Bản án số 435/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 435/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 435/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 435/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nơi nhận
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 435/2025/DS-PT
Ngày: 26-9-2025
V/v Tranh chấp xác định quyền sở hữu
tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thế Phương
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Lê Phan Công Trí
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thúy Nguyên, là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Thúy Hồng - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 315/2025/TLPT-DS ngày 27 tháng 8
năm 2025, về việc “Tranh chấp xác định quyền sở hữu tài sản”.
Do bản án dân sự thẩm số: 02/2025/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2025
của Tòa án nhân dân khu vực 1 Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 360/2025/QĐ-PT ngày 29 tháng 8
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964; CC số 096064004998 cấp ngày
03/10/2024 (có mặt).
2. Đỗ Thị P, sinh năm 1966; CC số 096166005774 cấp ngày 19/8/2024
(có mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp C, xã K, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn:
1. Ông Trần Quốc T, sinh năm 1968; CCCD số 096068002249 cấp ngày
5/4/2023 (vắng mặt).
2. Hồ Thị G, sinh năm 1969; CCCD số 096169011320 cấp ngày
15/12/2021(có mặt).
2
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp T, phường H, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Phòng Thi hành án dân sự khu vực 1 Mau; Địa chỉ: Số C, đường H,
phường T, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
2. Nguyễn Thị Ú, sinh năm 1941; Địa chtrú: Ấp T, phường H, tỉnh
Cà Mau (vắng mặt).
3. Ông Văn T1 (Thâm); Địa chtrú: Ấp T, phường H, tỉnh Mau
(vắng mặt).
4. Anh Trần T2, sinh năm 2000 (vắng mặt).
5. Chị Trần Nhựt T3, sinh năm 1994 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp T, phường H, tỉnh Cà Mau.
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn H, bà Đỗ Thị P (là nguyên đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Bản án dân sự thẩm số: 218/2019/DS- ST ngày 28/11/2019, Tòa án
nhân dân thành phố Mau giải quyết buộc ông Trần Quốc T, bà Hồ Thị G
nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông Nguyễn Văn H, bà Đỗ Thị P số tiền
243.000.000 đồng. Sau khi Bản án hiệu lực pháp luật, ông Nguyễn Văn H, bà
Đỗ Thị P yêu cầu thi hành án. Quá trình xác minh điều kiện thi hành án của ông
Trần Quốc T, Hồ Thị G thể hiện, ông Trần Quốc THồ Thị G có tài sản là
căn nhà được xây dựng trên phần đất diện tích 60,8m
2
thuộc thửa số 63, tờ bản đồ
số 15 do ông Văn T1 đứng tên sổ mục kê. Ông Văn T1 cho rằng phần đất
trên là của ông Văn T1, ông chỉ cho Nguyễn Thị Ú (mẹ của ông Trần Quốc
T) sử dụng vào mục đích để ở, không được sang bán. Còn Nguyễn Thị Ú xác
định phần đất trên thuộc đất bảo lưu ven sông, đã được vợ chồng ông Văn
T1, Hồng Thị K cho đã sử dụng ổn định từ năm 2007, chỉ cho vợ
chồng ông Trần Quốc T, Hồ Thị G mượn đất để cất nhà nên phần đất trên
không phải của vchồng ông Trần Quốc T. Còn đối với tài sản gắn liền với đất
căn nhà tiền chế diện tích nhà 138,4m
2
(được cất trên phần đất) thuộc quyền sở
hữu của vợ chồng ông Trần Quốc T, Hồ Thị G. quan Thi hành án dân sự
thông báo cho những người có liên quan khởi kiện xác định quyền sử dụng đối với
phần đất tranh chấp.
Ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P khởi kiện yêu cầu công nhận quyền sử
dụng đất theo đo đạc thực tế có diện tích 105,3m
2
thuộc thửa số 63, tờ bản đồ số 15
căn nhà gắn liền với đất diện tích nhà 138,4m
2
của ông Trần Quốc T, Hồ
Thị G để cơ quan thi hành án kê biên, phát mãi thu hồi nợ cho ông Nguyễn Văn H,
Đỗ Thị P.
Nguyễn Thị G1 xác định, diện tích đất tranh chấp của mẹ chồng
Nguyễn Thị Ú cho vợ chồng mượn để xây dựng nhà ở. Căn nhà gắn liền với
đất tranh chấp thuộc sở hữu của vợ chồng (ông Trần Quốc T, Hồ Thị G)
3
nhưng 01 vách nhà sử dụng nhờ của hộ liền kề của ông Trần Hoàng V. Nay
Hồ Thị G thống nhất việc quan Thi hành án biên căn nhà để thi hành án
cho ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P. Không đồng ý biên đối với quyền sử
dụng phần đất diện tích 60,8m
2
(theo đo đạc thực tế diện tích 105,3m
2
) thuộc
thửa số 63, tờ bản đồ số 15 đó tài sản của Nguyễn Thị Ú, không phải tài
sản của ông Trần Quốc T và bà Hồ Thị Thị G.
Nguyễn Thị Ú xác định: Nguồn gốc phần đất theo đo đạc thực tế
105,3m
2
của cụ Châu Thị T4 (chết năm 1962 ngoại của Nguyễn Thị Ú)
tặng cho từ khi còn chung với cụ Châu Thị T4 được quản đất, sử
dụng đất. Năm 2007, vợ chồng ông Lê Văn T1, Hồng Thị K đã lập giấy cho đất
cho bà, xác nhận của chính quyền địa phương. Phần đất trên cho con trai
ông Trần Quốc T mượn đất để cất nhà ở. Nay không đồng ý yêu cầu khởi kiện
của ông Nguyễn Văn H, bà Đỗ Thị P.
Chị Trần Nhựt T3 xác định có sử dụng số tiền 25.000.000 đồng để xây dựng
vách ngăn phòng căn nhà của ông Trần Quốc T, bà Hồ Thị G. Chị không đồng ý
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trường hợp, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn thì chị không có yêu cầu gì đối với số tiền trên.
Tại Biên bản về việc hòa giải tranh chấp đất đai ngày 9/9/2022, ông Lê Văn
T1 (Thâm) xác định phần đất đang tranh chấp ông chỉ cho Nguyễn Thị Út M
ở, không được sang bán. Quá trình tố tụng tại tòa án cấp thẩm, ông Văn T1
vắng mặt, không có yêu cầu độc lập.
Theo bản trích đo hiện trạng ngày 25/4/2025 của Chi nhánh Công ty TNHH
T7 tại Mau xác định phần đất tranh chấp diện tích 105,3m
2
thuộc một phần
thửa 63 trên bản đồ địa chính. Tổng diện tích xây dựng nhà 141,5m
2
(trong đó
có 3,1m
2
thuộc phạm vi hành lang lộ giới).
Trên sở khảo sát, đo đạc, xác minh tài sản thi hành án đã xác định phần
đất từ ranh giới hành lang lộ giới đến ranh giới đất ven sông diện tích 60,8m
2
.
Tại Công văn số 488/CCTHADS ngày 21 tháng 11 năm 2023 của Chi cục Thị
hành án dân sự thành phố C đề nghị Tòa án công nhận phần đất thuộc thửa số 63,
tờ bản đồ số 15, diện tích 60,8m
2
do ông Lê Văn T1 đứng tên sổ mục kê là của ông
Trần Quốc T, bà Hồ Thị G để đảm bảo cho việc thi hành án.
Tại Công văn số: 08/CNVPĐKĐĐ ngày 4/02/2020 của Chi nhánh Văn
phòng Đăng đất đai thành phố C xác định: Thửa đất số 63, tờ bản đồ số 15, tọa
lạc tại H, thành phố C theo bản đồ sổ mục năm 2009 do ông Văn T1
đứng tên sổ mục kê, diện tích 223,60m
2
, chưa kê khai đăng ký biến động khác. Đối
với tài sản gắn liền với đất sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu khi đủ điều
kiện theo quy định tại Điều 31 và Điều 32 Nghị định số: 43/2014/NĐ CP.
Tại bản án dân sự thẩm số: 02/2025/DS-ST ngày 03/7/2025 của Tòa án
nhân dân khu vực 1 Cà Mau đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị
P. Công nhận phần kiến trúc căn nhà xây dựng trên phần đất diện tích 138,4m
2
toạ lạc tại ấp T, xã H, tỉnh Cà Mau của ông Trần Quốc T, Hồ Thị G.
4
Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn H Đỗ Thị P vcông
nhận phần đất diện tích 105,3m
2
toạ lạc tại ấp T, H, tỉnh Mau của ông
Trần Quốc T, bà Hồ Thị G.
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về chi ptố tụng, án phí quyền kháng
cáo bản án theo luật định.
Ngày 17/7/2025, ông Nguyễn Văn H Đỗ Thị P kháng cáo một phần
bản án thẩm. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án Bản án thẩm, chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H, bà Đỗ Thị P.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo, không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ
án; của Hội đồng xét xnhững người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P, giữ nguyên bản án dân
sự thẩm số: 02/2025/DS-ST ngày 03/7/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1
Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P được thực hiện trong
hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét về nội dung việc tranh chấp, phạm vi kháng cáo cho thấy: Ông Trần
Quốc T, Hồ Thị G người nghĩa vụ thi hành án trong việc trả số tiền
243.000.000 đồng cho ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P theo Bản án dân s
thẩm số: 218/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố
Mau. Quá trình xác minh tài sản để thi hành án, cơ quan Thi hành án dân sự đã xác
định tài sản của người phải thi hành án gồm một căn nhà tiền chế diện tích nhà
138,4m
2
được xây cất trên phần đất theo đo đạc thực tế là 105,3m
2
, tọa lạc tại ấp T,
H, tỉnh Mau. Ông Trần Quốc T, Hồ Thị G xác định căn nhà là tài sản
thuộc sở hữu của vợ chồng ông Trần Quốc T đồng ý đưa tài sản trên vào việc
thi hành án, còn lại phần đất không thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Trần
Quốc T đất của Nguyễn Thị Ú (mẹ của ông Trần Quốc T). Không thống
nhất với lời trình bày của ông Trần Quốc T, Hồ Thị G nên ông Nguyễn Văn H,
Đỗ Thị P khởi kiện yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất diện tích 105,3m
2
căn nhà diện tích 138,4m
2
là của ông Trần Quốc T, bà Hồ Thị G.
Từ sự thừa nhận của ông Trần Quốc T, Hồ Thị G, Toà án cấp thẩm
công nhận căn nhà thuộc quyền sở hữu của ông Trần Quốc T, Hồ Thị G
căn cứ. Riêng đối với phần đất 105,3m
2
không được công nhận quyền sử dụng cho
ông Trần Quốc T, Hồ Thị G nên ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P kháng cáo
yêu cầu sửa một phần Bản án thẩm, công nhận quyền sử dụng đất diện tích
105,3m
2
là của ông Trần Quốc T, bà Hồ Thị G.
Qua diễn biến của quá trình sử dụng đất và tài liệu chứng cứ thu thập được
5
cho thấy, phần đất theo đo đạc thực tế diện tích 105,3m
2
, tọa lạc tại ấp T,
H, tỉnh Mau đã được Nguyễn Thị Ú quản lý, sử dụng từ trước năm 2007
theo Nguyễn Thị Ú cho rằng nguồn gốc đất của ngoại của cụ Châu
Thị T4. Sau khi cụ Châu Thị T4 chết thì bà Nguyễn Thị Ú sống cùng người cậu tên
Hồng Văn M1 (là cha của Hồng Thị K). Trước năm 1975, cụ Hồng Văn M1
đã cho bà một phần diện tích đất để ngang 6m, dài 25 mét đã quản lý, sử
dụng cất nhà nhưng sau đó thì vợ chồng Hồng Thị K, ông Văn T1 lấy lại
đất nên di dời nhà xuống tại phần đất ven sông (vị trí đất hiện nay) cất nhà
sinh sống. Năm 2007, ông Lê Văn T1, Hồng Thị K đã lập giấy tờ cho
phần đất như đã nêu trên. Năm 2013, cho con của bà là ông Trần Quốc T mượn
đất để cất nhà chứ bà không cho đất. Sau khi ông Trần Quốc T cất nhà xong
một thời gian thì bà cùng chung sống với vợ chồng ông Trần Quốc T, bà Hồ Thị G
cho đến nay.
Theo thừa nhận của các đương sự thì phần đất trên đang do ông Văn T1
đăng khai đứng tên trên sổ mục địa chính. Ông Văn T1 cũng đã
ý kiến tranh chấp với Nguyễn Thị Ú việc tranh chấp đã được Ủy ban nhân
dân H hòa giải vào ngày 09/9/2022. Bên cạnh đó, Nguyễn Thị Ú còn được
ông Văn T1, Hồng Thị K lập “Tờ cho đất” vào ngày 25/11/2007, phần đất
tặng cho chiều ngang 9m, chiều dài từ lộ Hoà Thành đến sông H, tờ cho đất này có
xác nhận của vợ chồng ông Văn T1, chính quyền ấp T chứng thực của Ủy
ban nhân dân H. Tại biên bản xem xét thẩm định ngày 08/8/2023, đại diện
quan quản đất đất đai địa phương xác định phần đất đang tranh chấp trên thuộc
đất bảo lưu ven sông, không cấp quyền sử dụng cho người sử dụng đất.
Ngoài các tài liệu, chứng cứ nêu trên thì không còn tài liệu, chứng cứ nào
để chứng minh quyền sử dụng đối với phần đất 105,3m
2
của vợ chồng ông Trần
Quốc T, bà Hồ Thị G. Ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P1 chỉ xác định phần đất do
vợ chồng ông Trần Quốc T sử dụng ổn định, lâu dài nên thuộc quyền sdụng của
vợ chồng ông Trần Quốc T không phù hợp với diễn biến, nội dung vụ việc
cũng không đúng với qui định tại các Điều 100, 101 của Luật đất đai. Trong khi bà
Nguyễn Thị Ú chứng minh đất được cho, vợ chồng ông Trần Quốc T chỉ được
cho mượn đất cất nhà tnăm 2013 và kể cả khi cất nhà thì Nguyễn Thị Ú
cũng người cùng nhà với vợ chồng ông Trần Quốc T. Từ đó, Tòa án cấp
thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc công nhận quyền sử dụng
đất cho ông Trần Quốc T, Hồ Thị G phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông
Nguyễn Văn H, bà Đỗ Thị P cho rằng vợ chồng bà Hồ Thị G có giao dịch hụi ở địa
phương, cầm cố tài sản cũng cam kết nếu không thực hiện nghĩa vụ thì bán
nhà, đất để trả nên từ đó chứng minh phần đất thuộc quyền sử dụng của vợ chồng
Hồ Thị G. Xét qua ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa phúc thẩm thì không có
chứng cứ để công nhận các giao dịch dân sự được vợ chồng Hồ Thị G thực
hiện địa phương cũng như nội dung cam kết trả nợ không phải căn cứ để xác
định quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Trần Quốc T, bà Hồ Thị G.
[3] Từ các căn cứ trên, không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn
H, Đỗ Thị P. Giữ nguyên bản án dân sthẩm số: 02/2025/DS-ST ngày 03
tháng 7 năm 2025 của Tòa án nhân dân khu vực 1 Cà Mau.
6
[4] Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau phù hợp với
nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Ông Nguyễn Văn H là người cao tuổi nên được miễn án pdân sự
phúc thẩm. Bà Đỗ Thị P phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo qui định chung.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P.
Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số: 02/2025/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2025
của Tòa án nhân dân khu vực 1 Cà Mau.
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, điểm b khoản 2 Điều
227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 158, 159, 160
của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 203 của Luật đất đai; điểm a khoản 3 Điều 27
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án;
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ông Nguyễn Văn H và bà Đỗ
Thị P. Công nhận phần kiến trúc căn nhà diện tích xây dựng 138,4m
2
tọa lạc tại
ấp T, H, tỉnh Mau (tại bản trích đo hiện trạng ngày 25/4/2025 của Công ty
TNHH T7) thuộc quyền sở hữu của ông Trần Quốc T và bà Hồ Thị G (Trong đó có
một phần vách nhà sử dụng nhờ của ông Trần Hoàn V1 không thuộc quyền sở hữu
của ông Trần Quốc T, bà Hồ Thị G).
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn H, bà Đỗ Thị P về việc
công nhận phần đất diện tích 105,3m
2
được xác định vị t tại các mốc
M1M2M3M4 (bản trích đo hiện trạng ngày 25/4/2025), tọa lạc tại ấp T, xã H, tỉnh
Cà Mau thuộc quyền sử dụng của ông Trần Quốc T và bà Hồ Thị G.
(Kèm theo bản trích đo hiện trạng ngày 25/4/2025 của Công ty TNHH T7
đo đạt bản đồ Tấn C).
- Về chi phí tố tụng 4.500.000 đồng đã được ông Nguyễn Văn H, Đỗ
Thị P nộp xong. Ông Nguyễn Văn H, Đỗ Thị P ông Trần Quốc T, Hồ Thị
G mỗi bên phải chịu 2.250.000 đồng. HThị G, ông Trần Quốc T phải trả lại
cho ông Nguyễn Văn H, bà Đỗ Thị P 2.250.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được
quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
- Án phí dân sự thẩm: Ông Nguyễn Văn H Đỗ Thị P phải chịu
300.000 đồng, được đối trừ số tiền tạm ứng do bà Đỗ Thị P dự nộp 300.000 đồng
tại biên lai số 0010089 ngày 31/12/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Mau. Ông Trần Quốc T Hồ Thị G phải chịu án phí dân sự thẩm
7
300.000 đồng.
3. Ông Nguyễn Văn H được miễn án phí dân sự phúc thẩm, Đỗ Thị P
phải chịu án dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng, được đối trừ số tiền tạm ứng đã dự
nộp 300.000 đồng tại biên lai số 0011681 ngày 18/7/2025 của Thi hành án dân
sự tỉnh Cà Mau.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân Khu vực 1 – Cà Mau;
- Phòng THADS Khu vực 1 – Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT, (TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyn Thế Phương
Tải về
Bản án số 435/2025/DS-PT Bản án số 435/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 435/2025/DS-PT Bản án số 435/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất