Bản án số 42/2021/HSST ngày 29/04/2021 của TAND TX. Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tội trộm cắp tài sản, tàng trữ trái phép chất ma túy và tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 42/2021/HSST

Tên Bản án: Bản án số 42/2021/HSST ngày 29/04/2021 của TAND TX. Duy Tiên, tỉnh Hà Nam về tội trộm cắp tài sản, tàng trữ trái phép chất ma túy và tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Duy Tiên (TAND tỉnh Hà Nam)
Số hiệu: 42/2021/HSST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/04/2021
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 42/2021/HSST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN, TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/HSST ngày 06 tháng 4 năm 2021, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 đối với:

* Các bị cáo:

1. Trần Văn C, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn D, xã H, huyện P, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V và bà Phan Thị P; vợ: Bùi Thị Á (đã ly hôn), con: Có 01 con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2007 và năm 2013 bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại B - Hà Nội; bị tạm giữ ngày 28/12/2020, chuyển tạm giam từ 06/01/2021 đến nay, có mặt.

2. Lương Mạnh T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Thôn C, xã T, thị xã D, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn Q (đã chết) và bà Hoàng Thị V (đã chết); vợ, con: chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 08/7/2020, bị Công an phường M, thành phố P, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đến nay chưa chấp hành xong quyết định xử phạt; nhân thân: Ngày 30/12/2005, bị Công an phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính số tiền 50.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng; bị tạm giữ ngày 28/12/2020, chuyển tạm giam từ ngày 06/01/2021 đến nay, có mặt.

3. Ngô Văn B, sinh năm 1998; nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn P (đã chết) và bà Trần Thị D; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 25/01/2018, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố Đ xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 07/12/2018 đã chấp hành xong án phạt tù; bị tạm giữ ngày 28/12/2020, chuyển tạm giam từ ngày 06/01/2021 đến nay, có mặt.

* Người bị hại: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1965; nơi cư trú: Tổ dân phố N, phường Đ, thị xã D, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Bùi Văn S, sinh năm 19zz; nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện C, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

+ Anh Trương Đức T, sinh năm 1986; nơi cư trú: xóm 9, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

+ Chị Đỗ Thị H, sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn L, xã T, thị xã D, tỉnh Hà Nam; Vắng mặt.

+ Anh Lê Văn H, sinh năm 1975, nơi cư trú: số nhà xx, tổ y, phường M, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1980; nơi cư trú: K, xã M, huyện T, thành phố Hà Nội; Vắng mặt.

+ Anh Trần Kim T, sinh năm 1984; nơi cư trú: Đ, xã T, thị xã D, tỉnh Hà Nam; chỗ ở hiện nay: Đ, xã M, huyện T, thành phố Hà Nội. Có mặt.

* Người chứng kiến: Chị Lường Thị N, sinh năm 1995 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 11/2020, Trần Văn C đến thuê nhà trọ của gia đình anh Đỗ Văn Đ ở tổ dân phố N, phường D, thị xã D, tỉnh Hà Nam và sống cùng bạn gái Lường Thị N, trong thời gian ở trọ, Lương Mạnh T và Ngô Văn B thường xuyên đến sinh hoạt, ở cùng.

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 26/12/2020, tại nhà trọ của mình C rủ T và B cùng đi trộm cắp tài sản, C nói: “Chúng mày muốn kiếm tiền không, muốn thì đi cùng tao xem có ai sơ hở tài sản gì thì lấy trộm mang đi bán” và “Có cái nhà ở Đ đang xây vào xem kiếm được cái gì không”. T và B đồng ý nói “Vâng”. Sau đó, C một mình điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius (không xác định được BKS) đi trước, T chở B điều khiển xe mô tô Jupiter, BKS 30Y7-05zz theo sau. Đến gần căn nhà đang hoàn thiện (sơn tường) của ông Nguyễn Văn Dũng, SN 1965 thuộc Khu đô thị Detech, tổ dân phố Nguyễn Hữu T, phường Đồng Văn, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam (ở vị trí cách khoảng 30 mét so với căn nhà), C dừng lại, bảo T và B ở ngoài trông xe, cảnh giới. C đi B vào trèo lên giàn giáo phía sau rồi chui qua lỗ thông gió KT(50x50)cm vào trong nhà ông Dũng, mở cửa lách phía sau, đi tới phía trước tầng 1, C phát hiện có các thùng sơn để ở giữa phòng, sau đó quay ra chỗ T, B bảo tìm dây để buộc các thùng sơn lại với nhau. C quay vào nhà ông Dũng xách 06 thùng sơn lót hiệu NAGASAKI ra cửa lách sau nhà. T, B tìm được dây thừng và ống dây nhựa, dắt xe vào chỗ C để 06 thùng sơn. C dùng 02 dây buộc 04 thùng sơn thành 02 cặp với nhau, còn 02 thùng không buộc. B xách 01 cặp và 01 thùng lẻ đặt lên yên xe Sirius. C dùng dây chun chuẩn bị từ trước chằng 03 thùng sơn lại. B đặt 01 cặp thùng sơn có quai xách lên yên xe Jupiter, B ngồi sau xe do T điều khiển ôm 01 thùng. Sau đó C điều khiển xe Sirius chở 03 thùng sơn đi trước, T và B chở 03 thùng sơn đi sau mang về nhà trọ của C cất giấu tại gian bếp nhà trọ. Tiếp tục C nói với T và B: “Quay lại chở thêm chuyến nữa”, C, T và B đi hai xe mô tô quay lại nhà ông Dũng trộm cắp thêm 03 thùng sơn NAGASAKI, C chở 01 thùng, T và B chở 02 thùng sơn mang về cất giấu cùng một chỗ. Đến sáng ngày 26/12/2020 ông Nguyễn Văn Dũng phát hiện nhà mình đã bị kẻ gian đột nhập, trộm cắp tổng 9 thùng sơn có nhãn mác như nêu trên nên đã làm đơn trình báo Cơ quan CSĐT Công an thị xã Duy Tiên đề nghị điều tra giải quyết.

Mở rộng điều tra còn xác định ngoài hành vi trộm cắp tài sản nêu trên thì Trần Văn C, Lương Mạnh T và Ngô Văn B đã thực hiện những hành vi phạm tội sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 27/12/2020, tại phòng trọ của mình, do cần tiền mua ma túy để sử dụng và cho tiền bạn gái (là Nguyên ở cùng nhà trọ) nên C nói với T và B: “Chúng mày đi cắm cho anh cái xe Sirius ở nhà Hạnh lấy bốn triệu, lấy cho anh cái đồ ba trăm, đưa cho chị ba triệu còn đưa lại cho anh”. T và B hiểu ý của C nói là: đi cầm cố chiếc xe mô tô Sirius của C để lấy 4.000.000đ, rồi mua 300.000đ ma túy Heroine về sử dụng; đưa chị Nguyên 3.000.000đ, còn lại đưa C. T và B đều đồng ý nói: “Vâng”. Sau đó, T điều khiển xe Jupiter BKS 30Y7- 05zz, B điều khiển xe Sirius của C đến nhà anh Nguyễn Đức H - SN 1980 ở thôn K, xã M, huyện T, thành phố Hà Nội cầm cố xe Sirius được 4.000.000đ. T cầm tiền, điều khiển xe Jupiter BKS 30Y7- 05zz chở B đến khu vực gia đình một người đàn ông tên H1 (không xác định được lai lịch) ở huyện T hoặc huyện P, thành phố Hà Nội mua 01 gói ma túy Heroine bọc trong 01 tờ lịch bên ngoài là túi bóng đen hết 300.000đ. Sau khi mua được ma túy, T đưa B cầm, T điều khiển xe chở B về. Trên đường đi, T dừng xe, một mình vào hiệu thuốc tây ven đường thuộc khu vực huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội mua xi lanh và nước cất Novocain 3% để trong 01 túi nilon hết 20.000đ, ra cất vào cốp xe rồi cả hai cùng đi về nhà trọ của C. Về đến nơi, B cầm gói ma túy đi vào nhà, nói với C: “Anh C ơi dậy đi, đồ anh T đưa này” rồi ngồi chơi game. T dựng xe ngoài sân, mở cốp lấy xi lanh và nước cất. C nhận được gói ma túy (Heroine) từ B đưa rồi cùng T cầm xi lanh, nước cất đi vào gian bếp nhà trọ để cùng nhau sử dụng ma túy. C dùng dao lam cắt cục ma túy B đưa làm 03 phần: một phần để mình sử dụng, một phần đưa cho T sử dụng, phần còn lại để lần sau sử dụng tiếp. C và T mỗi người tự pha chế thành dung dịch ma túy bằng dụng cụ bơm kim tiêm và nước Novocain 3%, do T mua về đưa C rồi cùng tự chích vào ven tay của mình. Sau khi C, T chích xong, phần ma túy còn lại T gói, cho vào vỏ túi nilong đựng xi lanh và nước cất rồi cất giấu trong vỏ thùng mì tôm Kokomi trong gian bếp phòng trọ của C để lần sau sử dụng tiếp. Lực lượng Công an thị xã Duy Tiên thực hiện Lệnh khám xét khẩn cấp tại nhà trọ của C đã thu giữ được số ma túy còn lại nêu trên.

Ngoài ra khoảng đầu tháng 12 năm 2020, tại phòng trọ của mình, C nói với B: “Đi cùng anh”. Sau đó, C điều khiển xe mô tô Sirius không đeo BKS chở B đến thôn C, xã Đ, huyện P, thành phố Hà Nội. C dừng lại nói với B; “Đứng ngoài chờ anh”. C một mình đi B khoảng 100m đột nhập vào phòng trọ của anh Trương Đức T thuê trọ tại gia đình bà N ở thôn C, xã Đ, huyện P, thành phố Hà Nội trộm cắp 01 máy tính xách tay (laptop) hiệu Thinkpad, phía sau ghi dòng chữ Lenovo, mang ra để lên khung xe rồi chở B về nhà trọ của C. Vụ việc này Cơ quan CSĐT Công an thị xã D, Hà Nam đã thông báo chuyển đến Công an huyện P, thành phố Hà Nội để T hành xác minh, điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Tang vật thu giữ khi khám xét khẩn cấp gồm: Một xe mô tô Jupiter, BKS 30Y7-05zz; 01 máy tính xách tay (laptop) hiệu Thinkpad, phía sau có chữ Lenovo;

09 thùng sơn gồm: 05 thùng hiệu NAGASAKI - NAK03 dung tích 17 lít, 03 thùng hiệu NAGASAKI - NAK02 dung tích 17 lít, 01 thùng hiệu NAGASAKI - NAK22 dung tích 17 lít, tất cả còn nguyên tem mác và hai dây chun cùng kích thước (150x2,3)cm; 01 gói nhỏ bằng giấy tờ lịch KT(1x1)cm bên trong chứa chất màu trắng dạng cục, Bt niêm phong trong phong bì kí hiệu KX01; 02 lọ nước hiệu Novocain 3% chưa qua sử dụng; 02 vỏ lọ nước hiệu Novocain 3% đã sử dụng hết;

02 chiếc xi lanh còn nguyên vẹn.

Kết luận định giá tài sản số 49A/KL-HĐ ngày 26/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thị xã Duy Tiên: 05 thùng sơn hiệu NAGASAKI - NAK03 dung tích 17 lít còn nguyên tem mác trị giá 6.000.000đ; 03 thùng sơn hiệu NAGASAKI - NAK02 dung tích 17 lít còn nguyên tem mác trị giá 4.500.000đ; 01 thùng sơn hiệu NAGASAKI - NAK22 dung tích 17 lít còn nguyên tem mác trị giá 1.700.000 đồng. Tổng trị giá của 09 thùng sơn hiệu NAGASAKI là 12.200.000đ.

Kết luận định giá tài sản số 54/KL-HĐ ngày 30/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thị xã Duy Tiên: Chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Thinkpad trị giá 2.500.000đ.

Kết luận giám định số 270/PC09-MT ngày 04/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam: Mẫu Bt màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu KX01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,112g, loại Heroine.

Cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 05/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên truy tố các bị cáo về các tội “Trộm cắp tài sản, Tàng trữ trái phép chất ma túy” Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 173, điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 38; Điều 55 Bộ luật hình sự. Xử phạt Trần Văn C từ 15 đến 18 tháng tù, các bị cáo Lương Mạnh T, Ngô Văn B mỗi bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Xử phạt Trần Văn C từ 18 đến 24 tháng tù, các bị cáo Lương Mạnh T, Ngô Văn B mỗi bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Trần Văn C từ 30 đến 36 tháng tù, các bị cáo Lương Mạnh T, Ngô Văn B mỗi bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết. Tách hành vi của Trần Văn C trộm cắp 01 laptop cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết; tách 01 biển kiểm soát 30Y7-05zz để xác minh xử lý sau. Tịch thu cho tiêu hủy: 02 lọ nước hiệu Novocain, 02 vỏ lọ nước hiệu Novocain, 02 xi lanh, 02 dây chun, 01 phong bì niêm phong số 270/PC09 – MT và tuyên án phí đối với bị cáo.

Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, ngoài ra không tranh luận gì. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Duy Tiên và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên và Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, HĐXX xác định các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 26/12/2020, tại nhà trọ Trần Văn C đã rủ Lương Mạnh T, Ngô Văn B cùng nhau đi bằng 02 xe môtô đến căn nhà đang hoàn thiện của gia đình ông Nguyễn Văn D ở khu đô thị Detech, tổ dân phố N, phường Đ, thị xã D, tỉnh Hà Nam trộm cắp 09 thùng sơn hiệu NAGASAKI dung tích 17 lít còn nguyên tem mác có tổng trị giá 12.200.000đ.

Ngoài ra: Ngày 27/12/2020, cũng tại nhà trọ ở tổ dân phố N, phường D: Trần Văn C đã bảo T và B đi mua ma túy (Heroine) với giá 300.000đ về để sử dụng. T trực tiếp mua ma túy Heroin và xi lanh, nước cất phục vụ cho việc sử dụng ma túy. B trực tiếp cầm ma túy mang về và đưa cho C. Sau khi nhận được ma túy từ B đưa, C cầm đi xuống bếp, T mở cốp xe máy dựng ở sân lấy xi lanh và nước cất vào gian bếp cùng C. Tại đây C chia số ma túy thành các phần và cùng T sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức chích. Sau khi chích xong, T cất giấu 0,112 gam ma túy Heroine còn lại vào vỏ thùng mì tôm Kokomi đặt ở gian bếp nhà trọ thì bị khám xét, thu giữ.

Hành vi nêu trên của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội: xâm phạm trực tiếp tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước đồng thời ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và đủ yếu tố cấu thành tội các tội “Trộm cắp tài sản”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túytội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173, điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duy Tiên đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét vai trò: Trong vụ án này, bị cáo C là người khởi xướng và trực tiếp cùng các bị cáo T, B thực hiện hành vi phạm tội vì thế bị cáo C giữ vai trò đầu vụ, còn các bị cáo T và B là người thực hành và giúp sức giữ vai trò đồng phạm.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo đều có nhân thân xấu, không phải chịu tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Từ nhận định trên xét thấy các bị cáo nhiều lần vi phạm pháp luật nhưng không chịu cải sửa vì thế cần phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung. Xét các bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Trong vụ án này khám xét thu giữ 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Thinkpad, điều tra làm rõ Trần Văn C đã đột nhập vào phòng của anh Trương Đức T thuê trọ tại gia đình bà N ở thôn C, xã Đ, huyện P, thành phố Hà Nội trộm cắp vì thế Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã tách hành vi này chuyển tài liệu cho cơ quan CSĐT Công an huyện P điều tra theo thẩm quyền là đúng.

Đối với Lường Thị Ng là bạn gái của C tuy có ăn ở, sống cùng C nhưng không bàn bạc, không tham gia, không biết các bị can đã thực hiện những hành vi phạm tội nên không có căn cứ để xử lý.

[5] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo T khai mua của một người đàn ông tên Hãng ở khu vực huyện T hoặc huyện P nên không có căn cứ làm rõ.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản nay không yêu cầu, đề nghị bồi thường nên không đặt ra xem xét.

[7] Về vật chứng vụ án:

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen (không xác định được BKS), Nguyễn Đức H là người nhận cầm cố chiếc xe do T và B trực tiếp mang đến và đã bán lại cho một người không quen biết. Cơ quan CSĐT không thu giữ được để xử lý theo quy định.

Đối với chiếc BKS: 30Y7-05zz Lương Mạnh T khai do T nhặt được nên đã đeo vào xe mô tô Jupiter số khung J5VT23YA008699, số máy 5VT2-08699. Kết quả tra cứu chủ sở hữu BKS này đăng ký ngày 07/3/2009 cho chiếc xe mô tô PLY là Bùi Văn S, xác minh ông Sang khai đã bán chiếc xe trên cho một người không nhớ ở đâu, cơ quan điều tra đã tách chiếc BKS 30Y7-05zz để tiếp tục xác minh xử lý sau là phù hợp.

Đối với 09 thùng sơn hiệu NAGASAKI cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nguyễn Văn D là đúng. Đối với 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Thinkpad cơ quan điều tra đã xử lý nên không đặt ra xem xét.

Đối với: 01 xe mô tô hiệu Jupiter, số khung: J5VT23YA008699, số máy:

5VT2-08699, làm rõ là tài sản của chị Đỗ Thị H nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H là đúng.

Đối với 02 lọ nước hiệu Novocain, 02 vỏ lọ nước hiệu Novocain, 02 xi lanh, 02 dây chun, 01 phong bì niêm phong số 270/PC09 – MT là vật chứng liên quan đến tội phạm, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định. Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 38; Điều 55 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Các bị cáo Trần Văn C, Lương Mạnh T, Ngô Văn B phạm các tội “Trộm cắp tài sản”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

+ Trần Văn C: 18 (Mười tám) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp buộc Trần Văn C phải chấp hành hình phạt chung: 72 (Bẩy mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2020.

+ Lương Mạnh T: 15 (Mười lăm) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp buộc Lương Mạnh T phải chấp hành hình phạt chung: 60 (Sáu mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2020.

+ Ngô Văn B: 15 (Mười lăm) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp buộc Ngô Văn B phải chấp hành hình phạt chung: 60 (Sáu mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy: 02 lọ nước hiệu Novocain, 02 vỏ lọ nước hiệu Novocain, 02 xi lanh, 02 dây chun, 01 phong bì niêm phong số 270/PC09 – MT.

(Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận giữa Công an thị xã Duy Tiên và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Duy Tiên).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Trần Văn C, Lương Mạnh T, Ngô Văn B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Báo cho các bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 42/2021/HSST Bản án số 42/2021/HSST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất