Bản án số 422/2018/HSST ngày 12/11/2018 của TAND TP. Hồ Chí Minh

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 422/2018/HSST

Tên Bản án: Bản án số 422/2018/HSST ngày 12/11/2018 của TAND TP. Hồ Chí Minh
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 422/2018/HSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/11/2018
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Hồng Sơn
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Hàn Hòa Thuận
2. Bà Võ Thị Nam
Thư Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Trần Trung Hiếu - Cán bộ
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa: Ông Phan Việt Thắng - Kiểm sát viên.
Trong ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân
Thành phHồ Chí Minh mở phiên tòa công khai xét xthẩm ván hình s
thụ số: 630/2018/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 5181/2018/HSST-QĐ ngày 31/10/2018, đối với bị cáo:
Nguyễn Minh H (tên gọi khác: không có), sinh năm: 1970, tại tỉnh D;
giới tính: Nam; thường trú tại: Số 3/241, đường DNT, phường XV, thành phố X,
tỉnh D; Chỗ ở: Phòng trọ số 1, số 403/52/90, khu phố 8, phường HCT, Quận Y,
Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tich: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không;
nghề nghiệp: không; trình độn hóa: 7/12; con ông Nguyễn Đức H - sinh năm
1930 (đã chết) và bà Phạm Thị L - sinh năm 1937; có vợ là Vũ Thị T - sinh năm
1970 và có con là Nguyễn Ngọc An N - sinh năm 2011; tiền sự: không.
Tiền án: Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2016/HSST ngày 08/01/2016
của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã xử bị cáo 02
năm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đến ngày 30/8/2016 thi nh
xong hình phạt tù.
Về nhân thân:
+ Theo Bản án hình thẩm số 66 ngày 07/05/1997 của Tòa án nhân
dân thành phố Nam Định đã xbị cáo 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo,
thời gian thử thách là 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản công dân”;
Bản án số: 422/2018/HSST
Ngày: 12-11-2018
2
+ Theo Bản án hình sự thẩm số 119/HSST ngày 22/6/1999 của Tòa án
nhân dân thành phố Nam Định đã xử bị cáo 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản
công dân” tổng hợp với bản án hình sự thẩm số 66 ngày 07/5/1997 của
Tòa án nhân dân thành phố Nam Định thành 24 tháng tù;
+ Theo bản án hình thẩm số 1367/HSST ngày 11/11/2002 của Tòa
án nhân dân tỉnh Nam Định đã xử bị cáo 08 năm vtội “Mua bán trái phép
chất ma túy”. Đến ngày 15/10/2008 được tha tù.
Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 31/5/2018. (Có mặt tại phiên tòa)
- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Minh H: Luật Đỗ
Ngọc O, thuộc Văn phòng luật Đỗ Ngọc O, Đoàn luật Thành phố Hồ Chí
Minh. (Có mặt tại phiên tòa)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị T - sinh năm 1970;
Hộ khẩu thường trú: Số 3/241, đường DNT, phường VX, thành phố X,
tỉnh D. (Có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 12 giờ 30 phút, ngày 31/5/2018, tại trước nhà số 14/4 đường
DVD, ấp HT, xã HHT, huyện Z, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra
tội phạm ma túy - Công an huyện Z phối hợp với Công an HHT phát hiện,
bắt quả tang Nguyễn Minh H đang hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma
túy”. Vật chứng thu giữ trong túi áo khoác bên trái H đang mặc có 01 bịch nylon
màu đen bên trong có 01 gói nylon màu trắng được quấn bằng sợi dây thun màu
vàng chứa ma túy thể rắn, qua giám định khối lượng 37,3288 gam, loại
Heroin, Khám xét khẩn cấp nơi của H tại phòng trọ số 1, số 403/52/90, khu
phố 8, phường HCT, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan điều tra không
phát hiện, thu giữ gì.
Số ma túy thu giữ của Nguyễn Minh H đã được giám định tại bản Kết
luận giám định số 972/KLGĐ-H ngày 08/6/2018 của Phòng k thuật hình s
Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
Quá trình điều tra, Nguyễn Minh H khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy
khoảng 10 năm nay, nguồn ma y của đối tượng tên T (không lai lịch).
Khoảng 09 giờ ngày 31/5/2018, H gọi điện cho T đặt mua ma túy loại Heroin để
sử dụng, T đồng ý hẹn H đến khu vực cầu TR, TĐ, huyện Z để giao nhận
ma y. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, H đi đến khu vực cầu TR gặp T, T
đưa cho H 01 gói nylon màu đen bên trong có 01 gói nylon màu trắng được
quấn bằng sợi dây thun màu vàng, H mở ra xem thì thấy ma túy kém chất lượng
không sử dụng được nên trả lại cho T. Sau đó T nói với H mang gói ma túy này
đến khu vực cầu Xáng, huyện Z thì sngười gọi điện cho H đnhận gói ma
3
túy này bán ma túy chất lượng cho H. H đồng ý, bỏ gói ma túy vào túi áo
khoác bên trái H đang mặc rồi đến khu vực cầu Xáng, huyện Z. Trong lúc chờ
giao ma y thì H nhận được điện thoại số thuê bao 01682714051 từ một
thanh niên (không lai lịch) kêu H chờ xe của người này hỏng. Sau đó H bị
Công an huyện Z phát hiện bắt quả tang và thu giữ số ma túy nêu trên.
Đối với đối tượng n T đối tượng bán ma túy cho H do H khai không
rõ lai lịch, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh để xử lý.
Đối với số điện thoại số thuê bao 01682714051 từ một thanh niên
(không lai lịch) của đối tượng liên quan trong vụ án, quan điều tra đã tiến
hành xác minh nhưng chưa nhận được kết quả trả lời của cơ quan Viễn thông.
* Về vật chứng thu giữ của vụ án gồm có:
- 01 gói niêm phong ghi số 972 bên ngoài chữ của giám định viên,
bên trong là ma túy còn lại sau giám định;
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia;
- 01 áo khoác màu kem sữa, 01 bóp da, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe và
01 bảo hiểm xe máy;
- 01 xe biển số 59V2-873.49, nhãn hiệu Wave màu trắng, số máy
JA39E-045659, skhung RLHJA3907HY481433. Kết quả xác minh xe do ông
Nguyễn Anh T (Thường trú số 391 đường CVP, phường 13, quận Z, Thành phố
Hồ Chí Minh) tên chủ sở hữu. Ngày 21/3/2018, ông Tâm đã bán xe này cho
Vũ Thị T (Thường trú tại 3/241, đường DNT, phường X, thành phố X, tỉnh D) là
vợ của H, T khai mua xe trên của ông Tâm nhưng do không hộ khẩu
thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh nên giữa ông Tâm T chlàm hợp
đồng mua bán bằng văn bản ủy quyền công chứng, chứ không sang tên xe.
Việc Nguyễn Minh H sử dụng xe này để vận chuyển ma túy T hoàn toàn
không biết. Nguyễn Minh H khai nhận phù hợp với lời khai của T. quan
điều tra đã đăng tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có người liên hệ giải quyết.
Tại bản Cáo trạng số 415/CTr-VKS-P1 ngày 08/10/2018 của Viện kiểm
sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội
“Vận chuyển trái phép chất ma y” theo điểm b khoản 3 Điều 250 của Bộ luật
hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung
bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa, Thị T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại
chiếc xe biển số 59V2-873.49 để chở con đi học hàng ngày, đồng thời
không có yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
sau khi nêu lại nội dung vụ án, phân tích tính chất hậu quả của vụ án, trên
4
sở các chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa cũng như toàn blời khai của b
cáo các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, đại diện Viện kiểm sát
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi nêu các tình tiết tăng nặng giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đã ginguyên quan điểm truy tố bị cáo,
đồng thời đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Vận chuyển trái phép
chất ma túy” theo điểm b khoản 3 khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều
51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2017, để xử phạt bcáo Nguyễn Minh H từ 15 đến 17 năm tù. Đồng
thời phạt bổ sung 05 triệu đồng để sung công quỹ nhà nước.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề
nghị xử vật chứng trách nhiệm nộp án phí của bị cáo theo quy định của
pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Minh H không ý kiến bào chữa, xin Hội đồng xét xử
giảm nhẹ hình phạt và đề nghị luật sư bào chữa cho bị cáo.
Tại phiên tòa, luật Đỗ Ngọc O bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh H
phát biểu: Về tội danh, điều luật Viện kiểm sát đã truy tố đối với bcáo
đúng người, đúng tội, nên luật không tranh luận. Song đề nghị Hội đồng xét
xử xem xét bản thân bị cáo người nghiện ma túy, bị cáo khi mua ma túy theo
kinh nghiệm thì phát hiện ma túy m chất lượng nên bị cáo đem đi trả thì bị
bắt. Mặt khác bị cáo còn mẹ già, con nhỏ, tại quan điều tra tại phiên tòa
ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số ma túy bị cáo đã
mua chưa phát tán ra ngoài xã hội, nên thuộc trường hợp phạm tội nhưng chưa
gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, từ đó thấy mức án đại diện Viện
kiểm sát đề nghị từ 15 đến 17 năm tù đối với bị cáo là quá nghiêm khắc. Do vậy,
đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, s
khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho bcáo
mức đầu khung hình phạt 15 năm , đồng thời trả lại cho vợ bị cáo T
chiếc xe mô tô biên số 59V2- 873.49.
Qua đối đáp giữa luật đại diện Viện kiểm t đều giữ nguyên quan
điểm đã trình bày và cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ra bản án đúng theo
các quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như
sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Minh H khai nhận hành vi
phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh đã truy tố, đồng thời qua lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, lời
khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ
5
liên quan, cũng như lời khai của những người làm chứng các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án, từ đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định như sau:
Vào lúc 12 giờ 30 phút, ngày 31/5/2018, tại trước nhà số 14/4 đường
DVD, ấp HT, HHT, huyện Z, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Minh H đã
bị bắt quả tang khi đang vận chuyển trái phép chất ma túy của đối tượng tên T
(không lai lịch), cụ thể một 01 bịch nylon màu đen bên trong 01 gói
nylon màu trắng được quấn bằng sợi dây thun màu vàng qua giám định chứa
ma túy thể rắn, khối lượng 37,3288 gam, loại Heroin để trong túi áo khoác
bên trái H đang mặc, đến cho đối tượng nhận ma y một thành niên (không
lai lịch) số điện thoại thuê bao 01682714051, để nhằm mục đích mua
500.000 đồng ma túy là Heroin có chất lượng đem về sử dụng.
[2] Như vậy, hành vi của Nguyễn Minh H đã phạm vào tội “Vận chuyển
trái phép chất ma túy”, là Heroin thuộc trường hợp từ 30 gam đến 100 gam, nên
tội phạm và hình phạt đối với bị cáo được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250
của Bộ luật hình sự m 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm nghiêm trọng đến sự quản
độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, bị cáo nhận thức được hành vi vận
chuyển trái phép chất ma túy nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội.
Hành vi này một trong nhưng nguyên nhân dẫn đến làm ng tệ nạn nghiện
ngập ma y, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, do đó
cần mức hình phạt nghiêm khắc đối với bcáo mới tác dụng răn đe
phòng ngừa chung cho xã hội.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm”,
quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2017.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay và tại cơ quan điều tra bị cáo
đều thái độ khai báo thành khẩn và đã tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng
tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm
2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đây nh tiết để Hội đồng xem xét
giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cũng để bị cáo thấy được sự khoan
hồng của pháp luật mà tích cực cải tạo.
Về nhân thân bị cáo đã bị các cấp tòa án t xử, mặc bị cáo đã chấp
hành xong hình phạt nhưng vẫn không cải sửa, tu chí làm ăn mà lại cố tình phạm
tội mới đặc biệt nghiêm trọng nhân thân xấu. Tại phiên tòa luật bị
cáo xin Hội đồng xét xử tuyên mức án nhẹ không sở để chấp nhận. Do
vậy, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo đặc biệt nghiêm
trọng, nên cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt trong trại giam một
thời gian dài theo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi của bị cáo
đã y ra, để cho bị cáo đủ thời gian tự cải tạo, giáo dục riêng và răn đe,
phòng ngừa chung cũng để bị cáo thời gian tự rèn luyện trở thành người
công dân lương thiện, có ích cho xã hội và biết tôn trọng pháp luật.
6
Do bị cáo Nguyễn Minh H có hành vi vận chuyển ma túy không có vụ lợi
trong vụ án nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ
sung.
[3] Đối với đối tượng tên T, do H khai không lai lịch, địa chỉ, nên
quan điều tra không sở xác minh, xử và một đối tượng một thanh
niên (không rõ lai lịch) có số điện thoại thuê bao 01682714051 là đối tượng liên
quan trong vụ án, quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa nhận
được kết quả trả lời của quan Viễn thông. Hội đồng xét xử yêu cầu tiếp tục
điều tra làm rõ các đối tượng này để xử lý theo các quy định của pháp luật.
[4] Từ nhận định trên Hội đồng t xử thấy bản Cáo trạng mà Viện kiểm
sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cũng như lời phát biểu của đại diện Viện
kiểm sát tại phiên tòa về việc truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội Vận chuyển
trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 250 của Bộ luật hình sự năm
2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, cũng như mức hình phạt nêu trên là có
cơ sở để chấp nhận, tuy nhiên không chấp nhận phần hình phạt bổ sung mà Viện
kiểm sát đã đề nghị đối với bị cáo.
Lập luận nêu trên cũng cơ sđể không chấp nhận lời trình bày của luật
sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa về đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị
cáo phạm tội nhưng chưa y thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn quy định
tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình s năm 2015.
[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người
bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Hội đồng xét xử thấy trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa m nay luật
bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu chứng cứ phù hợp với các quy định của
pháp luật và bị cáo không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng
của người tiến hành t tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[6] Các vấn đề khác:
* Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra thu giữ bao
gồm:
- 01 gói niêm phong ghi số 972 bên ngoài chữ của giám định viên,
bên trong ma y n lại sau giám định 01 áo khoác màu kem sữa, 01 bóp
da, xét thấy đều không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia phương tiện bị cáo dùng vào việc
phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước;
- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe và 01 bảo hiểm xe máy, Hội đồng xét xử
thấy đây là giấy tờ xe do bà T mua của ông Tâm, nên trả lại cho bà T.
- 01 xe biển số 59V2-873.49, nhãn hiệu Wave màu trắng, số máy
JA39E-045659, skhung RLHJA3907HY481433. Kết quả xác minh xe do ông
7
Nguyễn Anh Tâm (Thường trú số 391 đường CVP, phường T, quận Z, Thành
phố Hồ Chí Minh) tên chủ sở hữu. Ngày 21/3/2018, ông Tâm đã bán xe này cho
Thị T vợ của H, T khai mua xe trên của ông Tâm nhưng do không
hộ khẩu thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh nên giữa ông Tâm T
chỉ làm hợp đồng mua bán bằng văn bản ủy quyền công chứng, chứ không
sang tên xe. Việc Nguyễn Minh H sdụng xe này để vận chuyển ma y T
hoàn toàn không biết. Nguyễn Minh H khai nhận phù hợp với lời khai của T.
quan điều tra đã đăng tìm chsở hữu nhưng đến nay chưa người liên hệ
giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy việc mua bán xe mô tô trên của bà T là hợp
lệ, do vậy trlại xe trên cho T để T sang tên sdụng theo các quy
định của pháp luật là phù hợp.
* Về án p: Bị cáo phải nộp án phí hình sự thẩm theo quy định của
pháp luật hiện hành.
* Về quyền kháng cáo: Bị cáo người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan có quyền kháng cáo theo các quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Vận chuyển trái phép chất
ma túy”.
1/ Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 250; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s
khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ
sung năm 2017,
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn được
tính từ ngày 31/5/2018.
2/ Về xvật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được
sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015,
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi số 972 bên ngoài chữ
của giám định viên, bên trong ma y còn lại sau giám định 01 áo khoác
màu kem sữa; 01 bóp da;
+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia.
+ Trả lại Thị T gồm: 01 xe mô nhãn hiệu Wave màu trắng,
biển số 59V2-873.49, s máy JA39E-0456591, số khung
RLHJA3907HY481433, 01 giấy chứng nhận đăng xe; 01 bảo hiểm xe
máy.
(Các vật chứng nêu trên được liệt kê theo Biên bản giao nhận tang tài vật
số 31/19 ngày 16/10/2018 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
8
3/ Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và
áp dụng Điều 22 23 Nghị quyết quyết định về mức thu, miễn giám, thu, nộp,
quản sử dụng án phí lệ phí toà án số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án.
Bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu án phí hình sự thẩm 200.000 (hai
trăm nghìn) đồng.
4/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331; 332; 333 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015.
Bị cáo quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án (ngày 12 tháng 11 năm 2018) để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mặt quyền làm đơn kháng
cáo về quyền lợi ích hợp pháp của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 của Luật Thi hành
án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 của Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
của Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND Tối cao; (1)
- TAND Cấp cao tại TPHCM; (1)
- VKSND TPHCM; (3)
- Cục THADS; (1)
- Sở Tư pháp; (1)
- Trại giam; (1)
- Bị cáo; (1)
- Luật sư; (1)
- Người liên quan; (1)
- THAHS; (1)
- P. PC 53 - CA TPHCM; (1)
- Sở Tư pháp (1)
- UBND nơi bị cáo cư trú; (1)
- Lưu: VT, THS, hồ sơ. (22) (6)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Đặng Hồng Sơn
Tải về
Bản án số 422/2018/HSST Bản án số 422/2018/HSST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất