Bản án số 100/2025/DS-PT ngày 14/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 100/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 100/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 100/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 100/2025/DS-PT ngày 14/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 100/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hủy toàn bộ án sơ thẩm số 18/2024/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giữa Nguyên đơn Bà Lê Thị E với bị đơn Ông Huỳnh Minh A và bà Huỳnh Thị Phương D. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng để xét xử sơ thẩm lại đúng qui định pháp luật. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông
Phạm Tồn
ông
Phạm Văn Hợp
ông
Nguyễn Tấn Long
-
Thư ký phiên tòa
: bà
Bùi Thị Hồng Phượng
, Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa
: bà
Nguyễn Thị Hà
, Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 173/2024/TLPT-DS ngày 01
tháng 10 năm 2024 về việc “Yêu cầu hủy di chúc, hủy văn bản khai nhận di sản
thừa kế, hủy quyết định cá biệt, chia di sản thừa kế theo pháp luật và công nhận
hợp đồng chuyển nhượng nhà đất, công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2024/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số:
100
/2025/DS-PT
Ngày: 14/3/2025
V/v: “Yêu cầu hủy di chúc, hủy văn
bản khai nhận di sản thừa kế, hủy
quyết định cá biệt, chia di sản thừa kế
theo pháp luật và công nhận hợp đồng
chuyển nhượng nhà đất, công nhận
quyền sở hữu nhà và quyền sử
dụng đất”
2
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 432/2025/QĐ-PT ngày 21 tháng
02 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị E, sinh năm 1957; địa chỉ: Tổ E phường N, quận
S, thành phố Đà Nẵng; có mặt;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của bà Lê Thị E: ông Nguyễn
Lê V - Luật sư của Công ty Luật một thành viên Nguyễn Gia thuộc Đoàn Luật sư
thành phố Đ; địa chỉ: B T, quận T, thành phố Đà Nẵng; có mặt;
- Bị đơn: Ông Huỳnh Minh A, sinh năm 1971; địa chỉ: số A, đường N,
phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng và bà Huỳnh Thị Phương D, sinh năm
1983; địa chỉ: số D N, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Ông A vắng, bà D
có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lê Thị T, sinh năm: 1949; Địa chỉ: E S, N, L, USA.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị T: ông Nguyễn Thành Đ, sinh
năm 1981; địa chỉ: số E T, quận H, thành phố Đà Nẵng; có mặt;
2. Bà Lê Thị P; địa chỉ: 1829 H Th Ave Oakland C, USA.
3. Bà Lê Thị C, sinh năm 1967; địa chỉ: Tổ A (tổ M), A, phường A, quận
S, thành phố Đà Nẵng; có mặt;
4. Bà Lê Thị N, sinh năm 1965; địa chỉ: Số A Dũng T, phường N, quận S,
thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
5. Ông Lê Phước T1, sinh năm 1971; địa chỉ: Số F L, phường A, quận S,
thành phố Đà Nẵng; có mặt.
6. Ông Lê Phước L, sinh năm 1972; địa chỉ: Số D N, phường N, quận S,
thành phố Đà Nẵng; có mặt.
7. Ông Lê Phước Cu S, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ I phường H, quận L,
thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
8. Ông Lê Phước T2, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn L, phường Đ, thị xã Đ,
tỉnh Quảng Nam; có mặt.
9. Ông Lê Phước Đ1, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn L, phường Đ, thị xã Đ,
tỉnh Quảng Nam; có mặt.
10. Bà Thái Thị Ngọc H, sinh năm:1964; địa chỉ: tổ A, phường B, quận H,
thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Thái Thị Ngọc H: ông Trần Văn T3,
sinh năm 1972; địa chỉ: 1 K108 H, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng; có
mặt.
3
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Thái Thị Ngọc H: ông Phạm
C1 - Luật sư của Văn phòng Luật sư Hà Đồng Thông thuộc Đoàn Luật sư thành
phố Đ; vắng mặt.
11. Phòng Công chứng số 3 thành phố Đ; địa chỉ: Lô A B đường V, phường
A, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Đại diện theo pháp luật có bà Nguyễn Thị Hoài T4 - Chức vụ: Phó phòng
phụ trách Phòng Công chứng số C thành phố Đà Nẵng; có mặt.
12. Phòng Công chứng số 1 thành phố Đ; địa chỉ: số A đường P, quận H,
thành phố Đà Nẵng.
Đại diện theo pháp luật có bà Nguyễn Thị Bích V1 - Chức vụ: Phó phòng
phụ trách Phòng C thành phố Đà Nẵng; có mặt.
13. Văn phòng C3; địa chỉ: số I N, S, thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo pháp luật: ông Phạm Văn K
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Văn phòng C3: ông Nguyễn
Hữu N1 - Luật sư của Chi nhánh Công ty L3 tại thành phố Đà Nẵng; có mặt.
14. Sở Tài nguyên & Môi trường thành phố Đ; địa chỉ: Tầng A, Trung tâm
hành chính thành phố Đ, số B T, quận H, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
15. Ủy ban nhân dân thành phố Đ; địa chỉ: số B T, quận H, thành phố Đà
Nẵng; vắng mặt.
16. Tổng Công ty B1 - Công ty B; địa chỉ: A N, phường N, quận H, thành
phố Đà Nẵng; vắng mặt
* Người kháng cáo: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng C, bà
Thái Thị Ngọc H, Phòng C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại Đơn khởi kiện ngày 10/4/2018, Đơn khởi kiện bổ sung ngày
20/12/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị E trình bày:
Cha bà là Lê Phước T5 (sinh năm 1912, chết năm 2000) và mẹ bà là Trần
Thị T6 (sinh năm 1917, chết năm 2011) có 6 người con gồm: Lê Phước N2 (chết
năm 1971 có 3 con là Lê Thị N, Lê Phước T1, Lê Phước L), Lê Phước C2 (chết
năm 1982 có 3 con là Lê Phước Cu S, Lê Phước T2, Lê Phước B); Lê Thị T; Lê
Thị P; Lê Thị E và Lê Thị C. Cha mẹ bà không có con riêng nào.
Quá trình chung sống cha mẹ bà tạo lập được nhà cấp 4 và đất tại tổ B,
phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Tài sản này có nguồn gốc từ trước năm
1975. Đến năm 1999 nhà đất trên thuộc diện giải tỏa để phục vụ dự án công trình
đường B nên nhà nước bồi thường tiền nhà đất và cấp một lô đất tái định cư tại lô
A, khu J, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng.
4
Năm 2000 cha của bà chết, các anh chị em đều có gia đình ở riêng. Thời
điểm này bà Lê Thị T (Việt kiều Mỹ) là người trực tiếp chở mẹ bà đi nhận đất tái
định cư và là người đang giữ tất cả các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc nhận
đất tái định cư. Sau khi nhận đất tái định cư, năm 2002 mẹ bà đã xây dựng thành
một căn nhà 03 tầng như hiện nay làm nơi thờ cúng ông bà, tổ tiên.
Việc mẹ bà đã làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng
tên một mình, bà và các anh chị em trong gia đình không biết. Năm 2017, bà Lê
Thị T ở Mỹ về Việt Nam và đã cho bà Huỳnh Thị Phương D đến ở và giữ nhà lo
hương khói cho ông bà. Vì cách xử sự của bà T như vậy nên đã xảy ra mâu thuẫn
giữa bà T và các chị em, con cháu trong gia đình. Mỗi lần các anh chị em con
cháu trong gia đình đến thắp hương cho ông bà thì đều bị bà D và anh ruột của D
là Huỳnh Minh A cản trở.
Năm 2018 anh em bà tìm hiểu và được biết hiện nay nhà và đất nêu trên đã
được Sở Tài nguyên môi trường thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho hai anh em Huỳnh Minh A và Huỳnh Thị Phương D. Tuy nhiên, tất cả
anh chị em trong gia đình bà đều không ai biết về việc chuyển nhượng này. Cho
đến khi Văn phòng Đăng ký đất đai quận S trả lời khiếu nại thì bà mới biết mẹ bà
có lập Di chúc ngày 14/6/2001 nội dung để lại lô đất số 18, khu J, phường N, quận
S, thành phố Đà Nẵng cho bà T.
Tại thời điểm lập di chúc mẹ bà không biết chữ và đã bị bệnh, không nhận
thức được hành vi của mình nên di chúc này không hợp pháp. Do đó việc bà T
làm văn bản khai nhận di sản thừa kế và sau này bà Thành lập Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất cho bà Huỳnh Thị Phương
D và ông Huỳnh Minh A là không đúng quy định pháp luật.
Theo Đơn khởi kiện bà yêu cầu Tòa án giải quyết Hủy Di Chúc do bà Trần
Thị Thành L1 ngày 14/6/2001 được công chứng viên Phòng C chứng nhận số
90HV3-4 ngày 14/6/2001; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R391244
ngày 30/5/2001 do Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp cho bà Trần Thị T6; Hủy
Văn bản khai nhận thừa kế của bà Lê Thị Thành L2 tại Phòng công chứng số C
thành phố Đà Nẵng chứng nhận số 4059 ngày 21/7/2017; Hủy Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất số 4061 ngày 21/7/2017 tại Phòng công chứng số 3
giữa bà Lê Thị T và ông Huỳnh Minh A, bà Huỳnh Thị Phương D; Hủy Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CK 117908
ngày 15/8/2017 của Sở Tài nguyên & Môi trường thành phố Đ cấp cho ông Huỳnh
Minh A và bà Huỳnh Thị Phương D. Đồng thời đề nghị hủy Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/8/2018 giữa bà Thái Thị Ngọc H và ông
Huỳnh Minh A, bà Huỳnh Thị Phương D.
5
Ngày 20/12/2018 bà Lê Thị E nộp Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện, bà đề
nghị Tòa án xem xét giải quyết chia thừa kế theo pháp luật di sản của ông Lê
Phước T5 và bà Trần Thị T6 đối với nhà đất tại số A đường N, phường N, quận
S, thành phố Đà Nẵng, bà yêu cầu được nhận hiện vật và thối trả cho các đồng
thừa kế.
Nguyên đơn thống nhất theo kết quả định giá của Công ty cổ phần T9, chi
nhánh Đ2, cụ thể: Ngôi nhà 2 tầng + cabin cầu thang đúc kết cấu móng đá bê tông
cốt thép, tường xây gạch, trát vữa, bả mactic, sơn nước, sàn đúc, mái đúc, nền
gạch men có gác lửng, diện tích xây dựng 83,2m2, diện tích sử dụng 179,75m2
trị giá 440.387.500 đồng; lô đất diện tích 83,23m2 thuộc thửa J18, tờ bản đồ KT
03/4 (thửa 81, tờ bản đồ 52) tại số A đường N, phường N, quận S, thành phố Đà
Nẵng trị giá 4.479.483.500 đồng. Tổng trị giá nhà và đất tính theo loại đất ở là
4.919.826.000 đồng.
* Theo Bản trình bày ngày 31/5/2018, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên
tòa bà Huỳnh Thị Phương D trình bày:
Bà Trần Thị T6 sinh năm 1917, chết năm 2011, có chồng là ông Lê Phước
T5, sinh năm 1912, chết năm 2000. Sau khi chồng bà T6 chết, con gái bà T6 là
Lê Thị T ở Mỹ gửi tiền về cho mẹ mua lô đất tại phường N, lô đất này được Ủy
ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R-391244
ngày 30/5/2001 cho bà Trần Thị T6. Đây là tài sản được hình thành sau khi ông
T5 qua đời nên được xác định là tài sản riêng của bà T6, không liên quan gì đến
ông T5. Khi ông T5 qua đời cũng không phát sinh quyền thừa kế cho bất kỳ ai đối
với lô đất này.
Do nguồn gốc số tiền mua đất này từ bà Lê Thị T gửi về nên sau khi được
Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R-
391244 ngày 30/5/2001, bà Trần Thị T6 đã lập Di chúc để lại toàn bộ tài sản này
cho con gái là bà Lê Thị T. Di chúc được Phòng C thành phố Đà Nẵng chứng
nhận ngày 14/6/2001 theo đúng quy định pháp luật.
Sau khi bà T6 chết vào ngày 17/02/2011, đến tháng 5/2017 bà T mới tiến
hành kê khai di sản thừa kế tại Phòng Công chứng số C thành phố Đà Nẵng. Việc
kê khai được thực hiện theo đúng quy định pháp luật, niêm yết 30 ngày, không có
ai tranh chấp. Sau khi kê khai di sản thừa kế xong, bà T đã chuyển nhượng lô đất
nêu trên lại cho anh em bà Huỳnh Thị Phương D với số tiền 2.000.000.000 đồng.
Hợp đồng chuyển nhượng cũng được Phòng C thành phố Đà Nẵng chứng nhận
ngày 21/7/2017. Sau đó anh em bà D được Sở Tài nguyên và Môi trường thành
phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác trên đất số CK117808 ngày 15/8/2017 nên đây là tài sản hợp pháp của ông
A bà D.
6
Việc chuyển nhượng giữa bà T và anh em bà D được thực hiện theo đúng
quy định pháp luật nên anh em bà D không có nghĩa vụ phải trả lại nhà cho bà Lê
Thị E, đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị
E vì không có cơ sở pháp lý.
Hiện nay nhà đất tranh chấp trên bà D và ông A đã chuyển nhượng cho bà
Thái Thị Ngọc H số tiền 4.000.000.000 đồng đã qua công chứng tại Văn phòng
C3, tuy nhiên Hợp đồng chỉ ghi giá trị 300.000.000 đồng để giảm thuế. Bà D xác
định khi chuyển nhượng nhà đất cho bà H thì bà không nói gì với bà H về tài sản
đang tranh chấp và bà D thừa nhận trước khi chuyển nhượng bà E và một số người
nhà bà E có ghi trên tường nhà bằng sơn là nhà đang tranh chấp, tuy nhiên bà đã
tẩy xóa dòng chữ đó để người mua không biết. Bà D đề nghị Tòa án công nhận
nhà đất thuộc sở hữu của bà H. Trong trường hợp Toà án chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của bà Lê Thị E thì bà yêu cầu Toà án xử lý hậu quả của việc Tuyên bố Hợp
đồng vô hiệu.
Bà Huỳnh Thị Phương D thống nhất theo kết quả định giá của Công ty cổ
phần T9, chi nhánh Đ2 và không yêu cầu định giá lại.
* Theo Bản trình bày ngày 23/5/2018 và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn
ông Huỳnh Minh A trình bày:
Nhà và đất tại địa chỉ A đường N, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng
được ông và em của ông là bà Huỳnh Thị Phương D nhận chuyển nhượng từ bà
Lê Thị T với số tiền 2.000.000.000 đồng. Việc chuyển nhượng được thực hiện tại
Phòng C thành phố Đà Nẵng. Sau khi nhận chuyển nhượng ông và bà D đã thực
hiện việc nộp thuế trước bạ sang tên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước.
Việc bà Lê Thị E khởi kiện đối với anh em ông là không có cơ sở đề nghị Tòa án
không chấp nhận.
Ngày 14/8/2018 bà D và ông đã chuyển nhượng nhà đất tranh chấp nêu trên
cho bà Thái Thị Ngọc H số tiền 4.000.000.000 đồng đã qua công chứng tại Văn
phòng C3, tuy nhiên Hợp đồng chỉ ghi giá trị 300.000.000 đồng để giảm thuế.
Ông đề nghị công nhận nhà đất thuộc sở hữu của bà H.
Ông Huỳnh Minh A thống nhất theo kết quả định giá của Công ty cổ phần
T9, chi nhánh Đ2 và không yêu cầu định giá lại.
* Quá trình giải quyết vụ án và quá trình giải quyết vụ án, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Phước T1, ông Lê Phước L (con ông Lê Phước
N2); ông Lê Phước Cu S, ông Lê Phước T2, ông Lê Phước B (con ông Lê Phước
C2); bà Lê Thị C trình bày:
Các ông bà thống nhất hoàn toàn với nội dung trình bày của nguyên đơn bà
Lê Thị E, đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà E,
không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Thái Thị Ngọc H.
7
Các ông bà thống nhất theo kết quả định giá của Công ty cổ phần T9, chi
nhánh Đ2 và không yêu cầu định giá lại.
Theo Bản trình bày ngày 24/10/2018 và quá trình giải quyết vụ án, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T đại diện ủy quyền của bà Lê Thị T
là ông Nguyễn Thành Đ trình bày:
Mẹ bà Lê Thị T là cụ Trần Thị T6 sinh năm 1917, chết năm 2011; và cha
bà T là cụ Lê Phước T5, sinh năm 1912, chết năm 2000. Sau khi chồng bà T6
chết, con gái bà T6 là Lê Thị T ở Mỹ gửi tiền về cho mẹ mua lô đất tại phường N,
lô đất này được Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đất số R-391244 ngày 30/5/2001 cho bà Trần Thị T6. Đây là tài sản được
hình thành sau khi ông T5 qua đời nên được xác định là tài sản riêng của bà T6.
Do nguồn gốc số tiền mua đất này từ bà Lê Thị T gửi về nên sau khi được
Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R-
391244 ngày 30/5/2001, bà Trần Thị T6 đã lập Di chúc để lại toàn bộ tài sản này
cho con gái là bà Lê Thị T. Di chúc được lập tại Phòng C thành phố Đà Nẵng
chứng nhận ngày 14/6/2001 theo đúng quy định pháp luật Việt Nam. Sau khi bà
T6 chết vào ngày 17/02/2011, bà T mới tiến hành kê khai di sản thừa kế tại Phòng
công chứng số C thành phố Đà Nẵng. Việc kê khai được thực hiện theo đúng quy
định P2, đồng thời không có ai tranh chấp. Sau khi kê khai di sản thừa kế xong bà
T đã chuyển nhượng lô đất nêu trên lại cho ông Huỳnh Minh A và bà Huỳnh Thị
Phương D. Hợp đồng chuyển nhượng cũng được Phòng C thành phố Đà Nẵng
chứng nhận ngày 21/7/2017. Thực tế giá trị tài sản bà T chuyển nhượng cho ông
A bà D là 2 tỷ đồng. Sau đó anh em bà D được Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác trên đất số CK117908 ngày 15/8/2017. Như vậy việc khởi kiện của
nguyên đơn bà E là không có cơ sở, đề nghị Tòa án xem xét bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của bà E.
Người đại diện ủy quyền của bà Lê Thị T thống nhất theo kết quả định giá
của Công ty cổ phần T9, chi nhánh Đ2 và không yêu cầu định giá lại.
* Theo Đơn yêu cầu độc lập ngày 05/10/2018 và quá trình giải quyết vụ án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thái Thị Ngọc H, người đại diện theo
ủy quyền của bà Thái Thị Ngọc H là ông Trần Văn T3 trình bày:
Ngày 14/8/2018 bà Thái Thị Ngọc H nhận chuyển nhượng của ông Huỳnh
Minh A và bà Huỳnh Thị Phương D nhà và đất tại địa chỉ A đường N, phường N,
quận S, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác trên đất số CK117908 do Ủy ban nhân dân thành phố
Đ cấp ngày 15/8/2017. Việc giao dịch nhận chuyển nhượng được thực hiện tại
Văn phòng C3. Khi nhận chuyển nhượng bà H không hề biết đó là tài sản đang
8
tranh chấp vì bên bán cũng như Văn phòng công chứng xác định tài sản không có
tranh chấp.
Việc nhận chuyển nhượng nhà đất với giá 4.000.000.000 đồng bà H đã giao
đủ cho ông A, bà D. Tuy nhiên khi bà H đến Văn phòng Đ3 chi nhánh quận S để
làm thủ tục sang tên thì bà H mới nhận được trả lời của Văn phòng đăng ký đất
đai là hồ sơ sang tên này bị tạm dừng do Tòa án đang giải quyết. Lúc này bà H
mới biết tài sản có tranh chấp tại Tòa án.
Nay bà H yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết công nhận Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng lập ngày 14/8/2018 giữa bà Thái Thị Ngọc H và ông
Huỳnh Minh A, bà Huỳnh Thị Phương D có hiệu lực đồng thời công nhận nhà và
đất tại A đường N, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng thuộc sở hữu của bà
H.
Người đại diện ủy quyền của bà Thái Thị Ngọc H thống nhất theo kết quả
định giá của Công ty cổ phần T9, chi nhánh Đ2 và không yêu cầu định giá lại.
* Tại Văn bản số 488/CNVPĐKĐĐST ngày 04/7/2018 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai quận Đ3, đại diện ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ trình bày:
Bà Trần Thị T6 được Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số R391244 ngày 30/5/2001 đối với thửa đất J-18 tờ bản đồ
KT03/4 phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Theo Văn bản khai nhận di sản thừa kế số 4059 lập tại Phòng công chứng
số C thành phố Đà Nẵng ngày 21/7/2017 với nội dung khai nhận di sản thừa kế
do bà Trần Thị T6 chết để lại Di chúc số 90HV3-4 do Công chứng viên Phòng
công chứng số 1 thành phố Đà Nẵng chứng nhận ngày 14/6/2001 cho bà Lê Thị
T đối với thửa đất trên. Sau đó bà T chuyển nhượng toàn bộ thửa đất nêu trên cho
ông Huỳnh Minh A và bà Huỳnh Thị Phương D theo Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số 4061 lập tại Phòng C ngày 21/7/2017 và được Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai quận Đ3 đăng ký chỉnh lý biến động ngày 31/7/2017
trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên đứng tên ông A bà D. Tiếp đó
ông A bà D đề nghị cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
và tài sản gắn liền với đất số CK117908 ngày 15/8/2017 đối với thửa đất 81, tờ
bản đồ số 52 địa chỉ lô A Khu J, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng.
Việc thực hiện các thủ tục cấp Giấy chứng nhận cũng như đăng ký chỉnh lý
biến động sau khi cấp Giấy chứng nhận đối với thửa đất nêu trên được thực hiện
đảm bảo đúng trình tự thủ tục hiện hành tại thời điểm. Đề nghị Tòa án xem xét
giải quyết theo quy định pháp luật. Văn phòng Đ3 chi nhánh S xin được phép
vắng mặt trong quá trình tố tụng cho đến khi vụ án kết thúc.
9
* Tại Văn bản số 137/CC1 ngày 17/5/2019 và quá trình giải quyết vụ án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng C thành phố Đà Nẵng trình bày:
Sau khi xem xét hồ sơ lưu trữ, Phòng C thành phố Đà Nẵng nhận thấy Công
chứng viên đã thực hiện việc chứng nhận đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định
theo yêu cầu và theo các giấy tờ xuất trình của các bên tham gia giao dịch. Nay
bà Lê Thị E khởi kiện yêu cầu Tòa án Hủy Di Chúc do bà Trần Thị T6 lập ngày
14/6/2001 được Công chứng viên Phòng C thành phố Đà Nẵng chứng nhận số
90HV3-4 ngày 14/6/2001 thì Phòng C thành phố Đà Nẵng chấp nhận. Tuy nhiên
lỗi do Ủy ban nhân dân thành phố Đ đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số R391244 ngày 30/5/2001 cho bà Trần Thị T6 sai quy định chứ không phải lỗi
của Phòng C thành phố Đà Nẵng.
* Tại Văn bản số 145/CV-CC1 ngày 14/5/2019 và tại phiên tòa sơ thẩm
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng C thành phố Đà Nẵng trình bày:
Công chứng viên của Phòng C thành phố Đà Nẵng đã thực hiện chứng nhận
Văn bản khai nhận di sản thừa kế số 4059 lập bởi bà Lê Thị T (Le Thanh T7), hộ
chiếu số 525547600.
Việc chứng nhận văn bản nêu trên được công chứng viên Phòng công chứng
số C thành phố Đà Nẵng thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp
luật, theo yêu cầu và theo các giấy tờ hợp lệ do người tham gia hợp đồng xuất
trình.
Khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng 2014 quy định: “Hợp đồng, giao dịch
được công chứng có giá trị chứng cứ, những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng,
giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án
tuyên bố vô hiệu”. Do vậy, Phòng C thành phố Đà Nẵng không có bất cứ quyền
lợi hay nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự nêu trên.
* Tại Văn bản số 20/CV-VPCP ngày 09/7/2019, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Văn phòng Công chứng Phạm Văn K trình bày:
Theo quy định của pháp luật thì chỉ có cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án, Cơ quan Thi hành án mới có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn chuyển
dịch tài sản. Văn bản ngăn chặn do cơ quan có thẩm quyền ban hành được gửi
đến sở Tư pháp để nhập vào hệ thống cơ sở dữ liệu công chứng là cơ sở để các
công chứng viên kiểm tra đối chiếu khi thực hiện công chứng hợp đồng giao dịch.
Do đó khi chưa có thông tin ngăn chặn của cơ quan có thẩm quyền thì công chứng
viên phải thực hiện việc công chứng, nếu từ chối gây thiệt hại thì phải bồi thường
thiệt hại. Vì vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Huỳnh Thị
Phương D, ông Huỳnh Minh A và bà Thái Thị Ngọc H do Văn phòng C3 công
chứng ngày 14/8/2018 với thủ tục công chứng theo đúng quy định pháp luật nên
không chấp nhận đề nghị của bà Lê Thị E hủy hợp đồng công chứng này.
10
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2024/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định:
- Căn cứ các Điều 638, 679, 680 Bộ luật Dân sự 1995; khoản 3 Điều 655
Bộ luật Dân sự năm 1995; khoản 1 Điều 132; Điều 623, 651 Bộ luật Dân sự 2015;
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 và điểm b khoản
1 Điều 118 Luật Nhà ở năm 2014;
- Căn cứ Điều 138, 147, 165, 166, 227, 273, 477, 479 Bộ luật Tố tụng
Dân sự;
- Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức
thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
I. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị E đối với ông Huỳnh Minh
A và bà Huỳnh Thị Phương D; Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Thái Thị
Ngọc H.
Tuyên bố:
1. Di Chúc số 90HV3-4 do bà Trần Thị T6 lập ngày 14/6/2001 được công
chứng viên Phòng C chứng nhận ngày 14/6/2001 là vô hiệu.
2. Văn bản khai nhận thừa kế ngày 21/7/2017 của bà Lê Thị T do Phòng C
thành phố Đà Nẵng chứng nhận số 4059 ngày 21/7/2017 là vô hiệu.
3. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị T và ông
Huỳnh Minh A, bà Huỳnh Thị Phương D được Phòng C thành phố Đà Nẵng chứng
nhận số 4061 ngày 21/7/2017 là vô hiệu.
4. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/8/2018 giữa bà
Thái Thị Ngọc H và ông Huỳnh Minh A, bà Huỳnh Thị Phương D vô
hiệu.
5. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R391244 do Ủy ban nhân
dân thành phố Đ cấp ngày 30/5/2001 cho bà Trần Thị T6.
6. Hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số CK 117908 ngày 15/8/2017 của Sở Tài nguyên & Môi trường thành phố Đ
cấp cho ông Huỳnh Minh A và bà Huỳnh Thị Phương D.
II. Về chia di sản thừa kế:
1. Di sản thừa kế của cụ Lê Phước T5 và cụ Trần Thị T6 là nhà và đất tại
địa chỉ A đường N, phường N, quận S, Đà Nẵng có giá trị 4.919.826.000 đồng
được chia cho bà Lê Thị T, bà Lê Thị P, bà Lê Thị E, bà Lê Thị C mỗi người được
hưởng 819.971.000 đồng; chị Lê Thị N, anh Lê Phước T1, anh Lê Phước L, anh
Lê Phước Cu S, anh Lê Phước T2, anh Lê Phước Đ1 mỗi người được hưởng
273.323.666 đồng.
11
2. Về giao hiện vật: Giao cho bà Lê Thị E được quyền sở hữu ngôi nhà 2
tầng + cabin cầu thang đúc (chuồng cu), móng bê tông cốt thép, nền lát gạch men,
tường xây gạch, trát vữa, bả matic, sơn nước, sàn đúc, mái đúc, mặt tiền nhà ốp
đá granite, diện tích 83,2m2, diện tích xây dựng 179,75m2 và được quyền sử dụng
diện tích đất 83,2m2 thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 52 tại A đường N, phường
N, quận S, Đà Nẵng. Nhà đất có tứ cận: Đông giáp lô đất J19; Tây giáp lô đất J17,
Nam giáp mương thoát nước, Bắc giáp đường 7,5m.
3. Bà Lê Thị E được quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở
theo quy định của pháp luật.
4. Về nghĩa vụ trích trả:
- Buộc bà Lê Thị E có nghĩa vụ trích trả cho bà P số tiền là 819.971.000
đồng; trích trả cho bà C số tiền là 703.178.000 đồng; trích trả chị N, anh T1, anh
L, anh S, anh T2, anh B mỗi người là 234.292.666 đồng; trả cho bà D, ông A số
tiền 1.287.143.000 đồng;
- Buộc bà Lê Thị T trả cho bà Huỳnh Thị Phương D và ông Huỳnh Minh A
số tiền 1.980.029.000 đồng;
- Buộc Phòng C trả cho bà Huỳnh Thị Phương D và ông Huỳnh Minh A
400.000.000 đồng;
- Buộc Phòng C trả cho bà Huỳnh Thị Phương D và ông Huỳnh Minh A
400.000.000 đồng;
- Buộc bà D, ông A trả cho bà H số tiền 4.000.000.000 đồng
6. Kể từ ngày bản án có hiệu lực và có đơn yêu cầu thi hành án của người
được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho
đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/5/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phòng C, bà Thái
Thị Ngọc H, Phòng C kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2024/DS-
ST ngày 15 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Phòng C kháng cáo toàn bộ Bản án 18/2024/DS-ST ngày 15/5/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Đề nghị cấp phúc thẩm tuyên hủy Bản án sơ
thẩm để xét xử lại vụ án căn cứ vào các chứng cứ có tính pháp lý cao, khách quan,
toàn diện, bảo đảm việc xác định phần thiệt hại chính xác, xác định và bổ sung
12
đầy đủ những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy định pháp luật
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Phòng C, thành phố Đà Nẵng.
Bà Thái Thị Ngọc H kháng cáo một phần Bản án số 18/2024/DS-ST ngày
15/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng liên quan đến phần tuyên vô
hiệu giao dịch giữa bà với bà Huỳnh Thị Phương D và ông Huỳnh Minh A để
phúc thẩm lại theo hướng ngay tình không bị vô hiệu. Trong trường hợp Tòa vẫn
tuyên vô hiệu thì yêu cầu Tòa giải quyết hậu quả của việc vô hiệu nêu trên cho
bà, bằng khoản tính lãi ngân hàng theo điều 468 BLDS năm 2015 có thời gian
tính lãi là từ 14/8/2018 đến ngày 15/5/2024 là 05 năm 09 tháng với lãi suất 10%/
năm; cụ thể:
+ Tính lãi: 4.000.000.000 đồng x 10%/năm x 5 năm 9 tháng =
2.300.000.000 đồng;
+ Tiền gốc đã nhận của bà: 4.000.000.000 đồng.
Tổng cộng phải trả vốn và lãi vay ngân hàng cho bà: 6.300.000.000 đồng.
Phòng C kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án số
18/2024/DS-ST ngày 15/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng theo
hướng Phòng Công chứng số C thành phố Đà Nẵng không phải bồi thường cho
các đương sự.
Ngày 10/2/2024 cấp phúc thẩm nhận được Văn bản của Phòng C đề nghị
đưa Đại diện Sở tư pháp và ông Lê Phước H1 sinh năm 1941 là con chung của cụ
T6 cụ T5 thuộc hàng thừa kế thứ 1 vào tham gia tố tụng với tư cách người có
quyền và nghĩa vụ liên quan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu: Việc tuân
theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm là
đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Tại phiên toà phúc thẩm phát sinh tình tiết mới là ngoài
6 người được xác định con Cụ T6 và Cụ T5 còn có ông Lê Phước H1 (Huỳnh Văn
H2) sinh năm 1941 là con chung của cụ T6 cụ T5 thuộc hàng thừa kế thứ 1, hiện
nay ông H2 đã chết nhưng chưa được Toà án cấp sơ thẩm đưa những người kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông H2 vào tham gia tố tụng, là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử huỷ toàn bộ Bản án dân sự
sơ thẩm, giao hồ sơ hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng để xét
xử sơ thẩm lại đúng qui định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
13
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình
bày, tranh luận của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung vụ án:
Quá trình chung sống cụ T5 và cụ T6 tạo lập nhà và đất tại tổ B, phường N,
quận S. Đến năm 1999 nhà đất này bị nhà nước thu hồi để phục vụ cho dự án dự
án công trình đường B. Sau đó nhà nước đã cấp một lô đất tái định cư tại lô A,
khu J, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Tòa cấp sơ thẩm xác định di sản
thừa kế của cụ T5 và cụ T6 để lại là toàn bộ nhà và đất tại lô A, khu J, phường N,
quận S, thành phố Đà Nẵng trị giá 4.919.826.000 đồng.
[1.2] Về hàng thừa kế:
Theo án sơ thẩm; Cụ T5 chết ngày 06/6/2000 và cụ bà Trần Thị T6 chết
ngày 17/02/2011; hai cụ có 6 người con gồm: Lê Phước N2 (chết năm 1971 có 3
con là Lê Thị N, Lê Phước T1, Lê Phước L), Lê Phước C2 (chết năm 1982 có 3
con là Lê Phước Cu S, Lê Phước T2, Lê Phước B); Lê Thị T; Lê Thị P; Lê Thị E
và Lê Thị C. Đồng thời xác định Cụ Trần Thị T6, bà Lê Thị T; bà Lê Thị P; bà
Lê Thị E và bà Lê Thị C là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5.
Đối với ông Lê Phước N2 (chết năm 1971), ông N2 có 3 con là chị Lê Thị N, anh
Lê Phước T1, anh Lê Phước L; ông Lê Phước C2 (chết năm 1982) có 3 con là anh
Lê Phước Cu S, anh Lê Phước T2, anh Lê Phước B thì tại Điều 680 Bộ luật Dân
sự năm 1995 quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước
người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu
được hưởng nếu còn sống” cho nên chị Lê Thị N, anh Lê Phước T1, anh Lê Phước
L là người thừa kế thế vị đối với phần di sản của ông Lê Phước N2; anh Lê Phước
Cu S, anh Lê Phước T2, anh Lê Phước B là người thừa kế thế vị đối với phần di
sản của ông Lê Phước C2.
[1.3] Như vậy những người được hưởng thừa kế theo pháp luật của cụ T5
là cụ T6, bà T, bà P, bà E, bà C và thừa kế thế vị phần được hưởng thừa kế của
ông N2 là chị N, anh T1, anh L, thừa kế thế vị phần được hưởng thừa kế của ông
C2 là anh S, anh T2, anh B; Hàng thừa kế của cụ T6 gồm bà T, bà P, bà E, bà C
và thừa kế thế vị phần được hưởng thừa kế của ông N2 là chị N, anh T1, anh L,
thừa kế thế vị phần được hưởng thừa kế của ông C2 là anh S, anh T2, anh B.
[2] Ngày 10/2/2025 Phòng C cung cấp biên bản xác minh của Công An
quận S thì ngoài 6 người được xác định con Cụ T6 và Cụ T5 còn có Lê Phước H1
(Huỳnh Văn H3) sinh năm 1941 là con chung của cụ T6 cụ T5 thuộc hàng thừa
kế thứ 1 và tại phiên tòa hôm nay Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
của bà Thái Thị Ngọc H là ông Phạm C1 - Luật sư của Văn phòng L Đoàn Luật
sư thành phố Đ cung cấp văn bản và hình ảnh chụp lại bia mộ được xác định Cụ
14
T5 và Cụ T6 có 7 người con. Lê Phước H1 (Huỳnh Văn H3) có vợ Nguyễn thị X,
thuộc hành thừa kế thứ nhất. Ý kiến của Luật sự C1 tại phiên toà phúc thẩm được
bà Huỳnh Thị Phương D (bị đơn trong vụ án) cùng thừa nhận và xác định còn 04
người là Huỳnh Minh N3, Huỳnh Thị T8, Huỳnh Thị Thu P1 và Huỳnh Minh K1
đều là những người có quyền và nghĩa vụ liên quan nhưng chưa tham gia tố tụng.
[2.1] Như vậy, cấp sơ thẩm đã xác định thiếu người tham gia tố tụng, thuộc
hàng thừa kế thứ nhất và những người thừa kế thế vị. Mặt khác, các đương sự
cũng đã xác định di sản thừa kế là toàn bộ nhà và đất tại lô A, khu J, phường N,
quận S, thành phố Đà Nẵng trị giá 4.919.826.000 đồng là của cụ T5 và cụ T6.
Việc không đưa Lê Phước H1 (Huỳnh Văn H3) và những người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng còn lại của ông H1 là Huỳnh Minh N3, Huỳnh Thị T8, Huỳnh
Thị Thu P1 và Huỳnh Minh K1 tham gia tố tụng và chưa làm rõ ý kiến của các
đồng thừa kế đối với tính hợp pháp của Di Chúc số 90HV3-4; Văn bản khai nhận
thừa kế ngày 21/7/2017 là vi phạm trọng thủ tục tố tụng, xâm quyền lợi ích hợp
pháp của các đồng thừa kế.
Tòa cấp phúc thẩm không thể bổ sung tại phiên tòa được, nên cần hủy toàn
bộ án sơ thẩm để xét xử lại theo qui định pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa
án cấp sơ thẩm cần thu thập làm rõ những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và
xác định lại kỹ phần thừa kế cho đúng pháp luật.
[3] Trong vụ án này, các bên đương sự cố tình che dấu không khai đầy đủ
tên và địa chỉ thuộc hàng thừa kế theo qui định pháp luật dẫn đến hủy án, nên Tòa
cấp sơ thẩm không có lỗi trong trường hợp này. Do hủy án sơ thẩm, nên các kháng
cáo của các bên đương sự HĐXX không xét.
[4] Về án phí và chi phí tố tụng khác: Sẽ được xem xét khi vụ án được xét
xử lại theo trình tự sơ thẩm, do hủy án sơ thẩm nên đương sự không phải chịu án
phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 308 và Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Tuyên xử: Hủy toàn bộ án sơ thẩm số 18/2024/DS-ST ngày 15 tháng 5
năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giữa Nguyên đơn Bà Lê Thị
E với bị đơn Ông Huỳnh Minh A và bà Huỳnh Thị Phương D. Giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng để xét xử sơ thẩm lại đúng qui định pháp
luật.
2. Về án phí phúc thẩm: Phòng C, bà Thái Thị Ngọc H, Phòng C không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho Phòng C, Phòng C số tiền
300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001493
15
ngày 13/6/2024, 0001492 ngày 12/6/2024 của Cục thi hành án dân sự thành phố
Đà Nẵng.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND thành phố Đà Nẵng;
- VKSND thành phố Đà Nẵng;
- Cục THADS thành phố Đà Nẵng;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Tồn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 22/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 02/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm