Bản án số 41/2024/DS-PT ngày 14/03/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 41/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 41/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 41/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 41/2024/DS-PT ngày 14/03/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
Số hiệu: | 41/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/03/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp giao dịch quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 41/2024/DS - PT
Ngày 14 - 3 - 2024
“V/v tranh chấp giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Phạm Thị Thúy Mai
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Thu Hà
Ông Nguyễn Xuân Trọng
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Văn Hùng - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tham gia phiên tòa:
Bà Hoàng Thị Tuyết - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2024/TLPT-DS ngày 01 tháng 02 năm
2024 về việc “Tranh chấp giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 20/2023/DS – ST Ngày 05 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2024/QĐ-PT ngày 16 tháng 02
năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn L, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn X, xã T,
huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Trần Văn L: Ông Nguyễn Văn H,
sinh năm 1980; địa chỉ: Số D, đường N, phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh
Phúc.(Theo văn bản ủy quyền ngày 13/6/2022) (Có mặt).
2. Bị đơn: Ông Trần Văn C, sinh năm 1963 và bà Tạ Thị Q, sinh năm 1971;
đều địa chỉ: Thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn C và bà Tạ Thị Q: Ông Lê
Thành N, sinh năm 1993; địa chỉ: Văn phòng L1 Vĩnh Phúc - số C, đường N,
phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. (Theo văn bản ủy quyền ngày
21/7/2022)(Có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn X, xã T, huyện T, tỉnh
Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Thị H1: Ông Nguyễn Văn
H, sinh năm 1980; địa chỉ: Số D, đường N, phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh
Phúc.(Theo văn bản ủy quyền ngày 22/6/2023) (có mặt).
- Chị Trần Thị Huyền T, sinh năm 1991;
- Chị Trần Thu P, sinh năm 1998;
Đều địa chỉ: Xóm T, xã U, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị Huyền T và chị Trần Thu
P: Ông Lê Thành N; địa chỉ: Văn phòng L1 Vĩnh Phúc - Số C, đường N, phường
L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc. (Theo văn bản ủy quyền ngày 01/8/2023) (có
mặt).
4. Người kháng cáo: Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn ông
Nguyễn Văn H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/6/2022, những lời khai tiếp theo người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn anh Trần Văn L đồng thời là người đại diện
theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị H1 là
ông Nguyễn Văn H trình bày: Hộ gia đình ông Trần Văn C là chủ hợp pháp đối
với thửa đất số 82, tờ bản đồ số 32, diện tích: 1.371,9m
2
(Trong đó đất ở 300m
2
,
đất trồng cây lâu năm 1.071,9m
2
); địa chỉ thửa đất: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh
Vĩnh Phúc do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CX 848753; số vào sổ CS 02817 ngày 21/09/2020, đứng tên hộ
ông Trần Văn C. Đầu tháng 10/2020, anh Trần Văn L và gia đình ông C có thỏa
thuận chuyển nhượng diện tích đất là 250m
2
(Trong đó có 100m
2
đất ở, 150m
2
đất
trồng cây lâu năm) với giá chuyển nhượng là 3.950.000đ/1m
2
. Tổng giá trị chuyển
nhượng là 987.500.000đ. Vị trí thửa đất các bên thỏa thuận chuyển nhượng có
phía Đông giáp hộ ông Trần Quốc T1, phía Nam giáp đường dân sinh, phía Tây
và phía Bắc giáp phần đất còn lại của hộ ông Trần Văn C. Do ông C là chú ruột
của anh L nên hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng, không lập hợp đồng. Ngay sau
khi thỏa thuận, anh L chuyển khoản tiền cho gia đình ông C, cụ thể như sau:
+ Ngày 17/10/2020, anh L chuyển khoản cho bà Tạ Thị Q số tiền
20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).
+ Ngày 19/10/2020, anh L tiếp tục chuyển khoản cho bà Tạ Thị Q số tiền
30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
+ Ngày 10/11/2020, anh L chuyển khoản cho ông Trần Văn C số tiền
450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng).
+ Ngày 24/02/2021, anh L chuyển khoản cho ông Trần Văn C số tiền
450.000.000đ (Bốn trăm năm mươi triệu đồng).
Khoảng tháng 9/2021, chị H1 vợ anh L có sang giao nốt cho ông C, bà Q
số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) còn lại theo như đã thoả thuận. Như
vậy, tổng số tiền vợ chồng anh L đã giao cho vợ chồng ông C là 1.000.000.000đ
(Một tỷ đồng chẵn). Sau đó, ông C có giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho anh L đi làm thủ tục tách thửa tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện
T. Ngày 12/4/2021, Văn phòng Đ chi nhánh huyện T đã xác nhận Mảnh trích đo
số 30 – 2021 – Trích đo theo đề nghị của hộ ông Trần Văn C. Theo mảnh trích đo
số 30 – 2021, phần diện tích dự kiến mà ông C thoả thuận chuyển nhượng cho
anh L là số thửa 357, tờ bản đồ số 32, loại đất gồm: Đất ở tại nông thôn (ONT)
100m
2
, đất trồng cây lâu năm (CLN) 150m
2
.
Tuy nhiên sau khi thực hiện xong thủ tục tách thửa, do phải chờ chị Trần
Thu P là con gái của ông C, bà Q đi làm ở xa chưa thể về ký được hợp đồng
chuyển nhượng, nên việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh L
và gia đình ông C bà Q bị trì hoãn. Đến ngày 17/4/2022, bà Q có nhắn tin thông
báo cho anh L nói rằng không chuyển nhượng đất nữa. Nhận thấy, việc ông Trần
Văn C không thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng thoả
thuận đã vi phạm nghiêm trọng về sự thoả thuận của các bên cũng như quyền và
lợi ích hợp pháp của anh L. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án:
- Công nhận giao dịch dân sự giữa anh Trần Văn L và ông Trần Văn C, bà
Tạ Thị Q về việc chuyển nhượng diện tích 250m
2
đất (trong đó có 100m
2
đất ở,
150m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 32, địa chỉ thửa
đất: thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Buộc ông Trần Văn C và bà Tạ Thị Q thực hiện thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất diện tích 250m
2
đất (trong đó có 100m
2
đất ở, 150m
2
đất trồng
cây lâu năm) thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 32, địa chỉ thửa đất: thôn X, xã
T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc cho anh Trần Văn L theo đúng quy định pháp luật.
Nếu Hội đồng xét xử tuyên bố giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa anh L với ông C và bà Q vô hiệu thì đề nghị buộc ông C và bà Q phải trả lại
cho anh L và chị H1 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng) tiền đã nhận và bồi thường
500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng) cho anh L và chị H1.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Trần Văn C và bà Tạ Thị Q
đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan chị Trần Thị Huyền T và chị Trần Thu P là ông Lê Thành N trình bày: Nguồn
gốc thửa đất số: 82, tờ bản đồ số 32, diện tích: 1371,9m
2
; địa chỉ thửa đất: Thôn
M, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc là của gia đình ông Trần Văn C, bà Tạ Thị Q
do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CX 848753; số vào sổ CS 02817 ngày 21/09/2020, đứng tên hộ ông Trần Văn
C. Tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu năm 2002,
hộ gia đình ông C và bà Q gồm 04 nhân khẩu: Chủ hộ ông Trần Văn C, vợ là bà
Tạ Thị Q và 02 con gái của ông C, bà Q là chị Trần Thị Huyền T và chị Trần Thu
P.
Khoảng tháng 10 năm 2020, anh Trần Văn L là cháu họ của ông C, bà Q có
đặt vấn đề với bà Q về việc muốn mua một phần diện tích đất khoảng 200m
2
thuộc
thửa đất nêu trên. Nhưng hai bên vẫn chưa thoả thuận cụ thể về vị trí phần đất
chuyển nhượng, phần diện tích đất ở cũng như thống nhất về giá trị chuyển
nhượng. Sau khi đặt vấn đề muốn mua đất, anh L có mượn Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nêu trên với lý do để kiểm tra về tính pháp lý của thửa đất, để
tạo dựng lòng tin với ông C, bà Q, anh L đã chuyển khoản trước cho ông C, bà Q
số tiền 950.000.000đ (Chín trăm năm mươi triệu đồng), sau khi hai bên thoả thuận
xong và ký hợp đồng thì sẽ chuyển khoản số tiền còn lại.
Vì là cháu họ trong nhà nên bà Q tin tưởng và giao Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nêu trên cho anh L, sau đó anh L lại tự ý đi làm thủ tục tách thửa đối
với một phần thửa đất mà không hề bàn bạc hay được sự đồng ý của ông C và bà
Q. Đến khi ông C và bà Q đề nghị anh L hoàn trả lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì mới biết việc anh L đã tự ý đi tách thửa và ra mảnh trích đo địa chính
số 30-2021 “Theo đề nghị của H2 ông Trần Văn C” do Văn phòng Đ chi nhánh T
cấp ngày 12/04/2021. Ông C và bà Q không hề ký kết bất kì giấy tờ gì liên quan
đến việc tách thửa cũng như uỷ quyền cho bất kỳ cá nhân nào thực hiện việc tách
thửa đối với thửa đất nêu trên. Toàn bộ số liệu trong mảnh trích đo mà anh L tự ý
đi làm khác hoàn toàn so với ý định ban đầu hai bên nói chuyện về việc thoả thuận
chuyển nhượng đất. Sau khi phát hiện sự việc trên ông C và bà Q đã trao đổi với
anh L về việc trả lại toàn bộ số tiền anh L đã chuyển khoản và chấm dứt việc thoả
thuận chuyển nhượng đối với thửa đất nêu trên, nhưng anh L lại đòi ông C và bà
Q phải bồi thường thêm một khoản tiền vì từ chối chuyển nhượng cho anh L.
Nay quan điểm của ông Trần Văn C và bà Tạ Thị Q không đồng ý với yêu
cầu khởi kiện của anh L vì hai bên chưa thoả thuận cũng như ký kết bất kỳ giấy
tờ nào liên quan đến việc chuyển nhượng một phần diện tích đất nêu trên. Ông C
và bà Q đồng ý hoàn trả lại số tiền 950.000.000đ (Chín trăm năm mươi triệu đồng)
đã nhận từ anh L. Đối với số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) chị H1 cho
rằng đã giao cho ông C, ông C và bà Q xác định không được nhận. Nếu Hội đồng
xét xử tuyên bố giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh L với ông
C và bà Q vô hiệu thì đề nghị xem xét giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô
hiệu theo quy định của pháp luật.
Với nội dung vụ án như trên, tại bản án dân sự sơ thẩm số 20/2023/DS-ST
ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh
Phúc quyết định: Căn cứ vào các Điều 500, 502, khoản 1 Điều 407, khoản 2 Điều
117, Điều 119, Điều 129, khoản 1, khoản 2, khoản 4 Điều 131, khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố giao dịch dân sự giữa anh Trần Văn L và ông Trần Văn C, bà
Tạ Thị Q về việc chuyển nhượng diện tích 250m
2
đất (Trong đó có 100m
2
đất ở,
150m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 32, địa chỉ thửa
đất: thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc là giao dịch dân sự vô hiệu.
2. Buộc ông Trần Văn C và bà Tạ Thị Q thanh toán trả cho anh Trần Văn
L số tiền là: 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng).
Kể từ ngày anh Trần Văn L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Trần Văn
C và bà Tạ Thị Q không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền nêu trên, thì hàng tháng
ông C và bà Q còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 của Bộ luật dân sự.
Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Ngày 06 tháng 9 năm 2023 người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn
kháng cáo không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm. Đề nghị sửa án sơ
thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Không
chấp nhận kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn. Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 20/2023/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền
của nguyên đơn làm trong hạn luật định hợp lệ được chấp nhận.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của người khởi kiện thấy rằng:
Về tính hợp pháp của giao dịch chuyển nhượng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất: Anh Trần Văn L và ông Trần Văn C, bà Tạ Thị Q có mối quan hệ là
chú cháu trong họ hàng. Vì vậy khoảng tháng 10 năm 2020 hai bên có thoả thuận
về việc chuyển nhượng quyền sử dụng một phần của thửa đất số 82, tờ bản đồ số
32, có diện tích 1.371,9m
2
(Trong đó 300m
2
đất ở, 1.071,9m
2
đất trồng cây lâu
năm) địa chỉ tại: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Trần Văn C Tuy nhiên hai bên chỉ có
thoả thuận bằng miệng không thể hiện bằng văn bản.
Theo nguyên đơn hai bên thỏa thuận về vị trí phần đất chuyển nhượng là
phía Đông giáp hộ ông Trần Quốc T1, phía Nam giáp đường dân sinh, phía Tây
và phía Bắc giáp phần đất còn lại của hộ ông Trần Văn C, diện tích chuyển
nhượng là 250m
2
(Trong đó có 100m
2
đất ở, 150m
2
đất trồng cây lâu năm) với giá
chuyển nhượng là 3.950.000đ/1m
2
x 250 m
2
= 987.500.000đ. Sau đó ông C có
giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh L đi làm thủ tục tách thửa tại
Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện T. Ngày 12/4/2021, Văn phòng Đ chi
nhánh huyện T đã xác nhận Mảnh trích đo số 30 – 2021 – Trích đo theo đề nghị
của hộ ông Trần Văn C. Theo mảnh trích đo số 30 – 2021, phần diện tích dự kiến
mà ông C thoả thuận chuyển nhượng cho anh L là số thửa 357, tờ bản đồ số 32,
diện tích 250m
2
gồm: Đất ở tại nông thôn (ONT) 100m
2
, đất trồng cây lâu năm
(CLN) 150m
2
.
Phía bị đơn không thừa nhận và cho rằng giữa hai bên vẫn chưa thoả thuận
cụ thể về vị trí phần đất chuyển nhượng, phần diện tích đất ở, cũng như chưa thống
nhất về giá trị chuyển nhượng.
Tuy nhiên căn cứ vào các tài liệu thu thập được, lời khai của các đương sự
có căn cứ xác định giữa anh Trần Văn L với ông Trần Văn C, bà Tạ Thị Q có việc
giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất do đó anh L đã chuyển khoản số tiền
950.000.000đ cho ông C và bà Q, ông C và bà Q đã nhận số tiền trên.
Anh L khởi kiện yêu cầu công nhận giao dịch dân sự giữa anh L và ông C,
bà Q về việc chuyển nhượng diện tích 250m
2
đất và buộc ông C và bà Q thực hiện
thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 250m
2
đất (trong đó có 100m
2
đất ở, 150m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 32, địa
chỉ thửa đất: Thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc cho anh L theo đúng quy
định pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Bộ luật
Dân sự năm 2015 thì giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh L và
ông C, bà Q đã vi phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự về hình
thức, được quy định tại khoản 2 Điều 117, Điều 119, Điều 502 của Bộ luật Dân
sự năm 2015.
Trong đó Điều 502 Bộ luật Dân sự quy định:“1. Hợp đồng về quyền sử dụng đất
phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này,
pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất phải đúng trình tự, thủ
tục theo quy định của pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên
quan”.
Như vậy, căn cứ vào những quy định nêu trên, thì giao dịch dân sự giữa
anh L và ông C, bà Q về việc chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích 250m
2
đất
không được lập thành văn bản, ông C, bà Q chưa bàn giao mốc giưới đất cho anh
L, anh L chưa sử dụng đất vì vậy cấp sơ thẩm xác định giao dịch dân sự trên vô
hiệu là có căn cứ.
Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Do giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa anh L và ông C, bà Q là giao dịch dân sự vô hiệu nên để
giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu các bên phải khôi phục
lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo khoản 1, 2, 4 Điều
131 Bộ luật Dân sự. Anh L cho rằng ngoài số tiền chuyển khoản cho ông C, bà Q
là 950.000.000đ, vợ anh L là chị H1 còn trực tiếp giao tiền cho ông C, bà Q số
tiền 50.000.000đ nhưng anh L và chị H1 không có chứng cứ chứng minh. Do vậy
chỉ có căn cứ xác định anh L, chị H1 đã giao cho ông C, bà Q số tiền 950.000.000đ.
Về lỗi dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu nhận thấy trong giao dịch dân sự
này anh L và ông C, bà Q đều có lỗi vì hai bên đều không tuân thủ các quy định
về trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên cần xác định hai bên
đều có lỗi như nhau. Ông C, bà Q đã nhận của anh L, chị Q 950.000.000đ nên
phải hoàn trả cho anh L số tiền 950.000.000đ đã nhận và còn phải bồi thường một
khoản tiền là 50% chênh lệch giữa giá trị quyền sử dụng đất khi giao dịch với giá
trị quyền sử dụng đất khi xét xử sơ thẩm. Cụ thể: Theo kết quả định giá tại thời
điểm xét xử sơ thẩm diện tích đất hai bên có giao dịch là: 250m
2
x 4.200.000đ/m
2
= 1.050.000.000đ, chênh lêch tài sản là 1.050.000.000đ - 950.000.000đ =
100.000.000đ. Do cả hai cùng có lỗi nên mỗi người phải chịu ½ giá trị tài sản
chênh lệch nên ông C và bà Q còn phải bồi thường cho anh L 50.000.000đ tiền
chênh lệch tài sản. Tổng số ông C, bà Q phải thanh toán cho anh L, chị H1 là
1.000.000.000đ (Một tỷ đồng) là có cơ sở.
Quá trình giải quyết vụ án anh L có quan điểm nếu tuyên bố hợp đồng vô
hiệu thì buộc ông C và bà Q phải trả lại cho anh L và chị H1 1.000.000.000đ (Một
tỷ đồng) tiền đã nhận và bồi thường 500.000.000đ cho anh L và chị H1. Lý do
yêu cầu bồi thường 500.000.000đ là ngay sau khi giao dịch thửa đất trên đã tăng
giá khoảng 6.500.000đ đến 7.000.000đ nên nếu giao dịch thành công nguyên đơn
sẽ được hưởng lợi. Nay giao dịch không thành công lỗi là do ông C, bà Q gây
thiệt hại cho nguyên đơn nên nguyên đơn tạm tính thiệt hại là 500.000.000đ.
Nguyên đơn không có ý kiến gì về kết quả định giá tại cấp sơ thẩm do thời điểm
đó đất đã giảm giá. Xét thấy yêu cầu trên là không phù hợp, không có căn cứ nào
chứng minh nên không được xem xét.
Với các chứng cứ như trên nhận thấy kháng cáo của người đại diện theo uỷ
quyền của nguyên đơn là không có cơ sở nên không được chấp nhận cần giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên cần rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm về
việc áp dụng Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 trong phần quyết định của bản
án là không chính xác vì giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật có điều kiện bắt buộc bằng văn bản nhưng các bên không giao
dịch bằng văn bản, cấp phúc thẩm cần điều chỉnh lại không áp dụng điều luật trên.
[3] Về chi phí tố tụng, án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn không được
chấp nhận, nên nguyên đơn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định
giá tài sản số tiền chi phí thực tế là 4.500.000đ.
Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận, nên nguyên
đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch số tiền 300.000đ và
300.000đ án phí dân sự phúc thẩm.
Bị đơn phải chịu án phí có giá ngạch về thực hiện nghĩa vụ về tài sản và bồi
thường thiệt hại tổng cộng là 1.000.000.000đ, cụ thể: 36.000.000đ +
(1.000.000.000đ- 800.000.000đ x 3%) = 42.000.000đ.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa là có căn
cứ cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận kháng
cáo của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H. Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 20/2023/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
Căn cứ vào các Điều 500, 502, khoản 1 Điều 407, khoản 2 Điều 117, Điều
119, khoản 1, khoản 2, khoản 4 Điều 131, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự;
khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố giao dịch dân sự giữa anh Trần Văn L và ông Trần Văn C, bà
Tạ Thị Q về việc chuyển nhượng diện tích 250m
2
đất (Trong đó có 100m
2
đất ở,
150m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 357, tờ bản đồ số 32, địa chỉ thửa
đất: thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc là giao dịch dân sự vô hiệu.
2. Buộc ông Trần Văn C và bà Tạ Thị Q thanh toán trả cho anh Trần Văn
L số tiền là: 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng).
Kể từ ngày anh Trần Văn L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Trần Văn
C và bà Tạ Thị Q không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền nêu trên, thì hàng tháng
ông C và bà Q còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 của Bộ luật dân sự.
3.Về chi phí tố tụng, án phí: Anh Trần Văn L phải chịu 4.500.000đ (Bốn
triệu năm trăm nghìn đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Xác nhận anh L đã nộp đủ.
Về án phí dân sự: Anh Trần Văn L phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ
thẩm và 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng
án phí đã nộp là 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003118 ngày
03/10/2022 và Biên lai của thu tiền tạm ứng án phí số 0001296 ngày 20/9/2023
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Dương do ông Nguyễn Văn H nộp
thay anh Trần Văn L. Xác nhận anh L đã nộp đủ án phí.
Ông Trần Văn C và bà Tạ Thị Q phải chịu 42.000.000đ (Bốn mươi hai triệu
đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc;
- Chi cục THADS huyện Tam Dương, tỉnh
Vĩnh Phúc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Phạm Thị Thuý Mai
Tải về
Bản án số 41/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 41/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm