Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT ngày 13/11/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2024/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT ngày 13/11/2024 của TAND tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thanh Hóa
Số hiệu: 37/2024/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/11/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị và anh Phạm Duy S tự nguyện chung sống và tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương từ năm 2015, sau khi cưới nhau thì anh S phạm tội về ma túy nên bị đi tù 02 năm, đến tháng 10 năm 2015 thì chị T sinh con, trong thời gian nuôi con anh S không có mặt ở nhà, chị vẫn sống chung cùng bố mẹ anh S tại xã T. Năm 2017 anh S chấp hành xong án phạt tù thì chị và anh S mới làm thủ tục đăng ký kết hôn vào ngày 09/9/2017. Từ khi anh S trở về địa phương, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc nhưng được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh S vẫn nghiện ma túy, có tính hay ghen tuông mặc dù chị không có tình cảm với ai ngoài anh S, vợ chồng bất đồng quan điểm nên thường xuyên cãi vã xung đột. Bên cạnh đó thì bố mẹ anh S cũng đã bị kết án về tội ma túy. Do cuộc sống vợ chồng không còn tình cảm nên chị và anh S đã sống ly thân từ tháng 6/2022 đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Duy S.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 37/2024/HN-PT
Ngày: 13/11/2024
V/v Ly hôn, tranh chấp về nuôi con
khi ly hôn”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nga
Các Thẩm phán: Bà Lê Th Tân
Lê Thị Thủy
- T ký phiên a: Bà Hoàng Th Phi - Thư Tòa án nhân n tnh
Thanh a.
- Đại diện VKSND tỉnh Thanh Hóa: Mai ThXuyến - Kiểm sát viên
tham gia phiên tòa.
Ngày 13 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân n tỉnh Thanh Hoá xét
xử phúc thẩm công khai vụ ánn nhân gia đình, thụ lý s31/2024/TLPT-HNGĐ
ngày 01/10/2024 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Do bản án
hôn nhân gia đình thẩm số 110/2024/HNGĐ-ST ngày 19/8/2024 của Toà án
nhân n huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa bị kháng o. Theo quyết định đưa vụ
án ra xét xử phúc thẩm số: 26/2024/QĐ-PT ngày 17/10/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1995
Nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã T, huyện L, Thanh Hóa.
Nơi hin nay: Thôn L, T, huyện C, Thanh Hóa.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho chị T: Luật sư Lê Đình Chinh, Công
ty Luật We Win, chi nnh số 1- Đn Luật sư thành phHà Nội.
2. Bị đơn: Anh Phạm Duy S, sinh năm 1996
Trú tại: Tn N, T, huyện L, tỉnh Thanh Hóa.
Người bảo vquyền lợi ích hợp pháp cho anh S: Luật Tơng Minh Thọ,
Văn phòng Luật sư Tấn Pơng - Đn Lut tỉnh Thanh a.
Tại phiên tòa có mặt: Chị T, vắng mặt anh S (đã có đơn đnghị xử vắng mặt);
có mặt Luật sư của hai bên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
2
Theo đơn khởi kiện ngày 12/6/2024 bản tự khai ngày 20/6/2024 quá
trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị T trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị anh Phạm Duy S tự nguyện chung sống
tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương từ năm 2015, sau khi cưới
nhau thì anh S phạm tội về ma túy nên bị đi tù 02 năm, đến tháng 10 năm 2015 thì
chị T sinh con, trong thời gian nuôi con anh S không mặt nhà, chị vẫn sống
chung ng bố manh S tại xã T. Năm 2017 anh S chấp hành xong án phạt thì
chị anh S mới làm thủ tục đăng kết hôn vào ngày 09/9/2017. Tkhi anh S
trở về địa phương, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc nhưng được 05 năm
thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh S vẫn nghiện ma túy, có tính hay
ghen tuông mặc chị kng tình cảm với ai ngoài anh S, vợ chồng bất đồng
quan điểm nên thường xuyên cãi xung đột. n cạnh đó thì bố manh S cũng
đã bkết án về tội ma túy. Do cuộc sống vợ chồng không còn tình cảm nên chị
anh S đã sống ly thân từ tháng 6/2022 đến nay. Nay chị xét thấynh cảm vợ chồng
không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho
chị được ly hôn anh Phạm Duy S.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Duy Minh Nhật,
sinh ngày 09/10/2015. Ly hôn chị T nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc,
nuôi dưỡng cháu Phạm Duy Minh Nhật và không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng
nuôi con chung cùng chị. do nguyện vọng chị muốn nuôi con anh S
vẫn nghiện ma túy, môi trường xung quanh hàng xóm nhiều người nghiện,
bơm kim tiêm vứt i rác bừa bãi gần nhà nên chị không muốn cháu Phạm Duy
Minh Nhật sống trong môi trường có tiềm ẩn rủi do.
Về điều kiện thu nhập: Hiện nay chị đang làm lao động tại Công ty cổ phần
Đầu tư và Thương mại Hoàng Thành, có địa chỉ tại 66 đường Hồng Tiến, phường
Bồ Đề, quận Long Biên, thành phố Nội, Hợp đồng lao động được tngày
01/02/2022, mức thu nhập của chị hàng tháng 09 triệu đồng, ngoài ra chị còn
đi làm thêm ngoài nên mức thu nhập của chị cũng ổn định. Về nơi ăn trốn ở, do
điều kiện làm ăn nên trước mắt chị đang thuê nhà, n khi ly hôn tbố mẹ chị
đang làm thủ tục tặng cho Quyền sử dụng đất để chị xây nhà lâu dài.
- Về tài sản công nợ chung: Vợ chồng không có tài sản và công nợ chung
nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn: Tại bản tự khai ngày 20/6/2024 biên bản hòa giải anh
Phạm Duy S trình bày:
Về hôn nhân: Năm 2015 anh và chị Nguyễn Thị T tự nguyện làm đám cưới
với nhau nhưng đến năm 2017 mới đăng kết hôn tại UBND Thành Lộc,
3
huyện Hậu Lộc. do chậm đăng kết hôn anh S thừa nhận, vào tháng 7 năm
2015 anh bị kết án về tội ma túy, thời gian chấp hành 02 m, đến năm 2017
anh mới chấp hành xong nên vợ chồng mới làm thủ tục đăng kết hôn. Sau khi
kết hôn anh đi làm tại Công ty vận tải tàu biển Newsun với công việc Sỹ quan
vận hành boong, thời gian làm việc trên tàu khoảng 08 tháng liên tục/năm. Trong
thời gian anh S đi làm ăn xa, anh có nghe nhiều người khác nói lại với anh, chị T
đi làm công tytình cảm với người khác nên tình cảm vợ chồng không còn hòa
thuận, hạnh phúc dẫn đến bất đồng quan điểm sống. Đến tháng 5 năm 2022 chị T
bỏ đi làm xa để lại con cho anh nuôi dưỡng. Nay chị T đơn xin ly hôn thì anh
S cũng đồng ý. Hiện tại anh S đã xuống tàu làm việc nên trước khi đi anh đã làm
đơn xin xét xử vắng mặt.
Về con chung: Vợ chồng 01 con chung như chị T trình bày, hiện nay
cháu Phạm Duy Minh Nhật đang cùng anh ông nội tại thôn Thành Ninh,
Thành Lộc, kể từ khi vợ chồng ly thân. Nay ly hôn, anh S nguyện vọng
được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phạm Duy Minh Nhật không yêu
cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Để bảo đảm quyền nuôi con anh S đã
cung cấp mức thu nhập hàng tháng tại Công tyi anh làm việc.
Về tài sản chung, công nchung: Vợ chồng không tài sản công nợ
chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Biên bản xác minh ngày 25/6/2024, cán bộ thôn Thành Ninh, xã Thành
Lộc nơi anh S, chị T sinh sống cho biết: chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Duy S
một con chung, sau khi kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình anh S tại thôn
Thành Ninh, xã Thành Lộc nhưng thời gian sau thôn có nghe nói chị T đã vnhà
ngoại tại thôn Thuần Lương, Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, còn cháu Nhật
cùng bố ông nội chăm sóc, địa phương thôn cho biết anh S từng đi
án ma túy, còn nguyên nhân mâu thuẫn thì thôn không nắm bắt được thông tin.
Tại bản án n nhân gia đình thẩm số 110/2024/HN-ST ngày
19/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Hậu Lộc đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 Điều 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 14, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều
58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình 2014.
Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn
Thị T được lyn với anh Phạm Duy S.
4
Về con chung: Công nhận cháu Phạm Duy Minh Nhật, sinh ngày
09/10/2015 là con chung của anh Schị T. Giao cho chị T được quyền trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Duy Minh Nhật. Anh S không phải
cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng do chT tự nguyện không yêu cầu. Sau khi
ly hôn anh S có quyền qua lại thăm nom, chămc, giáo dục con chung, chị T
người thân không ai được phép cản trở.
Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án
không xem xét giải quyết.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xthẩm, ngày 30/8/2024 anh Phạm Duy S có đơn kháng cáo
bản án thẩm về phần giao nuôi con chung, đề nghTòa án cấp phúc thẩm giải
quyết giao cháu Phạm Duy Minh Nhật sinh ngày 09/10/2015 cho anh được trực
tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Bởi ,
hiện nay anh đã ra tù đã nghiện ma y, thu nhập cao, cháu do ông nội
đang nuôi, trong khi chị T m Nội phải thnhà ở, không đủ điều kiện
nuôi con.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh S giữ
nguyên nội dung kháng o; các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án.
Quan điểm của Luật bảo vệ cho chị T: đề nghị không chấp nhận kháng
cáo không hợp lệ anh S không phải người trực tiếp gửi nộp tạm ứng án phí;
đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm giao cháu Nhật cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.
Quan điểm của Luật sư bảo vệ cho anh S: đề nghị giao con cho anh S nuôi
hiện tại anh đã hợp đồng đi làm tại ng ty Thanh Hóa, thu nhập ổn định
nên anh có điều kiện nuôi con hơn chị T.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm t nhân dân tỉnh Thanh Hóa: Về việc tuân
theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên a những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa trong quá trình th lý, giải quyết tại
phiên a đã thực hiện đúng quy định của bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên a
phúc thẩm, không schấp nhận kháng cáo của anh S. Đề nghị HĐXX áp
dụng: Khoản 1 Điều 308; Khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Nghị Quyết
326/UBTVQH ngày 31/12/2016 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,
không chấp nhận kháng cáo của anh S, giữ nguyên bản án thẩm số
110/2024/HNGĐ-ST ngày 19/8/2024 của Toà án nhân dân huyện Hậu Lộc, tỉnh
Thanh Hóa.
5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghn cứu c tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
toà căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng t xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Phạm Duy S gửi trong thời hạn quy
định, hợp lđược chấp nhận giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng o của anh Phạm Duy S với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết giao cháu Phạm Duy Minh Nhật, sinh ngày 09/10/2015 cho
anh được trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị T cấp ỡng tiền nuôi con
chung thì thấy rằng:
Chị T anh S đều nguyện vọng trực tiếp nuôi con chính đáng, đó
quyền và cũng là nghĩa vụ của cha mtrong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
đối với con chưa thành niên. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi phải trên cơ s
đảm bảo quyền lợi về mọi mặt từ vật chất đến tinh thần cho cháu có thể phát triển
một cách tốt nhất. Cháu Minh Nhật hiện nay mới 10 tuổi đang học lớp 4, tâm sinh
chưa ổn định nên khi với chị T thì trình bày nguyện vọng muốn với mẹ,
khi ở với anh S thì trình bày muốn ở với bố.
Quá trình giải quyết vụ án, chị T cung cấp bảng lương thu nhập hàng tháng
của chị tại sở lao động nơi làm việc với mức thu nhập là 9.000.000
đồng/tháng, mức thu nhập này tuy còn thấp so với anh S nhưng là thu nhập ổn
định, đủ để chị T bảo đảm cuộc sống bình thường của chị cháu Nhật. Anh S
cung cấp bảng lương thu nhập hàng tháng với mức thu nhập 40.527.333 đồng,
tuy nhiên theo anh S trình bày công việc của anh là sĩ quan điều hành boong, thời
gian làm việc liên tục khoảng 08 tháng/năm, trong 08 tháng này anh S phải làm
việc trên tàu liên tục không thời gian trở vnhà. Điều này cho thấy anh S
không thể trực tiếp chămc, giáo dục cháu Minh Nhật, nếu giao cho anh S được
quyền trực tiếp nuôi dưỡng thì sẽ không bảo đảm thời gian tối thiểu đtrực tiếp
trông nom, chăm sóc con, trong khi phần lớn thời gian cháu Minh Nhật nhà là
do ông bà nội đưa đón chăm sóc. Trong khi, chị T có công việc với mức thu nhập
ổn định, chỉ làm việc vào giờ hành chính nên có thời gian gần gũi, chăm sóc, nuôi
dưỡng cháu Nhật điều kiện môi trường thuận lợi hơn về việc trực tiếp nuôi
con.
Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế và điều kiện nuôi con của các đương sự, Tòa
án sơ thẩm đã giao cháu Minh Nhật cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp
bảo đảm quyền lợi cho cháu.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bảo vệ cho anh S cung cấp giấy cháu
Nhật xin với b (không đ ngày, tháng) Hợp đồng lao động ngày
20/9/2024, anh S với công ty thương mại Tiến Long An Thuần Lộc,
huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa, công việc cho thuê phông rạp, mức lương
6
9.000.000đ/tháng. Hợp đồng chữ của anh S chữ đóng dấu của Giám
đốc công ty, không có xác nhận của quan thẩm quyền. Luật không
cung cấp được bảng lương hàng tháng của anh S không biết anh S đã đi m
công ty này chưa, theo Luật sư thì hiện nay anh S đang đi tàu đbàn giao
công việc. Như vậy, chứng cứ anh S đi làm ở công ty thương mại Tiến Long An
chưa đủ căn cứ chứng minh.
Xét quan điểm Luật sư bảo vệ cho ch T cho rằng: về tố tụng: anh S
không phải là người nộp đơn nộp tạm ứng án phí cho Tòa án nên kháng cáo
không hợp lvà không được chấp nhận, thì thấy rằng anh S đang đi tàu n đã
viết đơn kháng cáo gửi về nhờ chị Hồng nộp cho Tòa án nhchị Hồng nộp
tạm ứng án phí, sau đó anh S đã có đơn đề nghị xử vắng mặt và nhờ Luậtbảo
vệ quyền lợi cho anh tại a để được quyền nuôi con. Như vậy, việc anh S
kháng cáo là thực tế, được chấp nhận để xem xét.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chT cung cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số DQ 467980 mang tên chị Nguyễn ThT do Chi nhánh văn phòng đăng ký
đất đai huyện Cẩm Thủy cấp ngày 25/10/2024 - địa chỉ thửa đất: Thôn Thuần
Lương, Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh a Giấy cháu Nhật viết
tại trường tiểu học của cháu đang học ngày 12/11/2024 xin được với mẹ.
Chị T cho rằng sau khi a xchị svề Thanh a m việc, m n và trực
tiếp nuôi con.
Ngoài ra, chị T còn xuất trình xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Thành
Lộc, huyện Hậu Lộc với nội dung: anh S bố mẹ anh S đều đã bịa án xử về
tội ma túy, anh S khôngmặt tại địa phương từ tháng 8/2024 đến nay.
Như vậy, việc giao con cho anh S nuôi là không đảm bảo điều kiện phát
triển tốt nhất cho cháu.
Từ những phân tích nêu trên, kháng cáo xin được nuôi cháu Minh Nhật
của anh S không có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận
kháng cáo của anh S, cần ginguyên án sơ thẩmphù hợp.
[3] c Quyết định khác của bản án thẩm kng kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của anh S không được chấp nhận
nên chị phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 1 điều 308; khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân gia đình. Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
7
326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án
phí lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của anh Phạm Duy S, giữ nguyên bản án
dân sự thẩm số 110/2024/HNGĐ-ST ngày 19/8/2024 của Toà án nhân n
huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa về phần giao nuôi con chung:
Giao cháu Phạm Duy Minh Nhật, sinh ngày 09/10/2015 cho chị T trực tiếp
nuôi dưỡng. Anh S không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung; anh S quyền,
nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.
2. Về án phí phúc thẩm: Anh Phạm Duy S phải nộp 300.000đ, đã nộp đủ
tại biên lai thu số 0003369, ngày 13/9/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- a án Cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa (P9);
- Tòa án ND huyện Hậu Lộc;
- Chi cục THADS huyện Hậu Lộc;
- Các Đương sự;
- u hồ sơ;
TM. HỘI ĐỒNG T XỬ
THẨM PHÁN - CHTỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thị Nga
Tải về
Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT Bản án số 37/2024/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất