Bản án số 553/2024/DS-PT ngày 16/09/2024 của TAND tỉnh Đồng Tháp về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 553/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 553/2024/DS-PT ngày 16/09/2024 của TAND tỉnh Đồng Tháp về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Quan hệ pháp luật: Y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Tháp
Số hiệu: 553/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Các nguyên đơn yêu cầu huy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho con là vô hiệu
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
Bản án số: 553/2024/DS-PT
Ngày 16-9-2024
V/v tranh chấp yêu cầu
tuyên bố hiệu hợp đồng
tặng cho QSDĐ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Trung Thành.
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Tấn Tặng
Ông Sỹ Danh Đạt
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tuấn, Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp: Bà Huỳnh Thị Đạm,
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 09/916/9/2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 345/2024/TLPT-DS ngày 15
tháng 7 năm 2024, về việc Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hiệu hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 23/2024/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xphúc thẩm số: 511/2024/QĐ-PT ngày
02 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:
1. Chị Đỗ Diễm T, sinh năm 1987;
2. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1975;
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
3. Bà Nguyễn Kim N, sinh năm 1970;
Người đại diện theo ủy quyền của N: Ông Bùi Ngươn N1, sinh m
1969.
Cùng địa chỉ: Tổ A, ấp T, A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp (Văn bản ủy
quyền ngày 24/7/2023).
4. Bà Võ Thị M, sinh năm 1962.
Địa chỉ: Tổ H, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
* Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị N2, sinh năm 1972;
2
2. Anh Lê Nhựt T1, sinh năm 1996.
Cùng địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị N2, anh Lê Nhựt
T1: Ông Võ Minh V, sinh năm 1972;
Địa chỉ: Tổ G, khóm A, Phường A, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp (theo văn
bản ủy quyền ngày 07/8/2024).
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phước T2, sinh m
1992.
Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
* Người kháng cáo:Nguyễn Th N2, anh Lê Nhựt T1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa các nguyên
đơn chị Đỗ Diễm T, ông Bùi Ngươn N1, bà Nguyễn Thị Đ, Võ Thị M cùng trình
bày:
Trước năm 2019, các nguyên đơn có tham gia hụi do N2 làm chủ hụi. Đến
năm 2019, bà N2 tuyên bố bể hụi và thỏa thuận với các hụi viên về việc trả dần số
tiền nợ hụi cho các nguyên đơn. Tuy nhiên, bà N2 không thực hiện việc trả nợ cho
các nguyên đơn theo thỏa thuận.
Năm 2022, các nguyên đơn đơn khởi kiện đối với Nguyễn Thị N2. Cụ
thể: Ngày 29/4/2022, T đơn khởi kiện; Ngày 04/10/2022, N đơn khởi
kiện; ngày 10/10/2022, M đơn khởi kiện và ngày 14/10/2022, Đ đơn
khởi kiện đối với bà Nguyễn Thị N2 về việc tranh chấp nợ hụi và được Tòa án giải
quyết như sau: Ngày 26/9/2022, Tòa án ra Quyết định buộc bà N2 trả cho chT số
tiền nợ hụi 62.220.000 đồng; Ngày 19/12/2022, Tòa án ra quyết định buộc N2
trả cho bà N số tiền nợ hụi là 36.119.000 đồng; Ngày 07/12/2022, Tòa án ra quyết
định buộc bà N2 trả cho bà Đ số tiền nợ hụi là 30.600.000 đồng; Ngày 07/11/2022,
Tòa án ra quyết định buộc bà N2 trả cho M số tiền nợ hụi là 16.000.000 đồng.
Sau khi có kết quả giải quyết của Tòa án thì các nguyên đơn yêu cầu cơ quan
Thi hành án dân sự huyện C thi hành bản án, quyết định của Tòa án đối với người
phải thi hành án Nguyễn Thị N2. Tuy nhiên qua kết quả xác minh của cơ quan
Thi hành án dân sự huyện C thì bà Nguyễn Thị N2 có tài sản là nhà và thửa đất số
49, tờ bản đồ số 3, diện tích 5.801m
2
, tọa lạc tại A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Phần đất này ngày 29/8/2022, bà N2 đã làm hợp đồng tặng cho anh Lê Nhựt T1
con ruột của N2, đến ngày 21/9/2022, anh T1 được Sở Tài nguyên môi trường
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nêu trên dẫn đến hiện nay
N2 không còn tài sản nào khác đthi hành án cho các nguyên đơn. Từ đó cho
thấy bà N2 đã có hành vi tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa nghĩa vụ trả nợ cho
các nguyên đơn với tổng số tiền hụi còn lại là 144.939.000 đồng. Như vậy, việc bà
N2 tặng cho đất lại cho anh T1 là con trai ruột của bà N2 khi chưa thực hiện xong
nghĩa vụ trả nợ cho các nguyên đơn đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp
pháp của các nguyên đơn.
3
Nay các nguyên đơn cùng yêu cầu vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất số 197, ngày 29/8/2022 giữa bà Nguyễn Thị N2 với ông Lê Nhựt T1. Yêu cầu
thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DG 495166, số vào sổ GCN: CS
03559, được cấp ngày 21/9/2022 cho anh Nhựt T1 cấp lại cho Nguyễn
Thị N2 để đảm bảo thi hành án cho các nguyên đơn.
- Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa bị đơn Nguyễn Thị N2 trình
bày: Nguyễn Thị N2 thừa nhận là bà N2 có làm chủ hụi và các nguyên đơn có
tham gia chơi hụi do N2 làm chủ hụi. Năm 2019, khi bể hụi thì bà có thỏa thuận
với các nguyên đơn và các hụi viên khác về việc trả dần tiền nợ hụi còn lại cho các
hụi viên các nguyên đơn, được các nguyên đơnhụi viên đồng ý. Tuy nhiên,
do điều kiện khó khăn nên không thực hiện việc trả nợ hụi cho các hụi viên như
thỏa thuận được.
Đối với phần đất thửa số 49, tờ bản đồ số 3 hiện do anh Lê Nhựt T1 đứng
tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nguồn gốc của cha chồng
ông Văn N3 tặng cho chồng ông Văn M1. Năm 2015, ông
M1 chết nên bà đại diện cho các con bà là anh Lê Nhựt T1anh Lê Phước T2
đứng tên thừa kết đối với phần đất do ông Bé M1 để lại. Đến tháng 7/2022 (âl),
do có chồng khác nên các con không đồng ý để đại diện đứng tên quyền
sử dụng đất nữa. Do đó, bà mới lập hợp đồng tặng cho phần đất trên lại cho anh
Lê Nhựt T1 đứng tên đối với phần đất nêu trên.
Việc bà lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho anh T1 do đây là tài
sản thừa kế do ông M1 là cha của anh T1 đlại chứ không phải trốn tránh
nghĩa vụ trả nợ cho các nguyên đơn. Do đó, N2 không đồng ý hiệu hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
- Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Lê Nhựt T1 và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan anh Lê Phước T2 không đến Tòa án cũng không có văn bản
trình bày ý kiến.
* Ti Quyết định bn án thẩm s 23/2024/DSST, ngày 26 tháng 4 năm
2024 ca Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tuyên x:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn: Đỗ Diễm T, Nguyễn
Thị Đ, Nguyễn Kim N, Võ Thị M.
Tuyên bố vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 197, ngày
29/8/2022 giữa bà Nguyễn Thị N2 với ông Lê Nhựt T1.
Đề nghị Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DG 495166, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất CS03559, thửa đất số 49, tờ bản đồ số 3, diện tích cấp giấy 5.801m
2
, loại
đất trồng cây lâu năm, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp cho anh
Nhựt T1 ngày 21/9/2022 để cấp lại cho bà Nguyễn Thị N2 theo quy định pháp
luật.
2. Về án phí:
2.1. Bà Nguyễn Thị N2 và anh Lê Nhựt T1 phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự sơ thẩm.
4
2.2. Các nguyên đơn: Đỗ Diễm T, Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Kim N, Võ Thị
M được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số
0017444 ngày 22/5/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và thi hành án.
Sau khi xét x sơ thẩm:
Ngày 07 tháng 05 năm 2024, bà Nguyễn Thị N2 và anh Lê Nhựt T1 kháng
cáo đối với bản án thẩm số 23/2024/DS-ST ngày 26/4/2024. Bà Nguyễn Thị
N2 và anh Lê Nhựt T1 kháng cáo yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét,
giải quyết sửa bản án số: 23/2024/DS-ST ngày 26/4/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Theo hướng tuyên Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị N2 với anh Lê Nhựt T1 có hiệu lực.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Đại diện Vin kim sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét x và các đương sự trong quá trình
gii quyết v án đảm bảo chấp hành đúng quy định ca pháp lut.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoảng 3 Điều 308 của Bộ
luật tố tụng dân sự, hủy bản án thẩm, do tại phiên tòa phúc thẩm phát sinh
tình tiết mới tòa án thẩm thiếu sót trong thu thập chứng cứ cấp phúc
thẩm không bổ sung được tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cu các tài liu, chng c có trong h sơ, được kim tra ti
phiên tòa, căn cứ vào kết qu tranh lun ti phiên tòa, li phát biu ca kim sát
viên, Hội đồng xét x nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị N2 với anh Nhựt T1 nộp trong hạn
luật định nên kháng cáo của bà Nguyễn Thị N2 với anh Lê Nhựt T1 được Hội
đồng xét xử cấp phúc thẩm xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
- Về xét xử vắng mặt: Người quyền lợi, nghĩa vliên quan anh Phước
T2 đã được Tòa án triệu lập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.
Xét thấy việc vắng mặt của anh Phước T2 không ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án. Căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật ttụng dân sự năm 2015,
Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mt anh Lê Phước T2.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn: Yêu cầu tuyên bố hiệu
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị N2 với anh Lê Nhựt
T1 (anh T1 là con bà N2) và thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh
Lê Nhựt T1 đứng tên quyền sử dụng đất. Đđảm bảo thi hành án cho nghĩa vụ
của bà Nguyễn Thị N2 đối với các nguyên đơn.
Hội đồng xét xử, xét thấy, theo Bản án số 69/2022/DS-ST ngày 26/9/2022
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tuyên x Buộc bà N2 nghĩa vụ
trả cho chị Đỗ Thị Diễm T3 số tiền nợ hụi 62.220.000đ”; Quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 70/2022/QĐST-DS ngày 19/12/2022,
5
công nhận sự tự nguyện của N2 trả tiền hụi còn nợ hụi lãi cho chị Nguyễn
Kim N với số tiền 36.119.000đ (BL 28); Quyết định công nhận kết quả hòa giải
thành số 93/2022/QĐST-DS ngày 07/12/2022, N2 đồng ý trả cho chị Nguyễn
Thị Đ số tiền hụi còn nợ 25.600.000đ 5.000.000đ tiền vốn vay (BL 27);
Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành số 94/2022/QĐST-DS ngày
07/12/2022, bà N2 đồng ý trả cho bà Võ Thị M số tiền hụi còn nợ là
16.000.000đ (BL 23);
Các nguyên bị đơn đều thừa nhận việc Nguyễn Thị N2 tổ chức m
hụi, do N2 làm chủ hụi, nhưng vào năm 2019 thì N2 bị bể hụi nên các hụi
viên N2 đã thỏa thuận thống nhất việc N2 cam kết sẽ trả nợ cho các
hụi viên nguyên đơn. Tuy nhiên, đến năm 2022, Nguyễn Thị N2 vẫn không
thực hiện trả nhụi cho các nguyên đơn. Do đó, đến ngày 29/4/2022 các nguyên
đơn đã khởi kiện ra Tòa về tranh chấp hụi với N2 vụ kiện cũng đã được
giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án về số tiền hụi mà bà N2 còn nợ
và có nghĩa vụ thanh toán cho các nguyên đơn như nêu trên.
Như vậy, N2 nhận thức được N2 nghĩa vụ trả nợ hụi cho các
nguyên đơn, nhưng chưa thực hiện xong nghĩa vụ trả nN2 lập hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất diện tích 5.801m2 của N2 đang đứng tên cho anh
Nhựt T1 vào ngày 29/8/2022 (Theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
ngày 29/8/2022, giữa Nguyễn Thị N2 với anh Nhựt T1) trong khi ngoài
tài sản là quyền sử dụng đất này thì N2 không còn tài sản nào khác. Do đó,
việc N2 lập hợp đồng tặng cho quyền sdụng đất cho anh Lê Nhựt T1 con
ruột của N2 (hiện anh T1 vẫn sống chung với N2 trên đất đã tặng cho anh
T1) dẫn đến việc N2 không còn tài sản nào khác đthi hành án phần nghĩa
vụ đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhằm trả nợ cho các nguyên
đơn dấu hiệu trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho các nguyên đơn. Do đó,
bản án sơ thẩm đã tuyên chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn là có căn cứ.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn
Thị N2 anh Nhựt T1 cho rằng nguồn gốc quyền sử dụng đất trên của
bên chồng, N2 không có quyền đối với tài sản quyền sử dụng đất này
nên bà N2 đã lập hợp đng tặng cho lại quyền sử dụng đất cho anh Lê Nhựt T1
tiếp tục quản tài sản trên của ông đúng với ý chí và nguyện vọng của
ông để lại. Tuy nhiên, theo Giấy CNQSD đất cấp bà Nguyễn Thị N2 đứng
tên cá nhân Nguyễn Thị N2 n chưa đủ căn cứ xác định như bà N2 đã trình
bày và nếu đây là tài sản N2 chồng bà là ông Lê Văn Bé M1 được cha m
chồng (ông Bé M1) tặng cho ông M1 thì cũng là tài sản được hình thành trong
thời kỳ hôn nhân giữa bà N2 ông M1 N2 cũng được quyền sử dụng
50% đối với tổng diện tích đất đã được cấp 5.801m2. Ngoài ra, sau khi anh
Nhựt T1 được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Tòa án cấp
thẩm triệu tập anh T1 tham gia tố tụng thì anh T1 cố tình không có mặt tại Tòa
án mà anh đã thực hiện thế chấp quyền sử dụng đất tại Ngân hàng TMCP C -
Chi nhánh S để vay 500.000.000đồng ngày 24/04/2024 (trước ngày Tòa án
thẩm tuyên án ngày 26/04/2024 02 (hai) ngày) N2 anh T1 cũng đã
6
không cung cấp thông tin về việc Giấy GCN.QSDĐ của anh T1 đang thế chấp
tại Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh S.
[4] Theo Công văn số 990/CNSĐ-TH ngày 04/9/2024 của Ngân hàng
TMCP C - Chi nhánh S, xác nhận giấy CN.QSDĐ số bìa DG495166, số vào sổ
cấp GCN: CS03559, được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp ngày
21/9/2022 cho ông Nhựt T1 được đăng giao dịch bảo đảm (đang thế chấp)
tại Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh S. Do đó, Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh
S không đồng ý với bản án sơ thẩm số 23/2024/DS-ST ngày 26/4/2024, về việc
Đề nghị Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số DG 495166, sổ vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CS03559, thửa đất s49, tờ bản đồ số 3, diện tích cấp giấy 5.801m
2
, loại đất
trồng cây lâu năm, do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp cho anh
Nhựt T1 ngày 21/9/2022 để cấp cho bà Nguyễn Th N2 theo quy định pháp luật.
Trong trường hợp buộc phải thực hiện theo Bản án sơ thẩm số 23/2024/DSST
ngày 26/04/2024 thì V1 Chi nhánh S phải là bên được ưu tiên nhận tiền từ xử
lý tài sản nêu trên để thu hồi khoản nợ của ông Lê Nhựt T1...”.
Xét thấy, Tòa án cấp thẩm tuyên hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất giữa N2 với T1 là có căn cứ. Tuy nhiên Tòa án thẩm đề nghị thu hồi
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh T1 là tài sản đang thế chấp tại
Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh S là không thể thi hành được do anh T1 đã thế
chấp vay tiền tại Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh S nhưng Tòa án thẩm
không thể biết được việc anh T1 đã thế chấp Giấy CNQSD đất cho Ngân hàng
TMCP C - Chi nhánh S để đưa Ngân hàng vào tham gia tố tụng với cách
người có quyền và nghĩa vụ liên quan để xem xét giải quyết yêu cầu của Ngân
hàng đối với hợp đồng vay thế chấp của anh T1 trong cùng vụ án nhằm giải
quyết toàn diện vụ án, đảm bảm quyền lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự và cũng đảm bảo tính khả thi.
Xét thấy việc Tòa án sơ thẩm không đưa Ngân hàng TMCP C - Chi nhánh
S do yếu tố khách quan Nguyễn Thị N2 dấu hiệu tẩu tán tài sản nhằm
trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự nên cần chuyển
toàn bộ hồ sơ sang cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền làm rõ hành vi này
của Nguyễn Thị N2 đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không. Do đó cần
hủy bản án sơ thẩm để trả hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm để làm rõ các nội dung
trên nhằm giải quyết lại toàn diện vụ án.
Do hủy bản án thẩm nên Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét giải
quyết kháng cáo của các đương sự.
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là phù
hợp nên chấp nhận.
[6] Về án phí phúc thẩm:
Do hủy bn án thm nên Nguyễn Thị N2 anh Lê Nhựt T1 không
phi chu án phí dân s phúc thẩm theo quy định ti Khoản 3 Điều 148 B lut
T tng dân s.
Vì các lẽ trên;
7
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 148 khoản 3 Điều 308 ca B lut t tng dân
s;
Nghị quyết s326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 23/2024/DS-ST ngày 26 tháng 4
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Châu Thành giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án phí phúc thẩm:
Nguyễn Thị N2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại
cho Nguyễn Thị N2 tiền tạm ứng án p 300.000 đồng theo biên lai số
0002402 ngày 07/5/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành,
tỉnh Đồng Tháp.
Anh Nhựt T1 không phải chịu án phí dân sphúc thẩm. Hoàn trả lại
cho anh Nhựt T1 tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai s0002403
ngày 07/5/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Đồng
Tháp.
4. Án pdân sự thẩm các chi phí khác ttụng khác (nếu có) sẽ được
xác định lại khi vụ án được tiếp tục giải quyết.
Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Phòng KTNV THA Tòa án Tnh,
- VKSND Tnh;
- Tòa án ND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS.
TM.HỘI ĐỒNG XT X PHC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Trần Trung Thành
Tải về
Bản án số 553/2024/DS-PT Bản án số 553/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 553/2024/DS-PT Bản án số 553/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất