Bản án số 427/2025/DS-PT ngày 24/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 427/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 427/2025/DS-PT ngày 24/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 427/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông V khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên vô hiệu; buộc ông T trả lại bản chính giấy chứng nhận QSDĐ cho ông V. Ông V không yêu cầu xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 427/2025/DS-PT
Ngày: 24 - 9 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Cao Khánh
Các Thẩm phán: Bà Tiêu Hồng Phượng
Ông Nguyễn A Đam
- Thư phiên tòa: Ngô Thuỷ Anh - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Diễm Thúy - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 28 tháng 8 24 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 202/2025/TLPT-DS
ngày 23 tháng 6 năm 2025 về Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và vay tài sản.
Do Bản án dân sự thẩm số 126//2025/DS-ST ngày 23 tháng 4 năm 2025
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 255/2025/QĐ-PT ngày 21
tháng 7 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lâm Hoàng V, sinh năm: 1971 (có mặt)
Căn cước công dân số: 096071010814; cấp ngày: 12/08/2021; nơi cấp: Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội.
Cư trú tại: Số D đường T, khóm E, phường H, thành phố C, tỉnh Cà Mau (nay
là Số D đường T, khóm E, phường L, tỉnh Cà Mau).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông HồP, sinh
năm: 1980 (có mặt)
Căn cước công dân số: 096080009144; cấp ngày: 02/07/2021; nơi cấp: Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội.
ttại: Khóm F, Phường I, thành phố C, tỉnh Mau (nay là Khóm F,
Phường A, tỉnh Cà Mau).
- Bị đơn: Ông Giang Văn T, sinh năm: 1978 (có mặt)
Căn cước công dân số: 096078004432; cấp ngày: 03/05/2023; nơi cấp: Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội.
ttại: số B, đường V, khóm F, phường A, thành phố C, tỉnh Mau
(nay là số B, đường V, khóm F, phường A, tỉnh Cà Mau).
2
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Long H
Luật sư Văn phòng luật sư Huỳnh Quốc thuộc Đoàn luật sư tỉnh C (có mặt)
Căn cước số: 096085019671; cấp ngày: 18/06/2025; nơi cấp: Bộ C1.
Cư trú tại: Ấp T, phường L, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyễn Thị Thanh T1, sinh năm: 1972 (vắng mặt)
Căn cước công dân số: 096172012774; cấp ngày: 10/08/2021; nơi cấp: Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội.
trú tại: Số D, đường T, khóm E, phường H, thành phố C, tỉnh Mau
(nay là Số D, đường T, khóm E, phường L, tỉnh Cà Mau).
- Người kháng cáo:
Ông Lâm Hoàng V là nguyên đơn và ông Giang Văn T là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Quá trình tố tụng, phía nguyên đơn trình bày:
Do mối quan hệ quen biết nên ngày 14/3/2016 ông V vay của ông
Giang Văn T số tiền là 200.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 3%/tháng, thanh toán
hàng tháng. Để đảm bảo khoản vay trên, ông V và ông T thống nhất thỏa thuận ông
lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tắt QSDĐ) đối với
phần đất thuộc thửa số 93, tờ bản đồ số 01 tọa lạc tại Phường H, thành phố C, tỉnh
Mau cho ông T. Hợp đồng chuyển nhượng trên được lập tại Văn phòng C2.
Việc chuyển nhượng phần đất trên chỉ thực hiện trên giấy tờ, thực tế ông V không
giao đất cho ông T, ông V đang quản lý, sử dụng phần đất trên, không cho ai thuê
chỉ giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông V (bản chính) cho ông
Trọng G.
Đối với khoản vay trên, ông V đã đóng lãi từ ngày 14/3/2016 đến ngày
14/12/2018 thời gian 33 tháng tổng số tiền là 198.000.000 đồng.
Ngày 25/12/2018 âl, ông V tiếp tục vay thêm của ông T số tiền
300.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 3%/tháng. Ông V đã đóng lãi từ ngày
25/12/2018 âl đến ngày 11/7/2019 dl tổng số tiền là 140.000.000 đồng.
Do ông V vay 02 khoản vay trên với tổng số tiền 500.000.000 đồng đã
đóng lãi đầy đủ cho ông T, nên khi vay thêm số tiền là 300.000.000 đồng vào ngày
25/12/2018 âl, đôi bên ghi lại biên nhận ngày 15/12/2018 âl tổng số tiền vay
500.000.000 đồng cho 02 lần vay.
Nay, ông V khởi kiện yêu cầu tuyên bhợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trên hiệu; buộc ông T trả lại bản chính giấy chứng nhận QSDĐ cho
ông V. Ông V không yêu cầu xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Đối với yêu cầu phản tố của ông T về việc yêu cầu ông V thanh toán số tiền
gốc là 800.000.000 đồng và lãi tổng số tiền là 1.254.517.000 đồng, ông V chỉ đồng
ý thanh toán cho ông T số tiền của các khoản vay 200.000.000 đồng vào ngày
14/3/2016 số tiền 300.000.000 đồng vào ngày 25/12/2018 âl đôi bên đã
làm lại biên nhận với số tiền 500.000.000 đồng vào ngày 25/12/2018 âl. Ông V
3
đồng ý trả lãi từ ngày 25/12/2018 âl đến ngày xét xử thẩm đề nghị đối trừ số
tiền lãi là 140.000.000 đồng mà ông V đã đóng cho ông T.
Đối với khoản vay với số tiền 300.000.000 đồng vào ngày 11/7/2016 âl
nhằm ngày 13/8/2016 dl, ông V thừa nhận vay nhưng đã thanh toán xong cho
ông T, nên ông T đã giao biên nhận gốc lại cho ông V.
Theo đơn phản tố đề ngày 11/8/2023, trong quá trình giải quyết tại phiên
tòa, bị đơn ông Giang Văn T trình bày: Ngày 14/3/2016, ông cho ông V vay số
tiền 200.000.000 đồng và lập hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đúng như đại
diện nguyên đơn trình bày. Khoản vay trên ông Đ lãi được 04 tháng, lãi suất
3%/tháng số tiền 24.000.000 đồng. Từ khi lập hợp đồng chuyển nhượng đến
nay, ông giữ giấy chứng nhận QSDĐ (bản chính) của ông V, phần đất trên ông V
đang trực tiếp quản lý, sử dụng.
Ngày 25/12/2018 âl nhằm ngày 30/01/2019 dl, ông V tiếp tục thế chấp phần
đất trên để vay thêm của ông số tiền 300.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận
3%/tháng. Do tổng số tiền ông V thế chấp QSDĐ trên để vay 02 khoản số tiền
500.000.000 đồng đối với số tiền vay 200.000.000 đồng vào ngày 14/3/2016
chưa đóng lãi đầy đủ (Số tiền lãi là 201.000.000 đồng nhưng chỉ đóng được số tiền
lãi 24.000.000 đồng), cùng ngày 25/12/2018 âl giữa đôi bên lập “biên bản thỏa
thuận” chốt lại số lãi ông V còn nợ đối với khoản vay với số tiền 200.000.000
đồng; số tiền 177.000.000 đồng và ông tiếp tục cho V vay thêm số tiền là
300.000.000 đồng như đã trình bày, thỏa thuận thời hạn vay 05 năm kể từ ngày
25/12/2018 âl và đôi bên tiếp tục làm “biên nhận” ngày 25/12/2018 âl có nội dung:
Ông thế C QSDĐ trên với số tiền là 500.000.000 đồng. Việc nguyên đơn cho
rằng đã đóng lãi đầy đủ, nên viết biên nhận lại với số tiền là 500.000.000 đồng vào
ngày 25/12/2018 âl là không đúng.
Ngoài 02 khoản vay trên, ngày 11/7/2016 âl nhằm ngày 13/8/2016 dl, ông V
vay số tiền là 300.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận 3%/tháng, không đóng lãi. Khi
vay làm biên nhận, ông V vay để nhận chuyển nhượng QSDĐ liền kề với phần
đất của ông. Ông V hứa khi nào bán được đất sẽ thanh toán 01 lần, nhưng đến nay
chưa thanh toán vốn và lãi.
Trước yêu cầu khởi kiện của ông V, ông đồng ý tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng QSDĐ giữa ông với ông V hiệu, ông trả lại bản chính giấy chứng nhận
QSDĐ cho ông V. Ông không yêu cầu xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Ông yêu cầu ông V trả số tiền gốc là 800.000.000 đồng và tiền lãi cụ thể:
Đối với khoản vay với số tiền là 200.000.000 đồng, lãi tính từ ngày 14/3/2016
đến ngày 22/4/2025 thời gian 109 tháng 08 ngày x 1.66%/tháng = 362.765.000
đồng.
Đối với khoản vay với số tiền là 300.000.000 đồng, lãi tính từ ngày 13/8/2016
dl đến ngày 22/4/2025 thời gian 104 tháng 09 ngày x 1.66%/tháng = 519.414.000
đồng.
Đối với khoản vay với s tiền 300.000.000 đồng, i tính từ ngày
30/01/2019 dl đến ngày 22/4/2025 thời gian 74 tháng 23 ngày x 1.66%/tháng =
372.338.000 đồng.
4
Việc đại diện nguyên đơn cho rằng, khoản vay với số tiền 300.000.000
đồng vào ngày 11/7/2016 âl nhằm ngày 13/8/2016 dl, ông V đã thanh toán xong
cho ông T không đúng, trước đó, ngày 27/7/2016 âl giữa ông với vchồng
ông V, T1 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất
khác đông V, T1 vay với số tiền 300.000.000 đồng, hợp đồng được công
chứng tại Văn phòng C2. Ông V, T1 muốn hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng
trên nhưng chưa thanh toán tiền cho ông, nên ông không đồng ý, ông V, T1 nói
với ông không khả năng thanh toán, nên trao đổi với ông lấy phần đất trước
đó đôi bên hợp đồng chuyển nhượng vào ngày 14/3/2016 cấn trừ tất cả các
khoản nợ. Sau khi cấn trừ các khoản, ông V còn nợ ông tổng số tiền vốn lãi là
1.934.000.000 đồng, từ đó ông toàn bthủ tục sang tên phần đất đã hợp
đồng chuyển nhượng ngày 14/3/2016 cho ông vào 05/7/2021. Do ông V giấy tờ
sang tên nên cùng ngày, giữa ông với ông V, T1 hợp đồng hủy hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ đã ký vào ngày 27/7/2016 và ông đưa lại biên nhận gốc đối
với khoản vay trên.
Đối với số tiền lãi ông V cho rằng đã đóng 140.000.000 đồng, đây tiền
lãi cho khoản vay liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng ngày 27/7/2016, không
liên quan đến các khoản vay trên.
Đối với người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thanh T1:
Trong quá trình Tòa án thụ giải quyết vụ án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố
tụng cho T1 theo quy định pháp luật, nhưng T1 không ý kiến đối với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn.
Người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của ông T đề nghị Hội đồng xét x
chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông T. Buộc ông V trách nhiệm thanh
toán cho ông T số tiền gốc 800.000.000 đồng số tiền lãi 1.254.517.000
đồng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 45/2024/DS-ST ngày 01 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đã quyết định (tóm tắt):
Chấp nhận tòa bô yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Hoàng V.
1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Lâm Hoàng V với ông
Giang Văn T theo Hợp đồng số 001868, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn
phòng C2, ngày 14/3/202016 vô hiệu.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Giang Văn T.
Buộc ông Lâm Hoàng V nghĩa vụ thanh toán cho ông Giang Văn T tổng số
tiền là 874.877.000 đồng (trong đó vốn 500.000.000 đồng, lãi 374.877.000 đồng).
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 306/2024/DS-PT ngày 09 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định (tóm tắt):
Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 45/2024/DS-ST ngày 01 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Mau, tỉnh Mau (do không đưa Nguyễn Thị
Thanh T1 là vợ của ông Lâm Hoàng V tham gia tố tụng trong vụ án).
Tại Bản án dân sự thẩm số 126/2025/DS-ST ngày 23 tháng 4 năm 2025
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau đã quyết định (tóm tắt):
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Hoàng V.
5
1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất giữa ông Lâm
Hoàng V với ông Giang Văn T theo Hợp đồng s001868, quyển số 01TP/CC-
SCC/HĐGD tại Văn phòng C2, ngày 14/3/202016 vô hiệu.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Giang Văn T.
2.1. Buộc ông Lâm Hoàng V Nguyễn Thị Thanh T1 nghĩa vụ liên
đới trả cho cho ông Giang Văn T tổng số tiền là 1.914.517.000 đồng (Một tỷ chín
trăm mười bốn triệu năm trăm mười bảy nghìn đồng).
2.2. Ông Giang Văn T nghĩa vụ giao trả cho ông Lâm Hoàng V và
Nguyễn Thị Thanh T1 bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ
747356 do UBND thành phố C cấp ngày 26/11/2013 cho ông Lâm Hoàng V, phần
đất thuộc thửa số 93, tờ bản đồ 01 tọa lạc tại phường H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Ngoài ra án thẩm còn tuyên về lãi suất chậm trả, án phí quyền kháng
cáo của đương sự theo luật định.
Ngày 06 tháng 5 năm 2025 ông Giang Văn T đơn kháng cáo một phần bản
án thẩm yêu cầu cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đối
trừ khoản tiền 140.000.000 đồng đã trả lãi cho ông của khoản vay gốc
200.000.000 đồng. Ông đồng ý đối trừ stiền 24.000.0000 đồng tiền lãi đã nhận
của khoản vay gốc 200.000.000 đồng ngày 14/3/2016. Buộc ông V trả cho ông T
số tiền gốc lãi 2.030.517.000 đồng và yêu cầu tính lãi đến ngày xét xphúc
thẩm. Yêu cầu điều chỉnh lại thành “Ông T được hoàn lại số tiền 25.256.000
đồng”.
Ngày 06 tháng 5 năm 2025 ông Hồ Vũ P là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của ông Lâm Hoàng V đơn kháng cáo một phần bản án dân sự thẩm
yêu cầu cấp phúc thẩm chỉ buộc ông V có nghĩa vụ trả cho ông T số tiền vốn gốc là
500.000.000 đồng lãi suất theo quy định của pháp luật từ ngày vay đến ngày
Tòa án xét xử thẩm, đồng thời phải đối trừ số tiền lãi ông V đã thanh toán
cho ông T là 338.000.000 đồng. Không buộc bà T1 phải liên đới trách nhiệm trả nợ
với ông V, vì đây là khoản nợ cá nhân của ông V.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng cáo
của đương sự theo luật định.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Phía nguyên đơn trình bày: Thay đổi yêu cầu kháng cáo, do hai bên chốt nợ
vào ngày 25/12/2018, trong số tiền là 300.000.000 đồng có 177.000.000 đồng là lãi
nhập vốn. Do đó trừ số tiền 177.000.000đ lãi ra, nguyên đơn chỉ đồng ý trả vốn với
số tiền là 323.000.000 đồng.
Phía bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu ông V trả tổng các
khoản vốn và lãi với số tiền là 2.030.517.000 đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư tiến hành đúng quy định
pháp luật tố tụng dân sự; Các đương sự chấp hành đúng với quyền nghĩa vụ
theo pháp luật quy định.
6
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Lâm Hoàng V; không chấp
nhận kháng cáo của ông Giang Văn T, sửa một phần Bản án dân sự thẩm số
126/2025/DS-ST ngày 23 tháng 4 năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố
Mau, tỉnh Cà Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn nộp trong thời hạn quy định
của pháp luật. Về tố tụng, quan hệ tranh chấp, thời hiệu khởi kiện thẩm quyền
giải quyết đã được cấp thẩm xác định thực hiện đúng theo quy định pháp
luật.
[2] Bà Nguyễn Thị Thanh T1 yêu cầu xét xử vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử
tiến hành xử vắng mặt theo quy định tại Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Xét các yêu cầu kháng cáo của ông Lâm Hoàng V và ông Giang Văn T đối
với số tiền vốn và lãi phải trả, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3.1] Đối với khoản vay với số tiền 300.000.000 đồng vào ngày 11/7/2016
âm lịch, (13/8/2016 dương lịch), ông V cho rằng đã thanh toán xong nên ông T đã
trả lại biên nhận gốc, hiện ông đang giữ biên nhận gốc; ông T cho rằng ông V chưa
thanh toán khoản vay với số tiền là 300.000.000 đồng vào ngày 11/7/2016 âm lịch,
(13/8/2016 dương lịch), việc ông T trả lại biên nhận gốc cho ông V ông V đã
chốt nợ đối với 03 khoản vay trên cộng với lãi thành số tiền là 1.934.000.000 đồng.
Sau khi chốt nợ, ông V đã toàn bộ thủ tục sang tên phần đất đôi bên đã
hợp đồng chuyển nhượng ngày 14/3/2016 với giá là 1.934.000.000 đồng.
Lời trình bày của ông T như nêu trên, là không đúng với trình tự thời gian các
sự việc xảy ra, do:
- Biên nhận nợ với số tiền 300.000.000 đồng vào ngày 11/7/2016 âm
lịch, (13/8/2016 dương lịch).
- Theo ông T thì chứng cứ thể hiện văn bản chốt ngiữa ông V với ông T
“Tờ khai thuế thu nhập nhân” “Tờ khai lptrước bạ nhà, đất” ngày
05/7/2021. Cùng ngày 05/7/2021 ông T trả cho ông V bản gốc Biên nhận nợ với số
tiền là 300.000.000 đồng ký vào ngày 11/7/2016 âm lịch.
- Tại biên bản hòa giải tại Tòa án ngày 25/8/2023 bị đơn ông Giang Văn T
xác định biên nhận bản gốc ông V vay với số tiền 300.000.000 đồng vào ngày
11/7/2016 âm lịch, hiện ông đang để ở nhà, sẽ cung cấp cho Tòa án sau (bút lục 41,
42).
- Như vậy, nếu sự việc giữa ông V ông T chốt nợ ngày 05/7/2021,
cùng ngày 05/7/2021 ông T trả lại cho ông V bản chính biên nhận ông V vay với
số tiền 300.000.000 đồng vào ngày 11/7/2016 âm lịch, thì sao khi hòa giải tại
tòa vào ngày 25/8/2023, ông T lại xác định ông đang giữ (đang để ở nhà) biên nhận
ông V vay với số tiền 300.000.000 đồng vào ngày 11/7/2016 âm lịch không
trình bày là đã trả biên nhận gốc do đôi bên đã chốt nợ vào ngày 05/7/2021.
[3.2] Mặc khác, tại “Tờ khai thuế thu nhập nhân” (bút lục 74), tại mục số
[35] Giá trị đất chuyển giao: 1.934.000.000 đồng tại mục “Người nộp thuế”
7
chữ chữ viết tên Lâm Hoàng V, tờ khai thuế trên đề ngày 5/7/2021. Ông V
xác định chữ viết tên Lâm Hoàng V tại tờ khai thuế trên của ông, khi lập
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/3/2016, ông có ký tên vào hồ
để chuyển nhượng phần đất trên cho ông T. Tuy nhiên, khi ông ký thì các thông
tin tại tờ khai thuế chưa ghi thông tin . Việc bị đơn cho rằng các thông tin tại tờ
khai thuế, trong đó có mục [35] là do ông ghi là không đúng, các thông tin trên ông
không ghi và cũng không biết ai là người ghi.
Tại “Tờ khai lệ phí trước bạ nhà, đất” (bút lục 72), mục 1.6 giá trị thực tế
chuyển giao: 1.934.000.000 đồng, “Người nộp thuế” chữ chữ viết tên
Giang Văn T, tờ khai trên đề ngày 5/7/2021. Ông T xác định chữ ký và chữ viết tại
tờ khai thuế trên của ông. Các thông tin tại tờ khai trên do phía bên ông V đã
ghi, còn ai là người ghi thì ông không biết.
Như vậy, tại “Tờ khai thuế thu nhập cá nhân” và “Tờ khai lệ phí trước bạ nhà,
đất”, cả nguyên bị đơn không xác định được: Ai người ghi thông tin tại các
văn bản trên, trong đó thông tin liên quan đến số tiền là 1.934.000.000 đồng.
Với những tài liệu chứng cứ trên, chưa đủ sở xác định “Tờ khai thuế thu nhập
nhân” “Tờ khai lệ phí trước bnhà, đất” văn bản chốt nợ giữa ông V với
ông T như ông T đã trình bày.
[3.3] Tại phiên Tòa, ông T cho rằng trước khi chốt nợ, đôi bên có làm văn bản
để chốt nợ và đưa cho ông G1 nhưng ông V không thừa nhận việc này. Ông T
không có chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình.
[3.4] Từ những căn cứ nhận định trên, xét thấy việc ông V trình bày đã trả
số nợ với số tiền 300.000.000 đồng theo biên nhận vào ngày 11/7/2016 âm
lịch, số tiền vay này ông V không thế chấp tài sản. Bản gốc chỉ 1 bản hiện
nay bị đơn đã giao lại cho nguyên đơn quản lý. Như vậy đã thể hiện được việc sau
khi vay, ông V đã trả nợ ông T ông T đã trả lại biên nhận này cho ông T2
cho việc ông T tiêu hủy biên nhận. Nên Hội đồng xét xphúc thẩm căn cứ xác
định ông V đã trả nợ cho ông T số tiền 300.000.000 đồng theo biên nhận ngày
11/7/2016.
[4] Về số tiền lãi đã trả:
[4.1] Đối với số tiền lãi là 198.000.000 đồng.
Đối với khoản vay ngày 14/3/2016 số tiền 200.000.000 đồng ông V trình
bày tại đơn khởi kiện, khi Tòa án hòa giải cũng như tại Bản tự khai của ông V thể
hiện đã trả lãi cho ông T với số tiền 198.000.000 đồng từ ngày 14/3/2016 đến
ngày 14/12/2018 33 tháng. Việc ông V trình bày mâu thuẫn nhau trong việc
trả lãi vay, bản thân ông cũng không chứng cứ chứng minh cho việc trả lãi,
trường hợp ông V có trả lãi cho ông T đến ngày 14/12/2018 với số tiền là
198.000.000 đồng thì trong Biên bản thỏa thuận ngày 25/12/2018 âm lịch phải ghi
số tiền này, nhưng trong Biên bản thỏa thuận chỉ thống nhất ghi nhận ông V đã trả
lãi 4 kỳ với số tiền là 24.000.000 đồng, nên không có căn cứ chứng minh ông V trả
lãi với số tiền là 198.000.000 đồng cho ông T.
[4.2] Đối với số tiền lãi của khoản tiền 500.000.000 đồng đôi bên viết
biên nhận vào ngày 25/12/2018 âm lịch, nguyên đơn cho rằng đã đóng lãi được với
8
số tiền 140.000.000 đồng, bị đơn cho rằng chưa đóng lãi. Nhận thấy: Tại phiên
tòa bị đơn thừa nhận nhận tiền lãi của ông V với số tiền 140.000.000 đồng
nhưng tiền lãi của khoản vay ông V đã vay của ông với số tiền
300.000.000 đồng vào ngày 27/7/2016 thông qua hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất đối với phần đất khác. Tuy nhiên, ngoài lời trình bày, ông T không
tài liệu nào chứng minh cho lời trình bày của ông nên tlời thừa nhận của ông T
về việc nhận tiền lãi của ông V với số tiền 140.000.000 đồng, Hội đồng xét
xử có căn cứ xác định ông V đã đóng lãi với số tiền là 140.000.000 đồng.
[5] Từ những căn cứ và phân tích trên, có căn cứ xác định ông V còn nợ ông T
tổng số tiền vốn là 500.000.000 đồng, đã trả lãi tổng cộng với số tiền
140.000.000 đồng. Số tiền lãi phải trả được tính như sau:
Khoản vay 200.000.000 đồng ngày 14/3/2016 đến 22/4/2025 thời gian 109
tháng 08 ngày x 1,66% = 362.765.000 đồng.
Khoản vay 300.000.000 đồng ngày 30/01/2019 dl nhằm ngày 25/12/2018 âl
đến 22/4/2025 thời gian 74 tháng 23 ngày x 1,66% = 372.338.000 đồng.
Tổng lãi phải trả, trừ số lãi đã trả:
(362.765.000đ + 372.338.000đ) – 140.000.000đ = 595.103.000 đồng.
[6] Tổng số tiền vốn và lãi ông V phải trả:
500.000.000đ + 595.103.000đ = 1.095.103.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T yêu cầu tổng số tiền vốn và lãi ông V phải trả
2.030.517.000 đồng, được chấp nhận với số tiền 1.095.103.000 đồng, không
được chấp nhận với số tiền là 935.414.000 đồng.
[7] Về trách nhiệm liên đới trả nợ, quá trình làm việc vào ngày 09/9/2025,
T1 xác định: thừa nhận ông V vay của ông T với s tiền
300.000.000 đồng vào ngày 11/7/2016 âm lịch nhưng đã thanh toán xong. Còn
những khoản vay khác giữa ông V ông T thì không biết. T1 ông V
vợ chồng, 02 con chung nhưng do ông V quan hệ với người phụ nữ khác,
nên bà và ông V đã sống ly thân nhưng chưa ly hôn.
Hội đồng xét xử nhận thấy ông V T1 đang trong thời kỳ hôn nhân, việc
vay tiền ông V xác định nhằm mục đích kinh doanh phát triển kinh tế gia đình.
T1 xác định ông V vay tiền của ông T. Do đó, cấp thẩm xác định
Nguyễn Thị Thanh T1 trách nhiệm liên đới với ông V trả nợ cho ông T là có
sở.
[8] Từ những căn cứ trên, cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của
ông Lâm Hoàng V; không chấp nhận kháng cáo của ông Giang Văn T. Sửa một
phần bản án dân sự thẩm số 126/2025/DS-ST ngày 23/4/2025 của a án nhân
dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.
[9] Đnghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với
nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
Đề nghị của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông V về việc ông V
không phải trả cho ông T số tiền là 300.000.000 đồng theo biên nhận ngày
11/7/2016 và lãi, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
9
Đề nghị của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông T về việc bà T1
phải liên đới trả nợ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Án phí dân sự:
- Án phí sơ thẩm có giá ngạch:
Ông V và bà T1 phải chịu với số tiền là 44.853.000 đồng.
Ông T phải chịu án phí không giá ngạch với số tiền là 300.000 đồng và án phí
có giá ngạch với số tiền là 40.062.000 đồng.
- Án phí phúc thẩm: Ông Lâm Hoàng V không phải chịu; ông Giang Văn T
phải chịu với số tiền là 300.000 đồng.
[11] Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Lâm Hoàng V; không chấp nhận
kháng cáo của ông Giang Văn T.
Sa mt phn bản án dân sự thẩm số 126/2025/DS-ST ngày 23 tháng 4
năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Mau, tỉnh Mau (nay Tòa án
nhân dân Khu vực 1 - Cà Mau).
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Hoàng V.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa ông Lâm Hoàng
V với ông Giang Văn T theo Hợp đồng số 001868, quyển số 01TP/CC-
SCC/HĐGD tại Văn phòng C2, ngày 14/3/202016 vô hiệu.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Giang Văn T.
2.1. Buộc ông Lâm Hoàng V Nguyễn Thị Thanh T1 nghĩa vụ liên
đới trả cho cho ông Giang Văn T với tổng số tiền 1.095.103.000 đồng (Một tỷ
không trăm chín mươi lăm triệu một trăm lẻ ba ngàn đồng).
2.2. Ông Giang Văn T nghĩa vụ giao trả cho ông Lâm Hoàng V và
Nguyễn Thị Thanh T1 bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ
747356 do UBND thành phố C cấp ngày 26/11/2013 cho ông Lâm Hoàng V, phần
đất thuộc thửa số 93, tờ bản đồ 01 tọa lạc tại phường H, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
2.3 Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Giang Văn T về việc
buộc ông Lâm Hoàng V có nghĩa vụ thanh toán số tiền là 935.414.000 đồng.
Kể từ ngày ông T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông V và bà T1 không thực
hiện nghĩa vụ trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu lãi chậm trả đối với số
tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, mức lãi suất phát sinh do chậm trả
tiền được xác định theo quy định của khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
10
3. Án phí dân sự
3.1. Án phí sơ thẩm:
- Ông V và bà T1 phải chịu số tiền là 44.853.000 đồng. Ngày 28/6/2023 đã dự
nộp số tiền là 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau theo
biên lai số 0002337 được đối trừ, ông V và T1 phải nộp tiếp số tiền 44.553.000
đồng (Bốn mươi bốn triệu năm trăm năm mươi ba ngàn đồng).
- Ông T phải chịu án phí không giá ngạch số tiền là 300.000 đồng án
phí có giá ngạch số tiền là 40.062.000 đồng. Ngày 14/8/2023 và ngày 11/4/2024 đã
dự nộp số tiền 32.556.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sthành phố
Mau theo biên lai số 0003876 và 0008395 được đối trừ, ông T phải nộp tiếp số tiền
là 7.506.000 đồng (Bảy triệu năm trăm lẻ sáu ngàn đồng).
3.2. Án phí phúc thẩm:
- Ông Lâm Hoàng V không phải chịu; ngày 15/5/2025 ông Lâm Hoàng V
dự nộp số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số
0010864 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, được trả lại.
- Ông Giang Văn T phải chịu số tiền 300.000 đồng. Ngày 06 tháng 5 năm
2025 ông Giang Văn T có dự nộp số tiền là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng
án phí lệ phí Tòa án số 0010787 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau,
được chuyển thu.
4. Các quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân khu vực 1 - Cà Mau;
- Phòng THADS khu vực 1 - Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Cao Khánh
11
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Tiêu Hồng Phượng Nguyễn A Đam
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Cao Khánh
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân khu vực 1 - Cà Mau;
- Phòng THADS khu vực 1 - Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Cao Khánh
Tải về
Bản án số 427/2025/DS-PT Bản án số 427/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 427/2025/DS-PT Bản án số 427/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất