Bản án số 38/2024/DS-ST ngày 24/07/2024 của TAND huyện Thường Tín, TP. Hà Nội về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 38/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 38/2024/DS-ST ngày 24/07/2024 của TAND huyện Thường Tín, TP. Hà Nội về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Quan hệ pháp luật: Y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thường Tín (TAND TP. Hà Nội)
Số hiệu: 38/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/07/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chị Nguyễn Thị Kim P yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu đối với Văn phòng công chứng T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Trí Tuyển.
Các hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Kim Oanh và ông Phạm Văn Phong.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Lê Mai Thư Tòa án nhân dân huyện
Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Khắc Quang - Kiểm sát viên
Ngày 24 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòaán nhân dân huyện Phú Xuyên,
Thành phố Nội xét xử thẩm công khai vụ án dân sthụ số 16/2022/TLST-
DS ngày 13 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng
hiệu theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2024/QĐXXST-DS ngày 19
tháng 6 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1983; Trú tại: Phố D,
phường V, quận H, thành phố Hà Nội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là ông Đặng Xuân C
- Luật sư Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn Đ, Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội.
2. Bị đơn: Văn phòng Công chứng T.
Địa chỉ: Tiểu khu T, thị trấn P, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần T - Chức vụ: Trưởng Văn phòng
Công chứng.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1979; Trú tại: Phố V, phường P, quận H,
Thành phố Hà Nội.
- Anh Trần Hoài N, sinh năm 1980; Đăng hộ khẩu thường trú: ngõ C,
phường T, quận Đ, Thành phố Hà Nội.
(Có mặt chị P, anh T1, luật sư C; vắng mt ông T, anh N)
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN PHÚ XUYÊN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Bản án số:38/2024/DS-ST
Ngày: 24-07-2024
V/v Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn
bản công chứng vô hiệu
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
2
NỘI DUNG V ÁN:
Tại đơn khởi kiện trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim
P trình bày:
Năm 2005 sau khi kết hôn thì chị và anh Nguyễn Văn T1 đến cùng với bố
mẹ anh T1 tại nhà đất của các cụ, thửa đất đó ban đầu là 174m
2
, đã giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Đến khoảng m 2008 - 2009 bố mẹ chồng chị cho anh trai
chồng khoảng ½ đã tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn lại khoảng ½
diện tích đất là 86,8m
2
của vợ chồng chị ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn
đứng tên bố mẹ chồng. Cùng năm 2008 nhà dột nát quá nên vợ chồng chị đã đập
toàn bộ nhà đi xây dựng lên ngôi nhà 03 tầng. Bố chồng chị mất năm 2012, mẹ
chồng chị mt năm 2013. Bố mẹ chồng chị mất không để lại di chúc.
Tháng 10/2017 thì các anh chị em họp gia đình và thống nhất chia cho anh T1
toàn bộ số diện tích đất 86,8m
2
còn lại, nvợ chồng chị xây dựng. Chị xác
định đây tài sản chung của vợ chồng chị. Đến năm 2019 do mâu thuẫn vợ
chồng nên vợ chồng chthuận nh ly hôn, về tài sản chung không đề nghị Tòaán
giải quyết. Tuy nhiên chị và anh T1 có ký thỏa thuận phân chia tài sản như sau: Giao
toàn bộ nhà đất trên cho con trai cháu Nguyễn Trung A sinh ngày 11/8/2006, khi
nào con đủ tuổi thì sẽ làm thủ tục sang tên cho cháu Trung A, biên bản này chị
anh T1 cùng ký, ngoài ra còn anh trai của anh T1 anh Nguyễn Văn C1 chứng
kiến ký tên. Sau khi ly hôn thì chị đưa con trai đi ở chỗ khác, nhà đất này để không.
Khoảng cuối năm 2020 thì chị được biết chuyện anh T1 vay nợ tiền riêng của
người khác, rất nhiều người đến nhà chị đòi nợ lúc đó mới biết sổ đỏ nhà đất đã
không đứng tên anh T1 nữa.Chị không hề tham gia về việc làm ăn hay việc vay
nợ gì của anh T1 cả.
Sau đó, gia đình chị họp gia đình được anh C1 anh trai anh T1 cho
biết nhà đất này đã được sang tên người khác Hợp đồng chuyển nhượng của
Văn phòng Công chứng T, trong hợp đồng lại cả chữ của chị. Chị khẳng định
mình không hề Hợp đồng chuyển nhượng này. chị cũng không hề cung cấp
chứng minh thư nhân dân của chcho anh T1. Chị chưa bao giờ đến Công ty i
chính V địa điểm tại Tầng X, nhà H, đường P, Quận N, thành phố Hà Nội để làm thủ
tục công chứng sang nhượng đất cát cả. Khoảng năm 2021 chị đã được Phòng
cảnh sát điều tra (PC 44) mời làm việc về vấn đề chuyển nhượng này, chị cũng đã
trình bày như trên, chị cũng không nhận được văn bản chính thức nào của quan
điều tra về việc này.
Nay chị khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên tuyên Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 13xx/2017/HĐCN ngày 03/10/2017 của Văn
phòng Công chứng T hiệu. Chị không đề nghị giải quyết hậu quả pháp của
việc tuyên văn bản công chứng hiệu. Ngoài các nội dung trên, chkhông yêu
cầu gì khác.
Phía bị đơn Văn phòng Công chứng T do ông Trần T là người đại diện theo
pháp luật trình bày:
3
Ngày 03/10/2017 Văn phòng Công chứng T nhận được yêu cầu hợp đồng
chuyển nhượng giữa:
- Bên chuyển nhượng: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1979, CMND số
1120220xx, do Công an TP Nội cấp ngày 13/4/2008 và vợ là Nguyễn Thị
Kim P, sinh năm 1983, CCCD số: 011830193xx do cục cảnh sát ĐKQL trú
DLQG về dân cư cấp ngày 05/10/2016.
Cả hai ông bà đều đăng ký hộ khẩu tại phường Phúc La, quận H, TP Hà Nội.
- Bên nhận chuyển nhượng: Ông Trần Hoài N, sinh năm 1980, CMND số:
001080008xxx. Đăng hộ khẩu thường trú tại ngõ C, phường T, quận Đ, TP
Nội.
Địa điểm yêu cầu công chứng: Tầng X, nhà H, đường P, quận N, Thành phố
Nội, trụ sở Công ty tài chính V do ông Chu Trường G Tổng Giám đốc,
Nguyễn Thị Ánh Đ là Giám đốc đại diện.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 03/10/2017 ông (công chứng viên) mặt ti địa
điểm yêu cầu công chứng. Tại đây ông thấy mặt đầy đủ các bên chuyển nhượng
vợ chồng ông T1, bà P bên nhận chuyển nhượng là ông Trần Hoài N. Ngoài ra
còn mt ông Chu Trường G một số nhân viên của công ty nữa ông không nhớ
tên.
Sau khi kiểm tra hồ gốc như: Chứng minh thư (căn cước), sổ hộ khẩu, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất các giấy tờ khác liên quan đến yêu cầu công
chứng, đối chiếu ảnh với người đến thấy đủ điều kiện, công chứng viên đã cho
đọc hợp đồng đã được soạn thảo, họ đọc không ý kiến nên đã đồng ý điểm
chỉ vào hợp đồng theo quy định của Luật công chứng.
Sau khi họ xong, ông đem toàn bộ hợp đồng về văn phòng, kiểm tra li
một lần nữa không phát hiện thấy điều gì sai sót nên ông đã ký vào hợp đồng chuyển
nhượng trên.
Văn phòng Công chứng T cũng xin được trình bày thêm:
Khoảng giữa năm 2021, ông được Văn phòng cảnh sát điều tra (PC44) công
an TP Hà Nội mời lên làm việc. Tại đây ông đã trình bày rõ việc thực hiện quy định
công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng số 13xx/2017 như đã trình bày ở phần trên.
Nhìn lại việc hợp đồng chuyển nhượng số 13xx/2017 tới nay chưa phát
hiện thấy điều sai sót, còn việc Nguyễn Thị Kim P yêu cầu Tòaán nhân dân
huyện Phú Xuyên tuyên hiệu đối với hợp đồng trên văn phòng Công chứng T
kính đề nghị Tòaxem xét giải quyết theo đúng quy định pháp luật. Kết luận giám
định xác định chữ viết chữ ký, dấu vân tay trong hợp đồng không phải của chị
Nguyễn Thị Kim P, Văn phòng Công chứng T nhất trí yêu cầu tuyên hiệu hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của nguyên đơn, không yêu cầu giải quyết
hậu quả pháp của văn bản công chứng hiệu. Văn phòng Công chứng T tôn
trọng sự phán quyết của Toà.
4
Vì bản thân ông bị thoái hoá cột sống phải điều trlâu dài nên không thể tham
gia các lần triệu tập của Tòađược, ông xin vắng mặt trong quá trình tố tụng vắng
mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T1 trình bày:
Năm 2005 sau khi kết hôn thì vợ chồng anh đến cùng với bố mẹ đẻ anh,
thửa đất đó ban đầu 174m
2
, đã giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến
khoảng năm 2008 - 2009 bố mẹ anh cho anh trai anh khoảng ½ đã tách giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, còn lại khoảng ½ diện tích đất 86,8m
2
vchồng
anh ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn đứng tên bố mẹ anh. Cùng năm 2008
nhà dột nát quá nên vợ chồng anh đã đập toàn bộ nhà cũ đi xây dựng lên ngôi nhà 03
tầng. Bố anh mất năm 2012, mẹ anh mất năm 2013. Bố mẹ anh mất không để lại di
chúc. Tháng 10/2017 thì các anh chị em họp gia đình thống nhất chia cho anh
toàn bộ số diện tích đất 86,8m
2
còn lại. Anh xác định đây là tài sản chung của vợ
chồng anh.
Đến năm 2019 do có mâu thuẫn vợ chồng nên vợ chồng anh thuận tình ly hôn,
về tài sản chung không đề nghị Tòa án giải quyết. Tuy nhiên vợ chồng anh
thỏa thuận phân chia tài sản như sau: Giao toàn bộ nhà đất trên cho con trai cháu
Nguyễn Trung A sinh ngày 11/8/2006, khi nào con đủ tuổi thì s làm thủ tục sang
tên cho cháu Trung A, biên bản này anh chị P cùng ký, ngoài ra còn anh trai
của tôi anh Nguyễn Văn C1 chứng kiến tên. Sau khi ly hôn thì chị P đưa con
trai đi ở chỗ khác, nhà đất này để không.
Khi vợ chồng anh chưa ly hôn thì thông qua người quen biết anh quen anh
N hỏi vay riêng số tiền 400.000.000 đồng. Anh N đồng ý cho anh vay tiền và yêu
cầu để lại giấy tờ nhà đất. Anh N đưa cho anh hợp đồng vay mượn hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất cho anh tên. Khi N đưa cho anh hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thì đã chữ của chị P, khi đó anh biết chắc chắn đó
không phải chữ của chị P nhưng do lúc đó đang nhu cầu vay N tiền, hơn
nữa hợp đồng chưa công chứng nên anh vẫn ký. Anh gặp anh N tại Tầng X Tòanhà
H để hợp đồng, lúc đó anh N đi cùng hai nhân viên nữ, không nhân viên công
chứng nào cả, anh 02 bản,01 bản anh giữ, 01 bản anh N giữ. Mục đích hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là để làm tin chứ anh không ý định
chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Anh chỉ cung cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất bản gốc cho N và 01 bản phô sổ hộ khẩu, 01 bản phô tô chứng minh thư
của anh. Ngoài ra anh không cung cấp cho anh N bất kỳ một giấy tờ nào khác.
Đến khi anh trả lãi tháng đầu tiên cho anh N thì đã không tìm được N thì anh
biết nh bị lừa. Anh đã đến gặp gia đình anh N để nói chuyện nhưng cũng không
gặp được anh N, vợ anh N cho biết anh N không nhà. Sau đó anh đã làm đơn lên
Công an bên Công an giao cho anh Thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội
phạm.
Nay chị P làm đơn đnghị Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên tuyên hiệu
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 13xx/2017/HĐCN ngày 03/10/2017
5
của Văn phòng Công chứng T, quan điểm của anh đề nghị Tòaán giải quyết theo
quy định của pháp luật.
Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử
Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất số 13xx/2017/HĐCN;
Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/10/2017 của Văn phòng Công chứng T
hiệu.
Đại diện VKSND tham gia phiên Tòaxác định:
Về tố tụng: Quá trình ttụng cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Thư
được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định về thu thập chứng
cứ, chấp hành đúng pháp luật ttụng; Đương sự vắng mặt đã được Tòa án tạo mọi
điều kiện để thực hiện các quyền nghĩa vụ tố tụng dân sự; Đương sự mặt đã
thực hiện đầy đủ các quyền nghĩa vụ tố tụng của mình trong suốt quá trình t
tụng cũng như tại phiên toà...
Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim P, cụ thể:
Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất số 13xx/2017/HĐCN;
Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/10/2017 của Văn phòng Công chứng T
hiệu. Không giải quyết hậu qupháp của việc tuyên bố văn bản công chứng
hiệu. Về án phí: n phòng Công chứng T phải chịu 300.000đ án phí dân sự
thẩm.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòatrên cơ sở lời trình bày của các bên
đương sự và quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cùng trình bày của các bên đương sự, Hội đồng xét xử xác định
đây là vụ kiện dân sự về tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng hiệu
theo quy định tại khoản 11 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim P quyền khởi kiện
theo quy định tại Điều 52 Luật công chứng m 2014; bị đơn Văn phòng Công
chứng T địa chỉ tại tiểu khu T, thị trấn P, huyện Phú Xuyên, Thành phố Nội,
vậy TAND huyện Phú Xuyên thụ lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân
sự. Về thời hiệu khởi kiện: Vụ án còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều
184 Bộ luật ttụng dân sự các Điều 123, 132, 154 Bộ luật dân sự. Về svắng
mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Trần Hoài N. Mặc đã được
Tòa án triệu tập phiên tòa hợp lệ lần thứ hai anh N vẫn vắng mặt không có lý do nên
việc xét xử vắng mặt anh N đúng quy định tại các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng
dân sự.
[2] Về nội dung: Hội đồng xét xử xét thấy:
6
Anh Nguyễn Văn T1 trình bày phù hợp với các tài liệu, chứng cứ anh giao nộp
tại Tòa án như:
- “Văn bản thỏa thuận kèm theo hợp đồng chuyển nhượng” đề ngày
03/10/2017, giữa anh Nguyễn Văn T1 anh Trần Hoài N, không công chứng,
chứng thực; nội dung chủ yếu: Anh T1 vay anh N s tiền 400.000.000 đồng, lãi
suất 12%/năm, thời hạn vay 6 tháng 12 tháng; Anh T1 thế chấp cho anh N toàn bộ
thửa đất tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 1xx, tờ bản đồ số 2x, diện tích
86,8m
2
địa chỉ Tổ dân phố số 6, phường P, quận H, Thành phố Nội theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số
CH616xxx mang tên Nguyễn Văn T1.
- “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa anh Nguyễn Văn T1, chị
Nguyễn Thị Kim P với anh Trần Hoài N tại thửa đất số 1xx, tờ bản đồ s2x, diện
tích 86,8m
2
địa chỉ Tổ dân phố số 6, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất số
CH616xxx mang tên Nguyễn Văn T1, theo mẫu mang tên Văn phòng Công chứng
T, chỉ chữ ký, chữ viết, dấu vân tay của hai bên chưa chứng nhận của tổ
chức công chứng.
Do vậy căn cứ để xác định anh T1 vay của anh Trần Hoài N số tiền 400
triệu đồng giao cho anh N giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất để làm tin, các văn bản này đều không chứng
thực của tchức công chứng, vi phạm Điều 48 Luật công chứng: “Người yêu cầu
công chứng, người làm chứng, người phiên dịch phải vào hợp đồng, giao dịch
trước mặt công chứng viên”.
Đối với li trình bày của chị Nguyễn Thị Kim P, Tòa án đã tiến hành trưng cầu
giám định chữ viết, chữ ký, dấu vân tay đng tên Nguyễn Thị Kim P trong Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 13xx/2017/CN; Quyển số 01TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 03/10/2017 của Văn phòng Công chứng T. Tại bản Kết luận giám
định số 319/2022/QĐ-TCGĐ ngày 24/10/2022 của Viện Khoa học hình sự - Bộ
Công an đã kết luận “chữ P”, chữ viết “Nguyễn Thị Kim Ptrong hợp đồng
chuyển nhượng không phải của Nguyễn Thị Kim P”. Tại bản Kết luận giám định
số 392/KL-KTHS ngày 14/12/2022 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an đã kết
luận “dấu vân tay trong hợp đồng chuyển nhượng không phải của Nguyễn Thị
Kim P”.
Như vậy n cđể xác định lời trình bày của chị P là đúng, chị P không
tham gia, không ký kết hợp đồng chuyển nhượng.
Sau khi kết luận giám định, Văn phòng Công chứng T đã xác định: Có s
giả mạo của người yêu cầu công chứng (P) để lừa dối công chứng viên. Hành vi
trên đã vi phạm khoản 2 Điều 7 Luật Công chứng Điều 123 Bộ luật Dân sự năm
2015 (hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm).
Đối với trình bày của anh T1 về việc tố cáo anh Trần Hoài N lừa đảo, Công an
thành phố Nội đang tiến hành giải quyết theo công văn số 9723/CQĐT-
PC01(Đ2) ngày 06/10/2023 của quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố
7
Nội. Như vậy, cơ quan công an đã và đang xem xét, xử lý hành vi của anh Trần Hoài
N theo đơn tố giác của anh T1. Chị P không đơn đề nghị quan công an giải
quyết, do vậy Tòa án giải quyết yêu cầu khởi kiện của chP là phù hợp quy định của
pháp luật.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị
Nguyễn Thị Kim P; tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất s
13xx/2017/HĐCN; Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/10/2017 của Văn
phòng Công chứng T vô hiệu.
Về hậu quả pháp của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bị
hiệu: Do các bên không yêu cầu Tòa giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử
không xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các bên bằng vụ án dân sự khác nếu
yêu cầu.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát người bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho nguyên đơn phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên
không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm được trả lại tiền tm ứng án phí đã nộp;
phía bị đơn Văn phòng Công chứng T phải chịu án phí dân sự thẩm theo quy
định ti Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 củay ban thường vụ Quốc hội khóa 14.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương s quyền kháng cáo bản án theo quy
định tại các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng các Điều 123, 132, 407 Bộ luật dân sự; các Điều 7, 41, 44, 46, 48, 52
Luật Công chứng năm 2014; Khoản 11 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm c
Khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 184, Điều 227, Điều 228, Điều 271 Điều 273
Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mc thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý
việc sử dụng án phí Tòa án, tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim P, cụ thể:
Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 13xx/2017/HĐCN;
Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày 03/10/2017 của Văn phòng Công chứng T
hiệu.
2. Không giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố văn bản công chứng vô
hiệu.
3. Về án phí: n phòng Công chứng T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại chị Nguyễn Thị Kim P 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 00478xx ngày
10/6/2022 ti Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên.
8
Án xử công khai sơ thẩm, báo nguyên đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể tngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại
nơi cư trú.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự./.
Nơi nhận:
- TAND TP Nội;
- Viện KSND TP Hà Nội;
- Viện KSND huyện Phú Xuyên;
- Chi cục THADS huyện Phú Xuyên;
- Các đương sự;
- Lưu VT, hồ sơ vụ án;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Trí Tuyển
Tải về
Bản án số 38/2024/DS-ST Bản án số 38/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 38/2024/DS-ST Bản án số 38/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất