Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT ngày 13/11/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 37/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT ngày 13/11/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thanh Hóa |
Số hiệu: | 37/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/11/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị và anh Phạm Duy S tự nguyện chung sống và tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương từ năm 2015, sau khi cưới nhau thì anh S phạm tội về ma túy nên bị đi tù 02 năm, đến tháng 10 năm 2015 thì chị T sinh con, trong thời gian nuôi con anh S không có mặt ở nhà, chị vẫn sống chung cùng bố mẹ anh S tại xã T. Năm 2017 anh S chấp hành xong án phạt tù thì chị và anh S mới làm thủ tục đăng ký kết hôn vào ngày 09/9/2017. Từ khi anh S trở về địa phương, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc nhưng được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh S vẫn nghiện ma túy, có tính hay ghen tuông mặc dù chị không có tình cảm với ai ngoài anh S, vợ chồng bất đồng quan điểm nên thường xuyên cãi vã xung đột. Bên cạnh đó thì bố mẹ anh S cũng đã bị kết án về tội ma túy. Do cuộc sống vợ chồng không còn tình cảm nên chị và anh S đã sống ly thân từ tháng 6/2022 đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Duy S. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 37/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 13/11/2024
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con
khi ly hôn”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nga
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Tân
Bà Lê Thị Thủy
- Thư ký phiên tòa: Bà Hoàng Thị Phi - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Thanh Hóa.
- Đại diện VKSND tỉnh Thanh Hóa: Bà Mai Thị Xuyến - Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa.
Ngày 13 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét
xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình, thụ lý số 31/2024/TLPT-HNGĐ
ngày 01/10/2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Do bản án
hôn nhân gia đình sơ thẩm số 110/2024/HNGĐ-ST ngày 19/8/2024 của Toà án
nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa bị kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ
án ra xét xử phúc thẩm số: 26/2024/QĐ-PT ngày 17/10/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1995
Nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã T, huyện L, Thanh Hóa.
Nơi ở hiện nay: Thôn L, xã T, huyện C, Thanh Hóa.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho chị T: Luật sư Lê Đình Chinh, Công
ty Luật We Win, chi nhánh số 1- Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.
2. Bị đơn: Anh Phạm Duy S, sinh năm 1996
Trú tại: Thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Thanh Hóa.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho anh S: Luật sư Trương Minh Thọ,
Văn phòng Luật sư Tấn Phương - Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa.
Tại phiên tòa có mặt: Chị T, vắng mặt anh S (đã có đơn đề nghị xử vắng mặt);
có mặt Luật sư của hai bên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
2
Theo đơn khởi kiện ngày 12/6/2024 và bản tự khai ngày 20/6/2024 và quá
trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị T trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Duy S tự nguyện chung sống và
tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương từ năm 2015, sau khi cưới
nhau thì anh S phạm tội về ma túy nên bị đi tù 02 năm, đến tháng 10 năm 2015 thì
chị T sinh con, trong thời gian nuôi con anh S không có mặt ở nhà, chị vẫn sống
chung cùng bố mẹ anh S tại xã T. Năm 2017 anh S chấp hành xong án phạt tù thì
chị và anh S mới làm thủ tục đăng ký kết hôn vào ngày 09/9/2017. Từ khi anh S
trở về địa phương, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc nhưng được 05 năm
thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh S vẫn nghiện ma túy, có tính hay
ghen tuông mặc dù chị không có tình cảm với ai ngoài anh S, vợ chồng bất đồng
quan điểm nên thường xuyên cãi vã xung đột. Bên cạnh đó thì bố mẹ anh S cũng
đã bị kết án về tội ma túy. Do cuộc sống vợ chồng không còn tình cảm nên chị và
anh S đã sống ly thân từ tháng 6/2022 đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng
không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho
chị được ly hôn anh Phạm Duy S.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Duy Minh Nhật,
sinh ngày 09/10/2015. Ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc,
nuôi dưỡng cháu Phạm Duy Minh Nhật và không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng
nuôi con chung cùng chị. Lý do và nguyện vọng chị muốn nuôi con là vì anh S
vẫn nghiện ma túy, môi trường xung quanh hàng xóm có nhiều người nghiện,
bơm kim tiêm vứt rãi rác bừa bãi gần nhà nên chị không muốn cháu Phạm Duy
Minh Nhật sống trong môi trường có tiềm ẩn rủi do.
Về điều kiện thu nhập: Hiện nay chị đang làm lao động tại Công ty cổ phần
Đầu tư và Thương mại Hoàng Thành, có địa chỉ tại 66 đường Hồng Tiến, phường
Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Hợp đồng lao động được ký từ ngày
01/02/2022, mức thu nhập của chị hàng tháng là 09 triệu đồng, ngoài ra chị còn
đi làm thêm ngoài nên mức thu nhập của chị cũng ổn định. Về nơi ăn trốn ở, do
điều kiện làm ăn nên trước mắt chị đang thuê nhà, còn khi ly hôn thì bố mẹ chị
đang làm thủ tục tặng cho Quyền sử dụng đất để chị xây nhà lâu dài.
- Về tài sản công nợ chung: Vợ chồng không có tài sản và công nợ chung
nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn: Tại bản tự khai ngày 20/6/2024 và biên bản hòa giải anh
Phạm Duy S trình bày:
Về hôn nhân: Năm 2015 anh và chị Nguyễn Thị T tự nguyện làm đám cưới
với nhau nhưng đến năm 2017 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Thành Lộc,
3
huyện Hậu Lộc. Lý do chậm đăng ký kết hôn anh S thừa nhận, vào tháng 7 năm
2015 anh bị kết án về tội ma túy, thời gian chấp hành là 02 năm, đến năm 2017
anh mới chấp hành xong nên vợ chồng mới làm thủ tục đăng ký kết hôn. Sau khi
kết hôn anh đi làm tại Công ty vận tải tàu biển Newsun với công việc là Sỹ quan
vận hành boong, thời gian làm việc trên tàu khoảng 08 tháng liên tục/năm. Trong
thời gian anh S đi làm ăn xa, anh có nghe nhiều người khác nói lại với anh, chị T
đi làm công ty có tình cảm với người khác nên tình cảm vợ chồng không còn hòa
thuận, hạnh phúc dẫn đến bất đồng quan điểm sống. Đến tháng 5 năm 2022 chị T
bỏ đi làm xa để lại con cho anh nuôi dưỡng. Nay chị T có đơn xin ly hôn thì anh
S cũng đồng ý. Hiện tại anh S đã xuống tàu làm việc nên trước khi đi anh đã làm
đơn xin xét xử vắng mặt.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung như chị T trình bày, hiện nay
cháu Phạm Duy Minh Nhật đang ở cùng anh và ông bà nội tại thôn Thành Ninh,
xã Thành Lộc, kể từ khi vợ chồng ly thân. Nay ly hôn, anh S có nguyện vọng
được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phạm Duy Minh Nhật và không yêu
cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Để bảo đảm quyền nuôi con anh S đã
cung cấp mức thu nhập hàng tháng tại Công ty nơi anh làm việc.
Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng không có tài sản và công nợ
chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Biên bản xác minh ngày 25/6/2024, cán bộ thôn Thành Ninh, xã Thành
Lộc nơi anh S, chị T sinh sống cho biết: chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Duy S có
một con chung, sau khi kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình anh S tại thôn
Thành Ninh, xã Thành Lộc nhưng thời gian sau thôn có nghe nói chị T đã về nhà
ngoại ở tại thôn Thuần Lương, xã Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, còn cháu Nhật ở
cùng bố và ông bà nội chăm sóc, địa phương và thôn cho biết anh S từng đi tù vì
án ma túy, còn nguyên nhân mâu thuẫn thì thôn không nắm bắt được thông tin.
Tại bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 110/2024/HNGĐ-ST ngày
19/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Hậu Lộc đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 14, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều
58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.
Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn
Thị T được ly hôn với anh Phạm Duy S.
4
Về con chung: Công nhận cháu Phạm Duy Minh Nhật, sinh ngày
09/10/2015 là con chung của anh S và chị T. Giao cho chị T được quyền trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Duy Minh Nhật. Anh S không phải
cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng do chị T tự nguyện không yêu cầu. Sau khi
ly hôn anh S có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, chị T và
người thân không ai được phép cản trở.
Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án
không xem xét giải quyết.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xử sơ thẩm, ngày 30/8/2024 anh Phạm Duy S có đơn kháng cáo
bản án sơ thẩm về phần giao nuôi con chung, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải
quyết giao cháu Phạm Duy Minh Nhật sinh ngày 09/10/2015 cho anh được trực
tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Bởi vì,
hiện nay anh đã ra tù và đã nghiện ma túy, thu nhập cao, cháu do ông bà nội
đang nuôi, trong khi chị T làm ở Hà Nội phải thuê nhà ở, không đủ điều kiện
nuôi con.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh S giữ
nguyên nội dung kháng cáo; các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Quan điểm của Luật sư bảo vệ cho chị T: đề nghị không chấp nhận kháng
cáo không hợp lệ vì anh S không phải người trực tiếp gửi và nộp tạm ứng án phí;
đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm giao cháu Nhật cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.
Quan điểm của Luật sư bảo vệ cho anh S: đề nghị giao con cho anh S nuôi
vì hiện tại anh đã ký hợp đồng đi làm tại công ty ở Thanh Hóa, thu nhập ổn định
nên anh có điều kiện nuôi con hơn chị T.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa: Về việc tuân
theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết và tại
phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa
phúc thẩm, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của anh S. Đề nghị HĐXX áp
dụng: Khoản 1 Điều 308; Khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nghị Quyết
326/UBTVQH ngày 31/12/2016 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,
không chấp nhận kháng cáo của anh S, giữ nguyên bản án sơ thẩm số
110/2024/HNGĐ-ST ngày 19/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh
Thanh Hóa.
5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Phạm Duy S gửi trong thời hạn quy
định, hợp lệ được chấp nhận giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của anh Phạm Duy S với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết giao cháu Phạm Duy Minh Nhật, sinh ngày 09/10/2015 cho
anh được trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con
chung thì thấy rằng:
Chị T và anh S đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi con là chính đáng, đó là
quyền và cũng là nghĩa vụ của cha mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
đối với con chưa thành niên. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi phải trên cơ sở
đảm bảo quyền lợi về mọi mặt từ vật chất đến tinh thần cho cháu có thể phát triển
một cách tốt nhất. Cháu Minh Nhật hiện nay mới 10 tuổi đang học lớp 4, tâm sinh
lý chưa ổn định nên khi ở với chị T thì trình bày nguyện vọng muốn ở với mẹ,
khi ở với anh S thì trình bày muốn ở với bố.
Quá trình giải quyết vụ án, chị T cung cấp bảng lương thu nhập hàng tháng
của chị tại cơ sở lao động nơi làm việc với mức thu nhập là 9.000.000
đồng/tháng, mức thu nhập này tuy còn thấp so với anh S nhưng là thu nhập ổn
định, đủ để chị T bảo đảm cuộc sống bình thường của chị và cháu Nhật. Anh S
cung cấp bảng lương thu nhập hàng tháng với mức thu nhập là 40.527.333 đồng,
tuy nhiên theo anh S trình bày công việc của anh là sĩ quan điều hành boong, thời
gian làm việc liên tục khoảng 08 tháng/năm, trong 08 tháng này anh S phải làm
việc trên tàu liên tục mà không có thời gian trở về nhà. Điều này cho thấy anh S
không thể trực tiếp chăm sóc, giáo dục cháu Minh Nhật, nếu giao cho anh S được
quyền trực tiếp nuôi dưỡng thì sẽ không bảo đảm thời gian tối thiểu để trực tiếp
trông nom, chăm sóc con, trong khi phần lớn thời gian cháu Minh Nhật ở nhà là
do ông bà nội đưa đón chăm sóc. Trong khi, chị T có công việc với mức thu nhập
ổn định, chỉ làm việc vào giờ hành chính nên có thời gian gần gũi, chăm sóc, nuôi
dưỡng cháu Nhật và có điều kiện môi trường thuận lợi hơn về việc trực tiếp nuôi
con.
Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế và điều kiện nuôi con của các đương sự, Tòa
án sơ thẩm đã giao cháu Minh Nhật cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp và
bảo đảm quyền lợi cho cháu.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bảo vệ cho anh S cung cấp giấy cháu
Nhật xin ở với bố (không đề ngày, tháng) và Hợp đồng lao động ngày
20/9/2024, anh S ký với công ty thương mại Tiến Long An ở xã Thuần Lộc,
huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa, công việc cho thuê phông rạp, mức lương
6
9.000.000đ/tháng. Hợp đồng có chữ ký của anh S và chữ ký đóng dấu của Giám
đốc công ty, không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền. Luật sư không
cung cấp được bảng lương hàng tháng của anh S và không biết anh S đã đi làm
ở công ty này chưa, theo Luật sư thì hiện nay anh S đang đi tàu để bàn giao
công việc. Như vậy, chứng cứ anh S đi làm ở công ty thương mại Tiến Long An
là chưa đủ căn cứ chứng minh.
Xét quan điểm Luật sư bảo vệ cho chị T cho rằng: về tố tụng: anh S
không phải là người nộp đơn và nộp tạm ứng án phí cho Tòa án nên kháng cáo
không hợp lệ và không được chấp nhận, thì thấy rằng anh S đang đi tàu nên đã
viết đơn kháng cáo gửi về nhờ chị Hồng nộp cho Tòa án và nhờ chị Hồng nộp
tạm ứng án phí, sau đó anh S đã có đơn đề nghị xử vắng mặt và nhờ Luật sư bảo
vệ quyền lợi cho anh tại tòa để được quyền nuôi con. Như vậy, việc anh S
kháng cáo là thực tế, được chấp nhận để xem xét.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị T cung cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số DQ 467980 mang tên chị Nguyễn Thị T do Chi nhánh văn phòng đăng ký
đất đai huyện Cẩm Thủy cấp ngày 25/10/2024 - địa chỉ thửa đất: Thôn Thuần
Lương, xã Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa và Giấy cháu Nhật viết
tại trường tiểu học của cháu đang học ngày 12/11/2024 là xin được ở với mẹ.
Chị T cho rằng sau khi tòa xử chị sẽ về Thanh Hóa làm việc, làm nhà ở và trực
tiếp nuôi con.
Ngoài ra, chị T còn xuất trình xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Thành
Lộc, huyện Hậu Lộc với nội dung: anh S và bố mẹ anh S đều đã bị Tòa án xử về
tội ma túy, anh S không có mặt tại địa phương từ tháng 8/2024 đến nay.
Như vậy, việc giao con cho anh S nuôi là không đảm bảo điều kiện phát
triển tốt nhất cho cháu.
Từ những phân tích nêu trên, kháng cáo xin được nuôi cháu Minh Nhật
của anh S không có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận
kháng cáo của anh S, cần giữ nguyên án sơ thẩm là phù hợp.
[3] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của anh S không được chấp nhận
nên chị phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 1 điều 308; khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân gia đình. Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
7
326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án
phí lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của anh Phạm Duy S, giữ nguyên bản án
dân sự sơ thẩm số 110/2024/HNGĐ-ST ngày 19/8/2024 của Toà án nhân dân
huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa về phần giao nuôi con chung:
Giao cháu Phạm Duy Minh Nhật, sinh ngày 09/10/2015 cho chị T trực tiếp
nuôi dưỡng. Anh S không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung; anh S có quyền,
nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.
2. Về án phí phúc thẩm: Anh Phạm Duy S phải nộp 300.000đ, đã nộp đủ
tại biên lai thu số 0003369, ngày 13/9/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa (P9);
- Tòa án ND huyện Hậu Lộc;
- Chi cục THADS huyện Hậu Lộc;
- Các Đương sự;
- Lưu hồ sơ;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thị Nga
Tải về
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 03/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 01/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm