Bản án số 34/2024/KDTM-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về tranh chấp về mua bán cổ phiếu, trái phiếu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 34/2024/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 34/2024/KDTM-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp về tranh chấp về mua bán cổ phiếu, trái phiếu
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về tranh chấp về mua bán cổ phiếu, trái phiếu...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 34/2024/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 34/2024/KDTM-PT
Ngày: 30/9/2024
V/v Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm pn - Ch tọa phiên a: Ông Chu Thành Quang;
Các Thẩm phán: Ông Phùng Hải Hiệp;
Ông Nguyễn Phan Nam.
Thư ký phiên tòa: Triệu Hương Thùy - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội tham gia phiên tòa:
Bà Vũ Th Thúy - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 30/9/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc
thẩm công khai vụ án kinh doanh, thương mại thụ lý số 24/2024/TLPT-KDTM
ngày 18/6/2024 về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần do
kháng cáo của b đơn đối với Bn án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
05/2024/KDTM-ST ngày 26/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng,
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s 10505/2024/QĐ-PT ngày
12/9/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H; địa chỉ: Số 47, đường L, phường A,
quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Nguyễn Thị Minh Ph; địa chỉ: Số 171/239 (nay số 20/77
ngõ 239) L, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Cao Thị Thúy H; địa chỉ: Tổ
dân phố số 5, N, thành phố G, tỉnh Đăk Nông; có mặt.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty Cổ phần Công trình công cộng Dịch vụ du lịch H; địa chỉ: S
8, phường H, quận Đ, thành phố Hải Phòng; đại diện theo ủy quyền: Ông Cấn
Ngọc Đ - Trưởng phòng Tổ chức Hành chính, Thư Hội đồng Quản trị của công
ty; có mt.
2. Ông Trần Văn L; địa chỉ: Số 171/239 (nay số nhà 20/77/239) L,
2
phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kin trong q trình giải quyết v án, nguyên đơn trình y:
Ngày 28/9/2015, ông Nguyễn Văn H ký với bà Nguyễn Thị Minh Ph Hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần với nội dung: Ông H đồng ý chuyển nhượng
200.000 cổ phần phổ thông trong Công ty cổ phần công trình công cộng và dịch
vụ du lịch H (viết tắt là Công ty H) hiện bà Nguyễn Thị Minh Ph đang là chủ sở
hữu cho ông Nguyễn Văn H kể từ ngày 28/9/2015 với tổng giá trị chuyển nhượng
2.543.000.000 đồng, trong đó gồm:170.000 cổ phần phổ thông giá
13.000đ/01cổ phần, thành tiền 2.210.000.000 đồng và 30.000 cổ phần phổ thông,
giá 11.100 đồng/01 cổ phần, thành tiền 333.000.000 đồng. Tại Giấy biên nhận
ngày 28/9/2015 thể hiện nội dung ông H đã chuyển đủ cho bà Ph số tiền
2.543.000.000 đồng; đồng thời, tại Giấy ủy quyền ngày 28/9/2015 thể hiện nội
dung Nguyễn Thị Minh Ph ủy quyền cho ông Nguyễn Văn H được đại diện
toàn quyền với 200.000 cổ phần phổ thông của Công ty H do Nguyễn Thị Minh
Ph đang là chủ shữu. Sau khi hợp đồng nêu trên, ông H đã yêu cầu Ph làm
thủ tục sang tên 200.000 cổ phần cổ đông 303, mã chứng khoán CDH cho ông
H theo đúng hợp đồng đã kết nhưng Ph luôn tìm do chây ỳ, trì hoãn cố
tình không làm thủ tục sang tên, không thực hiện cam kết đã ký giữa ông H và bà
Ph. Để có số tiền 2.343.000.000 đồng đưa cho bà Ph, ông H đã rút số tiền gửi tiết
kiệm đang gửi tại Ngân hàng G để đưa cho bà Ph. Nay Ph không thực hiện cam
kết đã ký, ông đã bị thiệt hại số tiền lãi gửi tiết kiệm t ngày t tiền ngày
06/8/2015 (nhưng ông tính từ tháng 10/2015) đến nay nên yêu cầu bà Ph phải trả
lại cho ông số tiền 2.343.000.000 đồng tiền lãi (trên số tiền 2.343.000.000
đồng) từ tháng 10/2015 đến thời điểm xét xử theo quy định pháp luật.
Bị đơn Nguyễn ThMinh Ph đại diện theo ủy quyền của Ph
thống nhất trình bày:
Thứ nhất, Ph khẳng định 200.000 cổ phần mang tên Nguyễn Thị Minh
Ph tại Công ty H không phải sở hữu của ông H, cụ thể: Ngày 21/7/2015,
Nguyễn Thị Minh Ph nộp 200.000.000đ (Hai trăm triệu) đồng tiền đặt cọc tham
gia đấu giá mua cổ phần tại Công ty H, sau đó Ph đã trúng đấu giá tại thời điểm
diễn ra việc bán đấu giá cổ phần ngày 28/7/2015 do Công ty Cphần chứng khoán
Q là đơn vị thực hiện thủ tục nêu trên đúng quy định của pháp luật và hoàn thành
nghĩa vụ thanh toán tiền mua cổ phần theo Quyết định trúng đấu giá để trở tnh
chsở hữu hợp pháp đối với 200.000 cphần tại ng ty H. Tổng số tiền thanh toán
2.543.000.000 (Hai tỷ năm trăm bốn ơi ba triệu) đồng.
Thứ hai, ngay tại thời điểm trúng đấu giá ngày 26/7/2015, ông H đxuất
việc mua lại cổ phần của bà Ph nên sau khi bàn bạc thống nhất ngày 29/7/2015,
ông H có yêu cầu bà Ph ký giấy chuyển nhượng cổ phần trước khi ông H chuyển
tiền để Ph nộp vào Công ty theo Quyết định trúng đấu giá. Tại thời điểm
giấy chuyển nhượng, có mặt anh Đinh Văn N và anh Đoàn Ngọc C là người làm
chứng, ngoài ra không ai khác. Sau khi các bên cùng vào giấy chuyển
3
nhượng, ngày 30/7/2015, ông H ra ngân hàng G rút số tiền 2.343.000.000 đồng
để bà Ph chuyển tiền đó vào tài khoản của Công ty cổ phần chứng khoán Q, hoàn
thành nghĩa vụ nộp tiền của người trúng đấu giá. Như vậy, khẳng định các tài liệu
khởi kiện ông H cung cấp gồm Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 28/9/2015
và Giấy biên nhận tiền ngày 28/9/2015 là tài liệu không đúng sự thật.
Do Công ty H quy định bắt đầu ttháng 3/2016 cho phép các cổ đông
chuyển nhượng cổ phần của mình nên việc chuyển nhượng 200.000 cổ phần giữa
Ph và ông H không thực hiện được.
Đến ngày 16/3/2016 ngày 18/3/2016, thời điểm cổ đông được phép
chuyển nhượng cổ phần, những người lao động shữu tổng số gần 4% cổ phần
của Công ty, ủy quyền cho Ph thủ tục chuyển nhượng số cổ phần này cho
ông Nguyễn Văn H. Thủ tục chuyển nhượng được thực hiện đầy đủ theo quy định
của pháp luật và được Công ty ghi nhận theo thủ tục hợp pháp.
Ph đã bàn giao các giấy tờ đông H hoàn tất việc chuyển nhượng
200.000 cổ phần như đã giao kết thời điểm Tháng 7/2015 nhưng tại thời điểm đủ
điều kiện chuyển nhượng là Tháng 3/2016, ông H chỉ thực hiện việc mua mới gần
4% cổ phần của 61 người lao động như nêu trên, không tiếp tục thực hiện
hoàn thiện giao dịch của 200.000 cổ phần mua của bà Ph trước đó, với lý do ông
H đưa ra là không muốn mua số cổ phần này nữa và biết thời điểm đó bà Ph khó
khăn về kinh tế nên ông H chưa yêu cầu thanh toán trả lại cho ông H số tiền
2.343.000.000 đồng.
Để khẳng định nội dung trên sthật, Ph cho biết: Quá trình Ph phải
thực hiện Bản án số 01/2019/DS-ST ngày 19/12/2019 của Tòa án nhân dân quận
Đồ Sơn với nội dung tuyên buộc Ph phải trả cho Công ty H số tiền
1.253.605.000 đồng, Chi cục Thi hành án quận Đồ Sơn cưỡng chế thi hành án
bằng việc phong tỏa toàn bộ số cổ phần củaPh tại Công ty H. Trong thời gian
hơn 01 năm, Chi cục Thi hành án quận Đồ Sơn cưỡng chế thi hành án 203.428 c
phần, thời điểm này mặc thành viên của Hội đồng quản trị của Công ty H,
ông H biết nhưng không có bất kỳ văn bản nào gửi đến cơ quan thi hành án cũng
như các bên liên quan về việc quyền lợi của ông bị xâm phạm khi phong tỏa
cổ phần của bà Ph đang đứng tên, cũng như trong những lần chi trả cổ tức cho bà
Ph, ông H cũng không có bất kỳ ý kiến gì.
Sau đó, để có tiền thi hành bản án, lấy lại số cổ phần đang bị phong tỏa, bà
Ph có nhận tiền từ bà Đỗ Thị Hương G (sinh năm 1988, HKTT: C33104, chung
T, 119 đường T, phường T, quận C, thành phố Nội). Tại thời điểm đó, giữa
vợ chồng Ph và bà G có 01 hợp đồng hứa chuyển nhượng c phần, đến nay bà
G đang yêu cầu vợ chồng bà Ph thực hiện việc chuyển nhượng theo hợp đồng đã
ký.
Ngày 10/10/2022, sau khi Ph nộp tiền thi hành án theo Quyết định thi
hành án, Công ty H cấp cho bà Nguyễn Thị Minh Ph Giấy chứng nhận sở hữu c
phần với mã số cổ đông 303 xác nhận Ph sở hữu hợp pháp 203.428 cổ phần.
4
Từ các nội dung trên, Ph khẳng định: Tại thời điểm hiện tại, bà Ph là chủ
sở hữu hợp pháp của toàn bộ số cổ phần mang tên tại Công ty H, khoản tiền cổ
tức 509.770.000 đồng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ của người sở hữu hợp pháp
là bà Ph, không liên quan gì đến ông H số tiền cổ tức này. Nay ông H có yêu cầu
trả lại số tiền 2.343.000.000 đồng, thực tế nhận của ông H số tiền này để
mua cổ phần nên nhất trí trả lại ông H số tiền ông H đã đưa cho
2.343.000.000 đồng. Tuy nhiên, đối với số tiền lãi, bà Ph không chấp nhận trả vì
giữa ông H và bà Ph không có thỏa thuận về việc trả lãi suất.
Quan điểm của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Trần Văn L trình bày: Đối với 200.000 số cổ phần của Công ty H thuộc
sở hữu của bà Ph Ph người trúng đấu giá. Ông H tnguyện đưa cho
Ph số tiền 2.343.000.000 đồng để trả tiền đấu giá cổ phần, stiền này giữa ông H
và bà Ph không có giấy tờ vay mượn và không có bất kỳ cam kết nào nên ông H
yêu cầu đòi lãi suất không căn cứ. Việc ông H trình bày giấy tờ chuyển
nhượng chữ của ông L cùng với ông Đinh Văn N, ông Đoàn Ngọc C,
Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Văn H Nguyễn Thị Minh Ph thì ông L khẳng
định: không một lần nào mặt đầy đủ của những người tên trên trong giấy
chuyển nhượng. Ngày 08/10/2023 ngày 10/10/2023, ông L Ph làm
việc với ông H về việc ông H đòi lại 200.000 đồng cổ phần nhưng ông L và bà Ph
không đồng ý; ông L Ph yêu cầu lập biên bản làm các khúc mắc về
kinh tế tiền nong giữa ông L, Ph ông H ttrước đến nay nhưng ông H không
đồng ý lập biên bản. Nay việc bà Ph chỉ trả lại số tiền 2.343.000.000 đồng là phù
hợp, do ông H tự nguyện đưa tiền cho bà Ph nên không đồng ý tính lãi suất.
Ông Cấn Ngọc Đ - đại diện theo ủy quyền của Công ty Công trình công
cộng và Dịch vụ du lịch H trình bày: Việc giao dịch 200.000 c phần giữa ông H
Ph diễn ra; tuy nhiên, giao dịch trên không đúng quy định của pháp
luật. Việc Ph thừa nhận đã nhận số tiền 2.343.000.000 đồng từ ông H để mua
cổ phần nay ông H yêu cầu trlại, Ph đồng ý trả lại, đề nghị Tòa án căn cứ vào
pháp luật giải quyết. Đối với số tiền lãi ông H yêu cầu trả đề nghị Tòa án giải
quyết theo quy định pháp luật. Tính đến thời điểm hiện nay (Tháng 3/2024), Công
ty vẫn công nhận bà Nguyễn Thị Minh Ph cổ đông sở hữu số cổ phần 203.428
(trong đó có 200.000 cổ phần ông H bà Ph đang có tranh chấp). Đối với cổ tức
trên số cổ phần mang tên bà Ph chỉ được tính vào cuối năm (ngày 30/12) hàng
năm, chứ không tính tại thời điểm các tháng cụ thể trong năm nên việc xác định
cổ tức đến ngày xét xử là không tính toán được.
Ti Bn án kinh doanh, thương mại thẩm s 05/2024/KDTM-ST ngày
26/3/2024, Tòa án nhân dân thành ph Hi Phòng đã quyết định: Căn cứ khon 1
Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 235,
Điều 246, Điều 273 ca B lut T tng dân s; Điu 2, khoản 8 Điều 3 Lut
Thương mại; Điều 115, Điều 126 Lut Doanh nghip; Điều 26 Thông tư
155/2015/TT-BCT hướng dn công b thông tin trên th trường chng khoán;
Điều 122, Điều 129, Điều 131, khoản 2 Điều 357, Điều 407 B lut n sự; Điều
3, điểm đ khoản 1 Điều 12 Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
5
ca y ban Thường v Quc hội quy định v mc thu, min, gim, thu, np, qun
s dng án phí và l phí Tòa án, x:
(1) Công nhn s tha thun ca ông Nguyễn Văn H Nguyn Th
Minh Ph v vic Nguyn Th Minh Ph tr li cho ông Nguyn Văn H s tin
2.343.000.000 đồng (Hai tỷ, ba trăm bốn mươi ba triệu đồng).
(2) Buc Nguyn Th Minh Ph phi bồi thường thit hi cho ông Nguyn
Văn H tương đương s tin 1.392.101.000 đồng (Mt tỷ, ba trăm chín mươi hai
triu, một trăm linh mt nghìn đồng).
K t ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối vi
các khon tin phi tr cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phi thi hành án còn phi chu khon tin lãi ca s tiền chưa thi hành án theo
mc lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 B lut Dân s năm 2015.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định v án phí và thông báo quyn
kháng cáo theo quy định pháp lut.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/4/2024 bị đơn là Nguyễn Thị Minh Ph
có đơn kháng cáo đối với quyết định của bản án thẩm v vic buộc b đơn phải
bồi thường thường cho nguyên đơn s tiền 1.392.101.000đ vì khi kết hợp đồng,
các bên không thỏa thuận v trả lãi suất; bản án sơ thẩm buc phải bồi
thường cho ông H s tiền này là vô lý. Bà Ph cho rng hợp đồng chuyển nhượng
c phần giữa ông H vô hiệu ngay t thời điểm ký kết. Tòa án cấp sơ thẩm
xác định hợp đồng hiệu nhưng không tuyên hợp đồng hiệu lại xác định
yếu t lỗi để giải quyết yêu cầu bồi thườngkhông đúng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự không xuất trình thêm tài liệu,
chứng cứ mới và không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, về
bản giữ nguyên quan điểm như đã trình bày tại cấp sơ thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên quyết định
của bản án sơ thẩm.
Bị đơn là bà Nguyễn Thị Minh Ph giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm thẩm theo hướng không chấp
nhận yêu cầu trả lãi của nguyên đơn.
Người đại diện theo ủy quyền của Ph đề ngh Hội đồng xét x không
chp nhận khoản tiền lãi mà Tòa án cấp sơ thẩm buc b đơn phải tr cho nguyên
đơn hợp đồng chuyển nhượng c phần giữa nguyên đơn b đơn hiệu;
lỗi của hai bên như nhau. Người đại diện của b đơn cho rằng, bà Ph đã nhận của
ông H hơn 2,3 t đồng thì ch tr lại cho ông H s tiền này. Ông H t nguyện đưa
tiền cho Ph, không thỏa thuận nào v lãi suất nên không th buộc Ph phải
phải bồi thường thiệt cho ông H như cách tính của Tòa án cấp sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội: Toà
án cấp phúc thẩm đã thụ giải quyết ván đúng quy định pháp luật. giai
đoạn phúc thẩm tại phiên toà m nay, Hội đồng t xử đã thực hiện đúng
6
các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; những người tham gia tố tụng chấp
hành nghiêm chỉnh Nội quy phiên tòa, thực hiện đúng c quyền nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật. Xét yêu cầu kháng cáo của b đơn, thấy rằng hợp
đồng chuyển nhượng c phần giữa nguyên đơn và b đơn vô hiệu c v nội dung
nh thức; c bên phải tr lại cho nhau những đã nhận phải tính lỗi để
xác định trách nhiệm bồi thường. L ra, khi xác định thiệt hại và trách nhiệm
hoàn tr giữa các bên phải đưa c giá tr chênh lệch của s c phần tại thời điểm
chuyển nhượng với thời điểm xét x sơ thẩm s tiền c tức b đơn được
ởng lợi đ xem xét trách nhiệm mới đầy đủ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm
đã căn c o quy định tại Điều 357, Điều 468 B lut Dân s, tính lãi suất
10%/1 năm trên khoản tiền ngun đơn đã đưa cho b đơn để xác định thiệt
hại và buộc b đơn phải tr cho nguyên đơn 70% (vì phải chịu 70% lỗi) có căn
c, hợp tình, hợp . Đề ngh Hội đồng xét x không chấp nhận kháng cáo của
b đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà n cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến của
các bên đương sự, đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Sau khi xét x sơ thẩm, ngày 08/4/2024, b đơn bà Nguyễn Th Minh
Ph đơn kháng cáo trong thời hạn lut định, phù hợp với quy định tại các điều
271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên là hợp lệ, được xem xét theo thủ tục
phúc thẩm.
[2] V quan h tranh chp, thm quyn gii quyết v án: Ngày 21/7/2023,
Tòa án nhân dân thành ph Hi Phòng nhn đưc đơn khi kin ca ông Nguyn
Văn H yêu cu bà Nguyn Th Minh Ph phi tr li 200.000 c phn ca Công ty
H Ph đã thực hin chuyển nhượng cho ông H theo Hợp đng chuyn
nhưng c phn ngày 28/9/2015; đồng thi, yêu cu Ph thanh toán cho ông H
s c tức 509.770.000 đồng phát sinh t quyền nghĩa v của người s hu
hp pháp. Bà Nguyn Th Minh Ph có địa ch ti s 171/239 (nay s 20/77 ngõ
239) L, phường L, qun N, thành ph Hi Phòng. Tòa án nhân dân thành ph Hi
Phòng xác định quan h tranh chp “Tranh chấp hp đồng chuyển nhượng cổ
phần”, là tranh chấp về kinh doanh thương mại thụ giải quyết là phù hợp với
quy định tại Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm, ông Nguyễn
n H yêu cầu Nguyễn Th Minh Ph trả lại ông H số tiền 2.343.000.000 đồng
( khoản tiền mà ông H đã chuyển cho Ph để Ph nộp vào Công ty theo quyết
định trúng đấu giá); Ph nhất trí trlại ông H số tiền 2.343.000.000 đồng. t
việcPh và ông H thống nhất trả lại cho nhau số tiền 2.343.000.000 đồng là p
hợp với quy định pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ quy định tại Điều 246 Bộ
luật Tố tụng dân sự, chấp nhận sự thỏa thuận giữa ông HPh đúng.
[4] Xét kháng cáo của bị đơn về việc không đồng ý trả stiền lãi trên số
tiền 2.343.000.000 đồng từ tháng 10/2015 đến nay với do khi nhận tiền giữa
7
ông H không thỏa thuận về lãi suất, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ vụ án và lời khai, trình bày của các bên
tại phiên tòa thẩm, thấy rằng ông H, Ph kết hợp đồng chuyển nhượng
200.000 cổ phần vào ngày 28/9/2015 không xác nhận của Công ty H. Cùng
ngày, Ph đã giấy y quyền cho ông Nguyễn Văn H được đại diện toàn quyền
với 200.000 cổ phần phổ thông của Công ty H do Nguyễn Thị Minh Ph đang
chủ sở hữu thể hiện nội dung: Ông Nguyễn Văn H được thay mặt Ph quản
lý sử dụng và các nghĩa vụ liên quan đến 200.000 cổ phần. Như vậy, việc ký kết,
thực hiện chuyển nhượng cổ phần giữa ông H và bà Ph ngày 28/9/2015 trong khi
Công ty H có quy định bắt đầu từ tháng 3/2016 mới cho phép các cổ đông chuyển
nhượng cổ phần của mình hợp đồng chuyển nhượng không xác nhận của
Công ty H không tuân theo quy định pháp luật, vi phạm Điều 115, Điều 126
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, vi phạm Điều 26 Thông tư số
155/2015/TT-BCT hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán; vi
phạm Điều 8 Điều lệ của Công ty H; vi phạm Điều 5, Điều 6, Điều 7, Điều 8,
Điều 9 Quy chế quản cổ đông, chuyển nhượng cổ phần Tổ chức thực hiện
quyền của cổ đông của Công ty H. vậy, Tòa án cấp thẩm xác định Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần giữa ông Nguyễn Văn H Nguyễn Thị Minh Ph ngày
28/9/2015 vô hiệu, đồng thời căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự giải quyết hậu quả
của hợp đồng hiệu, các n hoàn trả cho nhau những đã nhận, bên có lỗi gây
thiệt hại thì phải bồi thườngđúng pháp lut.
[5] V thiệt hại do hợp đồng chuyển nhượng hiệu, trong quá trình giải
quyết vụ án cũng như tại phiên tòa thẩm, bị đơn Nguyễn Th Minh Ph đều
khẳng định: “…. Sau khi các bên cùng ký vào giấy chuyển nhượng, ngày
30/7/2015, ông H ra ngân hàng rút số tiền 2.343.000.000 đồng để Ph chuyển
tiền đó vào tài khoản của công ty Cổ phần chứng khoán Q, hoàn thành nghĩa vụ
nộp tiền của người trúng đấu giá”. Tại buổi hòa giải ngày 12/01/2024, ông H và
Ph đã thống nhất: Bà Ph trả cho ông H số tiền 2.343.000.000 đồng tính lãi
suất từ thời điểm tháng 8/2015. Như vậy, căn cứ vào việc ông H gửi tiết kiệm
ngân hàng, sau đó rút tiền ra đưa cho bà Ph; bà Ph cũng thừa nhận việc này nên
Tòa án cấp sơ thẩm xác định thiệt hại là khoản tiền lãi tiết kiệm l ra ông H đưc
ởngcơ s. Do khoảng thời gian t khi ông H chuyển tiền cho Ph đến
nay kéo dài qua nhiều năm, mức lãi suất của các t chức tín dụng thay đổi qua
từng năm, từng thời điểm, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn c vào quy định tại Điều
357, Điều 468 B lut Dân s 2015 đ xác định thiệt hại là khoản tiền lãi (10%)
trên s tiền 2.343.000.000 đồng trong thời hạn t tháng 8/2015 đến ngày
26/3/2024 là hợp tình, hợp lý, phù hợp với quan điểm củaPh tại biên bản hòa
gii ngày 11/12/2023 ngày 12/01/2024 v việc đề nghị Tòa án tính lãi suất
theo quy định của pháp luật từ tháng 8/2015”. Ngoài ra, bên cạnh khoản tiền lãi
mà ông H l ra được hưởng thì giá tr c phần giữa thời điểm Ph mua và thời
điểm xét x sơ thẩm có s thay đổi; bà Phngười nhận ởng c tức hàng năm
với s tiền đưc xác định là khoảng hơn 600.000.000 đồng (trong đơn khởi kiện
ông H xác định 509.770.000 đồng; ông Cấn Ngọc Đ - Trưởng phòng T chức
hành chính của Công ty xác nhận khoảng 614.000.000 nh đến tháng 12/2023).
8
L ra, các khoản này cũng cần đưc cân nhắc khi đánh giá, xác định thiệt hại của
hợp đồng hiệu nhưng các n đương s không yêu cầu; sau khi xét x sơ thẩm
ông H cũng không kháng cáo, th hiện s đồng tình với phán quyết của Tòa án
cấp sơ thẩm. Như vậy, vic xác định thiệt hại của hợp đồng hiệu chkhoản
tiền lãi l ra ông H được hưởng nếu không rút t ngân hàng ra đ chuyển cho bà
Ph là có căn cđã có lợi cho b đơn.
[6] V xác định lỗi của các bên trong vic hợp đồng hiệu như đã phân
tích trên, việc chuyển nhượng hợp cổ phần theo Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần ngày 28/9/2015 giữa ông H và bà Ph không thực hiện được do Công ty H có
quy định bắt đầu từ tháng 3/2016 mới cho phép các cổ đông chuyển nhượng cổ
phần của mình. Đến tháng 3/2016 thời điểm cổ đông được phép chuyển nhượng
cổ phần nhưng ông H và bà Ph không thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần theo
Hợp đồng ngày 28/9/2015. Như vậy, trong thời gian từ khi kết hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần ngày 28/9/2015 đến ngày đủ điều kiện chuyển nhượng cổ phần
16/3/2016, ông H không ý kiến về việc thực hiện hợp đồng. Mặc sau thời
gian đó ông H nhắn tin yêu cầu Ph thực hiện hợp đồng nhưng Ph đều
không có ý kiến gì. Tòa án cp sơ thẩm xác định việc hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần giữa ông H và bà Ph chưa được thực hiện đều do lỗi của hai bên, lỗi chủ yếu
của Ph 70% lỗi của ông H là 30% có cơ sở.
[7] V mức hoàn tr c th, Tòa án cấp sơ thẩm căn c vào quy định tại Điều
357, Điều 468 B lut Dân s 2015 để tính thiệt hại khoản tiền lãi (10%) trên
s tiền 2.343.000.000 đồng trong thời hạn t tháng 8/2015 đến ngày 26/3/2024 =
1.988.715.000 đồng; Nguyễn Th Minh Ph chịu 70% lỗi phải bồi thường
cho ông Nguyễn Văn H s tiền 1.988.715.000 đồng x70% = 1.392.101.000 đồng
hợp tình hợp . Do đó, không căn cứ để chấp nhận kháng cáo của Nguyễn
Thị Minh Ph.
[8] V vic Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định Hợp đồng chuyển nhượng c
phần giữa ông Nguyễn Văn H Nguyễn Th Minh Ph hiệu nhưng không th
hiện nội dung này trong phần quyết định thiếu sót cần rút kinh nghiệm; tuy nhiên,
sai sót này không làm thay đổi bản chất của v án.
[9] Về án phí: Nguyễn Thị Minh Ph là người cao tuổi (và đơn xin
miễn án phí) nên được miễn án phí kinh doanh, thương mại phúc thẩm theo quy
định pháp luật.
[10] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
n cứ khoản 1 Điu 30; điểm b khoản 1 Điu 35; đim a khoản 1 Điều 37;
Điều 147; Điều 246, Điều 273; Điều 308 của Bộ luật Ttụng n sự; Điều 2, khoản
8 Điều 3 Luật Thương mại; Điều 115, Điều 126 Luật Doanh nghiệp năm 2014;
Điều 122, Điều 129, Điều 131, khoản 2 Điều 357, Điều 407 Bộ luật Dân sự; Nghị
9
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí lệ
phí Tòa án; xử:
1. Tuyên b hợp đồng chuyển nhượng c phần giữa Nguyễn Th Minh
Ph và ông Nguyễn Văn H ký ngày 28/09/2015 vô hiệu k t thời điểm giao dịch
đưc xác lập.
2. Công nhận sự thỏa thuận của ông Nguyễn Văn H Nguyễn Thị Minh
Ph về việc Nguyễn Thị Minh Ph trả lại cho ông Nguyễn Văn H s tiền
2.343.000.000 đồng (Hai tỷ, ba trăm bốn mươi ba triệu đồng).
3. Buộc bà Nguyễn Thị Minh Ph phải bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn
Văn H số tiền 1.392.101.000 đồng (Một tỷ, ba trăm chín mươi hai triệu, một
trăm linh một nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án ca người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của stiền chưa thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về án phí: Nguyễn Thị Minh Ph ông Nguyễn Văn H không phải
chịu án phí kinh doanh thương mại thẩm. Trả lại ông Nguyễn Văn H số tiền
12.195.400đ (Mười hai triệu, một trăm chín mươi lăm nghìn, bốn trăm) đồng đã
nộp theo tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0000259 ngày
16/10/2023 tại Cục Thi hành án Dân sự thành phố Hải Phòng.
Bà Nguyn ThMinh Ph đưc miễn án phí kinh doanh, thương mại pc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC ti Hà Ni;
- TAND thành ph Hi Phòng;
- VKSND thành ph Hi Phòng
- Cc THA dân s thành ph Hi Phòng;
- Các đương sự (theo đ/c);
- Lưu HS, HCTP.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Chu Thành Quang
Tải về
Bản án số 34/2024/KDTM-PT Bản án số 34/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 34/2024/KDTM-PT Bản án số 34/2024/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất