND huyện khi cấp giấy
chứng nhận QSD đất cho ông T H cấp cho ông Th Khuê thì đo đạc
thửa đất không, có ký giáp ranh không hay chỉ cấp dựa trên sự kê khai của người
dân, thửa số 4 cấp cho ông Th Khuê năm 2015 thời điểm này ông T đã xây
dựng tường rào ngăn cách giữa 03 thửa đất thì UBND huyện V xuống thực địa
để đo đạc giáp ranh không lại cấp cho ông Th Khuê phần diện tích
qua tường rào mà ông T đã xây dựng.
Tại phiên tòa thẩm ngày 16/5/2024, phần thủ tục thẩm phán chủ tọa phiên
tòa chỉ hỏi nguyên đơn thay đổi bổ sung, rút một phần yêu cầu khởi kiện không,
còn đối với bị đơn, cấp thẩm không hỏi người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn về việc còn giữ nguyên việc rút yêu cầu phản tố không vì bị đơn đơn
9
yêu cầu phản tố vviệc hủy giấy chứng nhận QSD đất do UBND huyện V cấp
cho ông Huỳnh Văn Th và Huỳnh Thị Kh đối với thửa số 4 và thửa số 16 t
bản đồ số 33 xã P huyện V, tỉnh Đồng Nai, tuy nhiên ngày 21/3/2023, Tòa án đã
lập Biên bản hòa thành do các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông T đã có đơn rút đơn
yêu cầu phản tố lý do các bên đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án. Ngày 25/3/2024, nguyên đơn C đơn thay đổi ý kiến không đồng ý hòa
giải đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Bị đơn ông T H liên tục đơn yêu
cầu Tòa án ra quyết định công nhận hòa giải thành. Như vậy, lẽ ra HĐXX phải
hỏi ông Hào là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và hỏi bà H do các
bên không hòa giải được với nhau về việc giải quyết vụ án thì bị đơn rút đơn
yêu cầu phản tố nữa không hay vẫn yêu cầu phản tố về việc hủy giấy, Mặc dù tại
phần tranh tụng bị đơn trình bày bị đơn đã rút yêu cầu phản tkhi Tòa án thực
hiện hòa giải thành. Tại phiên tòa sơ thẩm phần các đương sự hỏi nhau, đại diện
bị đơn hỏi nguyên đơn nhiều câu hỏi nhưng nguyên đơn đều từ chối trả lời
nhưng HĐXX không hỏi lại để làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án.
Tòa án cấp thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, bỏ sót bà Huỳnh
Thị Thu V là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, thu thập chứng
cứ chưa đầy đủ, nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
chưa đủ sở vững chắc cho việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Nên việc kháng cáo của bđơn ông Văn T Trần Thị Minh H đề nghị
sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn thì cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết sẽ được xem xét giải quyết
lại ở cấp sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Hà Văn T, bà Trần Thị Minh H làm
trong hạn luật định, đóng tạm ứng án phí đúng quy định nên được xem xét theo
thủ tục phúc thẩm.
[2] Về yêu cầu kháng cáo của bị đơn: Ông T, bà H đề nghị Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án dân sự thẩm số 09/2024/DS-ST ngày 16/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện V theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
công nhận phần đất tranh chấp của bị đơn.
Về nội dung: Nguồn gốc thửa đất số 16, tờ bản đồ số 33, diện tích 4.000,4m
2
P, huyện V được y ban nhân dân huyện V cấp Giấy chứng nhận quyền sử
10
dụng đất số L223690 ngày 12/10/1999 cho ông Huỳnh Văn Th. Ngày 03/10/2008,
ông Huỳnh Văn Th và bà Huỳnh Thị Kh tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất trên
cho Huỳnh Thị C. Ngày 26/11/2008, Văn phòng đăng quyền sdụng đất
chỉnh biến động trang 4 giấy chứng nhận cho Huỳnh Thị C. Thửa đất s4
tờ bản đồ số 33 xã P, huyn V, tỉnh Đồng Nai diện tích 398m
2
được Ủy ban nhân
dân huyện V, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA
719899 ngày 29/12/2015 cho ông Huỳnh Văn Th. Ngày 15/3/2019 được cập nhật
chỉnh lý sang tên cho bà Huỳnh Thị C do được thừa kế.
Nguồn gốc thửa đất số 5 tờ bản đồ số 33P, huyn V, tỉnh Đồng Nai diện
tích 3.254m
2
là do ông Hà Văn T, Trần Thị Minh H nhn chuyển nhượng ca
Hunh Th Thu V từ năm 1994. Ông T, bà H
đã đưc Ủy ban nhân dân huyện
V, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L223661 ngày
12/10/1999.
Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện:
Thời điểm ông Huỳnh Văn Th đăng khai quyền sử dụng đất đối với
thửa 16 tbản đồ số 33 diện tích 4.000m
2
nguồn gốc chuyển nhượng từ
Huỳnh Thị Thu V vào năm 1993 và đăng ký kê khai 1998 và thửa số 4 tờ bản đồ
33 diện tích 398m
2
do khai phá năm 1993 và đăng ký vào năm 2015. Thời điểm
này cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo danh sách cấp đại trà, không đo
vẽ thực tế và ký giáp ranh, cấp dựa trên sự kê khai của người dân.
Quá trình sử dụng đất bđơn nhận chuyển nhượng từ năm 1994 của
Huỳnh Thị Thu V (bà Huỳnh Thị Thu V bà Huỳnh Thị C đều con của ông
Huỳnh Văn Th). Thửa đất của ông T, bà H lúc mua là mua nguyên thửa, khi mua
đất đã có ranh giới ràng với ông Huỳnh Văn Th, trong quá trình sử dụng đất từ
khi chuyển nhượng ông T, H là người trực tiếp quản lý sử dụng từ năm 1994
và khi xây dựng hàng rào lúc đó ông Th bà V cũng sinh sống bên cạnh đất tranh
chấp. Đến khi C được ông Th, Khuê tặng cho quyền sdụng đất đối với
thửa số 4 vào năm 2019 thì cũng làm thủ tục trên giấy tờ, không đo đạc thực địa
để ký xác định ranh bản đồ địa chính. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn và b
đơn đều xác định khi gia đình ông T xây hàng rào không có khiếu nại. Nên việc
nguyên đơn yêu cầu khởi kiện phần diện tích diện tích 384,4m
2
thuộc một phần
thửa số 4 và thửa số 16, tờ bản đồ số 33 tại xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai và tháo
dỡ tài sản trên đất không sở. Nên việc kháng cáo của ông T, H
cơ sở. Do đó, sửa toàn bộ án sơ thẩm.
[3] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được
chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu chi phí tố tụng stiền 17.576.179 đồng (mười
bảy triu, m trăm bảy ơi u ngn, một trăm bảy ơi chín đồng). (Đã nộp
xong)
11
[4]. Về án phí: Bị đơn ông Văn T, Trần Thị Minh H không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm. Huỳnh Thị C phải chịu 300.000đ án phí dân s
thẩm.
[5] Quan điểm của đại diện Kiểm sát viên đề nghị hủy án thẩm là không
cần thiết và không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự,
Chấp nhận kháng cáo của ông Hà Văn T, bà Trần Thị Minh H.
Sửa toàn bộ bản án thẩm số 09/2024/DS-ST ngày 16/5/2024 của Tòa án
nhân dân huyện V, tỉnh Đồng Nai.
Áp dụng Điu 164; Điều 166 ca Bộ luật Dân s 2015;
Áp dụng Điu 203 ca Luật đất đai 2013;
Áp dụng Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 ca Ủy ban
Thưng vụ Quốc hội quy định về mức thu, min, giảm, thu, nộp, quản sử dụng
án phí lệ phí a án:
Tuyên xử:
1. Không chp nhn yêu cu khởi kin ca bà Huỳnh Thị C tranh chấp về việc
“Tranh chấp vquyền sử dụng đất yêu cầu tháo dỡ tài sản gắn liền với đất” đối
với ông Hà Văn T, Trần Thị Minh H.
2. Đình chyêu cu phn tcủa bị đơn ông n T về u cầu hủy giấy
chng nhận quyn sử dụng đt số L223690 do Ủy ban nhânn huyện V cấp ngày
12/10/1999 tại thửa đất số 16, tờ bản đồ số 33 tại xã P, huyn V, tỉnh Đồng Nai
giy chng nhận quyền sử dụng đất số CA719899 do Ủy ban nhân n huyn V cấp
ngày 29/12/2015 tại thửa đất s 04 t bản đ s 33 P, huyn V, tỉnh Đồng Nai.
3. Về chi phí tố tụng: Buộc Hunh Thị C phải chu số tin 17.576.17
chi phí tố tụng (mười bảy triu,m trăm bảyơi sáu nghìn, một trăm bảy mươi
chín đồng). ã nộp xong)
4. Về án phí:
Huỳnh Thị C phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đng) án phí n sự
thm. Đưc nh tr tạm ứng án phí C đã nộp 2.500.00 939.000đ tại Biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 00006484, 0004488 ngày 23/4/2021 ngày
05/8/2023 của Chi cục Thi hành ánn sự huyện V, tỉnh Đồng Nai. Số dư hoàn tr
cho bà Huỳnh Thị C 3.139.000đ.
Hoàn trả lại cho ông Văn T 900.000đ (cn trăm ngn đồng) tạm ng án
phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004666, 0004667,
12
0009591 ngày 04/11/2022 ngày 03/6/2024 của Chi cục Thi nh án dân sự huyện
V, tnh Đồng Nai; Hoàn tr cho Trn Th Minh H 300.000đ (ba trăm ngn đồng)
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí a án số 0009600
ngày 05/6/2024 ca Chi cc Thi nh án n sự huyn V, tỉnh Đồng Nai.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Đồng Nai;
- VKSND huyện V;
- TAND huyện V;
- Chi cục THADS huyện V;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, VP, TP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Xuân Đào
Tải về
Bản án số 182/2025/DS-PT Bản án số 182/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 182/2025/DS-PT Bản án số 182/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất