Bản án số 414/2024/HC-PT ngày 31/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 414/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 414/2024/HC-PT ngày 31/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 414/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/10/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Hủy toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số 26/2024/HC-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Trương Công Thi
Các Thẩm phán:
Ông Lê Văn Thường
Bà Võ Thị Ngọc Dung
- Thư phiên tòa: Đinh Thị Trang, Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: Ông Nguyễn Xuân Thanh, Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 10 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm bằng hình thức
trực tuyến công khai ván hành chính thụ số 230/2024/TLPT-HC ngày 09
tháng 8 m 2024 vKhiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản
đất đai. Do Bản án hành chính thẩm số 26/2024/HC-ST ngày 28 tháng 6
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử s1962/2024/-PT ngày 09 tháng
10 năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1945; trú tại: Thôn
Đ, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Mạnh H: Luật sư
ông Trương Quốc D; sinh năm 1959 - Văn phòng luật Bình Định; địa chỉ:
tỉnh Bình Định, có mặt.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định.
Đại diện theo ủy quyền của: Ông Bùi Văn C - Phó Chủ tịch, có đơn xin xét
xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 414/2024/HC-PT
Ngày: 31/10/2024
V/v Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Ủy ban nhân dân xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn C Công chức địa chính nông
nghiệp – xây dựng và môi trường xã N, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Nguyễn Thị Bích L; bà Nguyễn Thị T; ông Nguyễn Quốc V; bà
Nguyễn ThÁnh T; bà Nguyễn ThThúy T; ông Nguyễn Thanh P; bà Nguyễn
Thị D; ông Nguyễn Thành L; bà Nguyễn Thị Bích T; Nguyễn Thị H; cùng cư
trú tại: Thôn V, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Nguyễn Thị C; trú tại: Thôn Đ, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, vắng
mặt.
Đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Thị C: Ông Nguyễn Mạnh H, sinh
năm 1945; cư trú tại: Thôn Đ, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện các lời khai tiếp theo, người khởi kiện ông Nguyễn
Mạnh H trình bày:
Nguyên tha đất gia đình ông quản lý sử dụng tọa lạc tại thôn Đ, N, th
A, tỉnh Bình Định có nhà ở do ông xây dựng, thửa đất s649, tbản đồ số 1, diện
tích 376m
2
đã đưc UBND huyện A nay thị A cấp cho gia đình ông theo
GCNQSDĐ số 00158 QSDĐ/I3 ny 13/10/1993 trong đó đt ở là 200m
2
, đất vưn
176m
2
. Từ ngày được Nhà nưc cấp (tháng 10/1993) đến nay gia đình ông sử dụng
và đóng thuế đy đủ, kng ai tranh chấp. Cách đây 03 tng ông ln hvới Chi
nnh Văn phòng đăng đất đai th A để m thtục cấp, đổi lại GCNQS
nng kng biết lý do gì bà Nguyn Th L (con T) ng bà T thôn V, xã N
nn cn,n ông không đổi s đưc. Ôngm đơn đề nghị UBND xã N gii quyết.
Ny 11/7/2023, UBND xã N đã tiến nh giải quyết nhưng kng đưc kết quả,
nên hướng dẫn ông làm đơn khởi kiện ti Tòa án. Do đó, nay ôngm đơn khi kiện
vụ án hành cnh yêu cầua án nn dân tnh Bình Đnh xét xử hủy các
GCNQSDĐ u tn với do khoảnh đất có số thửa đất s649, tờ bản đsố 01,
tổng diện tích 376m
2
đã được UBND huyn A cấp cho hgia đình ông o ngày
13/10/1993, gia đình ông đã sử dụng toàn bộ lô đất y. Trong GCNQSDĐ ca ông,
tại trang 02 ghi: Thửa đất số 649 gii cận: Bắc giáp tha đt số 573, Nam gp
thửa đất s650, Đông giáp thửa đất s648, y gp thửa đất s651, din ch
376m
2
kng có số hiệu 649A. Vậy đất ở đâu có năm 1997 UBND huyn A cp cho
ông Sơn T 88m
2
. Theo bản đ1/2000 mà các quan nh chính Nhà nước
thị A u gi, chỉ có sthửa đất s649 nhưng GCNQS mà UBND huyện A
cấp cho ông Sơn T ghi thửa đất số 649A, Vậy số tha đất số 649A đâu có?
Phải chăng số “ảo” hay không ?. Theo bản vẽ đất cấp cho ông Sơn và bà T, vị trí
lô đất y đã cấp chng n đất đã cấp cho ông nằm ngay tn phn ni nhà
của ông đang ở. Năm 1993, ông Sơn và T đã đưc Nhà c n đối giao QSDĐ.
3
Vậy vì sao ông n T đưc cấp thêm một lần nữa tại tn Đ, N vào m
1997?. Đất ông đang qun sdng Nhà c không thu hồi thì m sao cấp cho
ông Sơn bà T được? T cho rằng đất y của cha mchng để li. Nếu là đất
của cha mẹ để lại tphi thống nht phân chia của hàng thừa kế thnhất, phi
chứng thực ca quan nh cnh N c cấp hoặc quan ng chứng
chứng thực, trường hợp hàng thừa kế thứ nht kng thống nht thì phải có sự phán
quyết của Tòa án nhânn cp huyn. Ông là ngưi thuộcng tha kế thứ nhất và
trực tiếp quản lý s dụng đất y nhưng không biết vic tha thuận hay tranh
chấp. Vy căn co để UBND huyện cấp cho ông Sơn bà T. Vi những vấn đề
mà ôngu trên, có căn cứ để khng định rằng UBND huyện A (nay là thị A) đã
cấp GCNQSDĐ s 02623/QS/I
3
ny 30/7/1997 GCNQSDĐ: H02949
QSDĐ/I3 ny 26/01/2006 của UBND huyn A (nay là thị xã A) sai quy định,
quy trình, y thiệt hại nghiêm trng đến quyn lợi cho gia đình ông. Bởi vậy, ông
yêu cầu a án giải quyết hủy 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào s
02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997 của UBND huyện A (nay là thị xã A); hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: H02949/QSDĐ/I3 ngày 26/01/2006
của UBND huyện A (nay là thị xã A) cấp cho bà Nguyễn Thị T.
Bên cạnh các đơn khởi kiện ván hành chính người khởi kiện còn cung
cấp cho Tòa án một số tài liệu chứng cứ khác liên quan đến yêu cầu khởi
kiện. Ngoài ra, người khởi kiện không tự mình thu thập được bất kỳ chứng cứ
nào khác mà không có yêu cầu Tòa án thu thập thêm tài liệu, chứng cứ liên quan
đến việc giải quyết vụ án.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện ông Bùi Văn - Phó Chủ
tịch UBND thị xã A, tỉnh Bình Định trình bày:
Ngày 30/7/1997, UBND huyện A (nay thị A) cấp GCNQSDĐ số
02623/QSDD/I
3
cho hộ gia đình Nguyễn Thị T, gồm các thửa đất số 255, tờ
bản đồ số 4, diện tích 2.196m
2
(trong đó, đất 200m
2
, đất vườn 1.996m
2
); thửa
đất số 649A, tờ bản đồ số 1, diện tích 88m
2
đất ở; thửa đất số 252, tờ bản đồ số
1, diện tích 838m
2
(đất lúa); thửa đất số 584, tờ bản đồ số 1, diện ch 1.840m
2
(đất màu); thửa đất số 77, tờ bản đồ số 1, diện tích 464m
2
(đất lúa). Ngày
12/9/2005, ông Nguyễn Thành Sơn (đại diện hộ Nguyễn Thị T) đơn đề
nghị cấp lại, cấp đổi GCNQSDĐ số 02623/QSDĐI
3
rách nát, không sử dụng
được. Trên cơ sở đơn và kiểm tra hồ sơ Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
A cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Thanh Sơn Nguyễn Thị T hiện
đang sử dụng đất tại N, huyện A. Sau khi kiểm tra toàn bộ hồ sơ, do bộ phận
nhận hồ kết quả của huyện A chuyển đến. Ngày 26/01/2006, Phòng Tài
nguyên Môi trường Tờ trình số 330/TT-TN&MT về việc đề nghị cấp lại
GCNQSDĐ được UBND huyện A (nay thị A) cấp GCNQSDĐ số
H02948/QSDĐ/I
3
, tại thửa đất số 255, tờ bản đồ số 4, diện tích 2.196m
2
(trong
4
đó, đất 200m
2
, đất trồng y lâu năm khác 1.996m
2
), GCNQSDĐ số
H02949/QSDĐI3, thửa đất số 649A, tbản đồ số 01, diện tích 88m
2
(đất ở);
GCNQSDĐ số H02950/QSDD/I3 tại các thửa đất số 77, 252, 584, tờ bản đồ số
01, diện tích 3.142m
2
.
Về trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ cho hộ Nguyễn Thị T: Trên sở
xem xét đơn đề nghị của người sử dụng đất gửi đến UBND N xem xét cấp
GCNQSDĐ cho hộ sử dụng theo quy định. Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho
hộ Nguyễn Thị T không đơn tranh chấp. Như vậy, việc cấp GCNQSDĐ
cho hộ Nguyễn Thị T là đúng trình tự, thủ tục theo quy định. UBND thị xã A
căn cứ vào bản án của Tòa án xét xử chỉ đạo thực hiện đảm bảo theo quy định
của pháp luật.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân N, thị A,
tỉnh Bình Định, đại diện theo ủy quyền ông Trần Minh Chính trình bày:
Theo Smục năm 1993 thì thửa đất số 649, tờ bản đồ số 1, diện tích
376m
2
(đất 200m
2
, đất vườn 176m
2
) do ông Nguyễn Mạnh H đứng tên: Thửa
đất số 649A, tờ bản đồ số 1, diện tích 88m
2
(đất ở) do Nguyễn Thị T đứng
tên.
Theo Sđịa chính do UBND xã N quản lý thì thửa đất số 649, tờ bản đồ số
1 được cấp cho ông Nguyễn Mạnh H theo GCNQSDĐ số 00158 QSDĐ/I3 ngày
13/10/1993; thửa đất số 649A, tờ bản đồ số 1 được cấp cho Nguyễn Thị T
theo GCNQSDĐ số 02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997, năm 2006 được cấp đổi
cho ông Nguyễn Thành Sơn Nguyễn Thị T theo GCNQSDĐ số
H02949/QSDĐ/I3 do huyện A (nay là thị xã) cấp ngày 26/01/2006.
Theo Bản đồ địa chính năm 1993 thì thửa đất số 649 649A đều thể hiện
riêng biệt trên bản đồ địa chính, diện tích đều khớp theo sổ mục kê, sổ địa chính
và GCNQSDĐ.
Việc ông Nguyễn Mạnh H yêu cầu Tòa án hủy 02 GCNQSDĐ số vào sổ
02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997 do UBND huyện A (nay là thị xã) cấp;
GCNQSDĐ số vào sổ H02949/QSDĐ/I3 ngày 26/01/2006 do UBND huyện A
(nay thị xã) cấp, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xem xét giải quyết
theo quy định của pháp luật.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị
Bích L, ông Nguyễn Quốc V, Nguyễn Thị Ánh T, Nguyễn Thị Thúy T, ông
Nguyễn Thanh P, Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Thành L, Nguyễn ThBích
T, bà Nguyễn Thị H trình bày:
Bà là con u của ông Nguyễn Thành Long LThTrấp, m 1975
được g cho ông Nguyễn Tnh Sơn, sau khi cưới cha mẹ chồng có cho vợ chồng
một đất vi diện tích là 88m
2
tại thửa đất 649A, tờ bản đồ s 1, tọa lạc ti thôn Đ,
xã N, thxã A, tỉnh nh Định, được Nhà ớc cấp GCNQSDĐ o m 1997,
5
cấp lại ngày 26/01/2006. Nay ông Nguyn Mạnh H u cầu Tòa án hy 02 Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào s 02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997 của
UBND huyện A (nay thị A); hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
vào s H02949/QSDĐ/I3 ngày 26/01/2006 của UBND huyện A (nay là thị xã A)
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Mạnh H. đề nghị
Tòa án giải quyết bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Mạnh H. Trong trường
hợp Tòa án hủy GCNQSDĐ của gia đình thì phải hủy luôn GCNQSDĐ của
ông Nguyễn Mạnh H giải quyết chia thừa kế cho các con. Còn Nguyễn
Thị Bích L, ông Nguyễn Quốc V, Nguyễn Thị Ánh T, Nguyễn Thị Thúy
T, ông Nguyễn Thanh P, Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Thành L, Nguyễn
Thị Bích T, Nguyễn Thị H con T thống nhất theo trình bày của T,
các ông bà không có ý kiến gì bổ sung.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C trình bày:
vợ của ông Nguyễn Mạnh H thống nhất theo đơn khởi kiện
trình bày của ông Nguyễn Mạnh H không b sung hay yêu cầu nào thêm.
Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người khởi kiện ông
Nguyễn Mnh H là Luật Tơng Quc D trình bày luận cứ đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận toàn byêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Mạnh H v vic yêu
cầu Tòa án nhân n tỉnh nh Định hủy 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số vào s 02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997 của UBND huyện A (nay là thị xã A);
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: H02949/QSDĐ/I3 ngày
26/01/2006 của UBND huyện A (nay là thị xã A) cấp cho bà Nguyễn Thị T, ông
Nguyễn Thành Sơn.
T những nội dung nêu trên, tại Bản án hành chính thẩm số
26/2024/HC-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
đã quyết định:
- Căn cứ vào quy định tại Điều 30; Điều 32; Điều 116; điểm h khoản 1
Điều 143; khoản 2 Điều 165; Điều 157; Điều 158; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều
193 và Điều 194 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
- Căn cứ vào quy định của Luật Đất đai năm 2003, Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai,
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26/11/2003.
- n cứ quy định tại Điều 29 Luật Ttụng hành chính; Điều 2 Luật người
cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vQuốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Mạnh H về việc
yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào s:
6
02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997 của UBND huyện A (nay thị A) cấp cho
hộ bà Nguyễn Thị T.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Mạnh H yêu cầu Tòa án giải
quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: H02949/QSDĐ/I3
ngày 26/01/2006 của UBND huyện A (nay thị A) cấp cho ông Nguyễn
Thành Sơn, bà Nguyễn Thị T.
Ngoài ra, Bản án thẩm còn tuyên về án phí; chi phí tố tụng quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/7/2024 người khởi kiện ông Nguyễn Mạnh
H đơn kháng o ngày 05/8/2024 đơn kháng cáo bsung đối với Bản
án thẩm, do kháng cáo ông H cho rằng Tòa án cấp thẩm đã vi phạm tố
tụng, đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện sai pháp luật, xét xử vụ án thiếu
khách quan, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật không đúng, thửa đất số
649A không trong Bản đồ đo vẽ năm 1993, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
sửa Bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca ông H.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Mạnh H giữ nguyên kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông H đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Mạnh H.
Kiểm sát viên tham gia phiên toà phát biểu ý kiến như sau:
- Về thủ tục tố tụng, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử,
những người tiến hành ttụng tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy
định của Luật T tụng hành chính.
- Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Mạnh H, hủy toàn
bộ Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, xem xét kháng cáo
của ông Nguyễn Mạnh H, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng thẩm quyền, thời hiệu giải quyết
vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều 193
Luật Tố tụng hành chính. Kháng cáo của ông Nguyễn Mạnh H hợp lệ, trong
thời hạn luật định.
[1.2] Xem xét việc kháng cáo đối với phần Quyết định đình chỉ một phần
yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Mạnh H về việc yêu cầu Tòa án giải quyết
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số o s:
02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997 của UBND huyện A (nay thị A) cấp cho
hộ bà Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử, xét thấy:
7
[1.2.1] Về đối tượng khởi kiện: GCNQSDĐ số vào sổ: 02623/QSDĐ/I
3
nêu
trên bao gồm nhiều thửa đất, đã được UBND huyện A cấp đổi lại các
GCNQSDĐ số: H02948/QSDĐ/I3 tại thửa đất 255, tờ bản đồ s 4, diện tích
2.196m
2
(trong đó 200m
2
đất ở và 1.996m
2
đất trồng cây lâu năm khác);
GCNQSDĐ số H02949/QSDĐ/I3 thửa đất 649A, tờ bản đồ số 1, diện tích 88m
2
đất GCNQSDĐ số H02950/QSDĐ/I3 tại các thửa đất số 252, 77, 584, tờ
bản đồ số 1, diện tích 3.142m
2
loại đất lúa đất màu, ông H chỉ khởi kiện liên
quan đến phần diện tích 88m
2
đất ở, tại thửa đất s 649A, tờ bản đồ số 1 đã được
cấp đổi GCNQSDĐ số H02949/QSDĐ/I3, như vậy đối tượng khởi kiện trong vụ
án này cần xác định là một phần GCNQSDĐ số 02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997
GCNQSDĐ số: H02949/QSDĐ/I3 thửa đất số 649A, tờ bản đồ số 1, diện tích
88m
2
đất của UBND huyện A mới đúng. Tại Bản án thẩm đã xác định đối
tượng khởi kiện đối với toàn bộ GCNQSDĐ số 02623/QSDĐ/I
3
(có 06 thửa đất
khác nhau) không đúng về đối tượng bkhởi kiện, mặc khác, đã nhận định
đánh giá về toàn bộ các thửa đất tại GCNQSDĐ số 02623/QSDĐ/I
3
là không
cần thiết.
[1.2.2] Xem xét việc đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Mạnh H, xét thấy: Một phần GCNQSDĐ số 02623/QSDĐ/I
3
yêu cầu khởi
kiện đã được UBND huyện A cấp đổi lại tại GCNQSDĐ số: H02949/QSDĐ/I3
thửa đất 649A, tờ bản đồ số 1, diện tích 88m
2
đất ở, tuy GCNQSDĐ số
02623/QSDĐ/I
3
đã được thu hồi cấp đổi (không thủ tục thu hồi
GCNQSDĐ số 02623/QSDĐ/I
3
trong hồ sơ vụ án), nhưng đó quyết định hành
chính liên quan nên vẫn phải xem xét về nguồn gốc, diện tích, vị trí vật
kiến trúc trên đất nhằm để đánh giá đối với GCNQSDĐ số H02949/QSDĐ/I3
được cấp đổi, đồng thời phải thu thập hồ sơ, bản đồ địa chính lập trước năm
1993 để đối chiếu để xem xét hay không thửa đất số 649A. Mặc khác, theo
quy định tại Điều 115 Luật Tố tụng hành chính, người khởi kiện quyền khởi
để yêu cầu Tòa án xem xét một phần diện tích đất liên quan tại GCNQSDĐ
số 02623/QSDĐ/I
3
nhưng Tòa án cấp thẩm đã căn cứ quy định tại điểm h
khoản 1 Điều 143 (Các trường hợp tại khoản 1 Điều 123 quy định về trả lại đơn
khởi kiện) khoản 2 Điều 165 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 để đình chỉ
một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Mạnh H là không đúng pháp luật.
[2] Về nội dung
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện hủy (mt phần) Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số vào sổ: 02623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997 của UBND huyện A (nay thị
A) cấp cho hộ gia đình Nguyễn Thị T đối với thửa đất 649A, tờ bản đồ số
1, diện tích 88m
2
đất ở, xét thấy:
- Ông Nguyễn Mạnh H sử dụng thửa đất số 649, tbản đồ số 01, diện tích
376m
2
, gồm 200m
2
đất 176m
2
đất vườn, được UBND huyện A (nay thị
8
A) cấp GCNQSDĐ số 00158 QSDĐ/I3 ngày 13/10/1993, theo đồ trong
GCNQSDĐ số 00158 QSDĐ/I3 nêu trên, không có thửa đất số 649A, tuy nhiên,
quá trình giải quyết ván, mặc ông H đơn yêu cầu thu thập hồ địa
chính, bản đồ trước năm 1993 (trước thời điểm cấp GCNQSDĐ cho ông H)
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không thực hiện, còn theo Sổ mục kê được phê duyệt
năm 1993 đều thể hiện cả 02 thửa đất của ông H và của bà T (bút lục 78), nhưng
các tờ bản đ(tại các bút lục 46;78), không xác định được lập năm nào.
- Đối với thửa đất số 649A, tờ bản đồ số 01, diện tích 88m
2
đất ở, đã được
UBND huyện A (nay thị A) cấp GCNQSDĐ số 02623/QSDĐ/I
3
ngày
30/7/1997 được cấp đổi lại GCNQSDĐ số H02948/QSDĐ/I3 ngày
26/01/2006 cho Nguyễn Thị T. Như đã phân tích phần tố tụng [1.2.2], Tòa
án cấp sơ thẩm đã không thu thập xem xét nội dung GCNQSDĐ số
02623/QSDĐ/I
3
(đã được thu hồi) nên không có cơ sở để xem xét về nguồn gốc,
diện tích, vị trí thửa đất số 649A tại GCNQSDĐ số 02623/QSDĐ/I
3
.
- Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 01/11/2023 xác định diện
tích thực tế thửa đất số 649, tờ bản đồ số 01 do ông H đang sử dụng có diện tích
397m
2
(lớn hơn diện tích trong GCNQSDĐ đã được cấp 21m
2
) đo đạc hiện
trạng thửa đất của T diện tích 66m
2
(giảm 22m
2
) nhưng không xác định
được phạm vi, vị trí, diện tích đất theo các GCNQSDĐ đã cấp cho ông H cũng
như bà T, không có cơ sở xác định sự chồng lấn diện tích trên các thửa đất.
[2.2]. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp thẩm đã không làm
việc với UBND N các quan chức năng, cũng như UBND thị A để
làm về nguồn gốc thửa đất số 649A, sao tại đồ trong GCNQSDĐ cấp
cho ông H không thể hiện, được tách ra thời điểm nào, vị trí, tứ cận, kích thước
và quá trình thực tế sử dụng của cả 02 thửa đất như thế nào, chưa thu thập hồ sơ
cấp GCNQSDĐ đối với ông H cũng như hồ sơ địa chính bản đồ trước năm 1993
có liên quan đến các thửa đất tranh chấp, những mâu thuẫn giữa các GCNQSDĐ
đã cấp cho ông Nguyễn Mạnh H ông Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Thị T
chưa được làm rõ.
[2.3]. Xem xét Bản đồ địa chính trong hồ vụ án, đối chiếu với Biên
bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 01/11/2023 của Tòa án, nhận thấy: Tại
GCNQSDĐ số H02948/QSDĐ/I3 ngày 26/01/2006 do UBND huyện A cấp cho
Nguyễn Thị T đối với thửa đất số 649A, tờ bản đồ số 01 đều xác định thửa
đất của T cạnh phía Tây giáp với thửa đất số 651 của ông Nguyễn Mạnh
H, cạnh phía Đông giáp thửa đất số 649 của ông H (tức nằm phía Tây Nam
thửa đất số 649 của ông H). Tuy nhiên, theo Tờ trích đo địa chính kèm theo
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 01/11/2023 xác định thửa đất số 649A
có cạnh phía Tây giáp với thửa đất số 649 của ông H (tức nằm ở phía Đông Nam
thửa đất số 649 của ông H). Bên cạnh, việc đo đạc thẩm định tại các bản Trích
9
đo địa chính thửa đất số 649 và 649A (Bút lục 97, 98 và 99), đều không xác định
phương hướng, không ghi số các thửa đất tiếp giáp với 02 thửa đất nêu trên nên
cũng không có sở để xem xét vị trí chính xác của thửa đất liên quan đến
quyết định hành chính bị khởi kiện. Như vậy, thửa đất số 649A, tờ bản đồ số 01
của T được UBND huyện A cấp GCNQSDĐ chưa căn cứ xác định vtrí,
02 thửa đất sự chồng lấn diện tích đất với nhau nhưng Tòa án cấp thẩm
chưa xem xét, về các cạnh tiếp giáp và nguyên nhân tăng, giảm so với hiện trạng
của các thửa đất.
[3]. Với những phân tích nêu trên, tại Bản án thẩm đã nhận định cho
rằng: “Năm 2006 GCNQSDĐ số 2623/QSDĐ/I
3
ngày 30/7/1997 đã cấp cho hộ
Nguyễn Thị T đã rách nát, không còn sử dụng được nên thu hồi GCNQSDĐ
cấp đổi lại GCNQSDĐ mới đúng quy định của pháp luật. Hơn nữa, tại
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và đo đạc ngày 01/11/2023 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Định xác định đo đạc thực tế thửa đất số 649, tờ bản đồ số 01,
diện tích 397m
2
nhưng trong GCNQSDĐ của ông Nguyễn Mạnh H diện tích
376m
2
so với diện tích thực tế 397m
2
tăng 21m
2
còn thửa đất số 649A, tờ bản đồ
số 01 của ông Nguyễn Thành Sơn, Nguyễn Thị T trong GCNQSDĐ diện
tích 88m
2
nhưng đo đạc thực tế diện tích 66m
2
thiếu 22m
2
nhưng hộ ông
Nguyễn Mạnh H hộ ông Nguyễn Thành Sơn, Nguyễn Thị T đều được cân
đối giao quyền sử dụng đất theo Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính
phủ”, để bác yêu cầu khởi kiện của ông H là chưa có cơ sở.
Do vụ án vi phạm tố tụng thu thập tài liệu, chứng cứ không đầy đủ,
đánh giá chứng cứ áp dụng chưa đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc
thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Mạnh H, hủy toàn bộ Bản
án hành chính sơ thẩm, giao hồ về cho Tòa án cấp thẩm đgiải quyết lại
vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
[4] Ván phí hành chính thẩm, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ tại
giai đoạn sơ thẩm sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án.
[5]. Về án phí hành chính phúc thẩm: Do chấp nhận một phần kháng cáo
nên ông Nguyễn Mạnh H không phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
1. Hủy toàn bộ Bản án hành chính thẩm số 26/2024/HC-ST ngày 28
tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, giao hồ về cho Tòa
án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
2. Về án phí hành chính thẩm, chi phí tố tụng sẽ được xem xét khi giải
quyết lại vụ án.
10
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Áp dụng khoản 3 Điều 34 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án
ông Nguyễn Mạnh H không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Bình Định;
- VKSND tỉnh Bình Định ;
- Cục THADS tỉnh Bình Định;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Trương Công Thi
Tải về
Bản án số 414/2024/HC-PT Bản án số 414/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 414/2024/HC-PT Bản án số 414/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất