Bản án số 337/2024/HNGĐ-ST ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 337/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 337/2024/HNGĐ-ST ngày 30/08/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 337/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phạm Thị T - Đặng Đức L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
_____________
Bản án số: 337/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 30/8/2024
V/v “Ly hôn, tranh chấp về nuôi
con”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
__________________________________
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Xuân Trường.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Mai Thị Thảo.
Ông Nguyễn Việt Hòa.
- Thư phiên tòa: Thị Huyền - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Hải
Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Phan Thị Thu Huyền - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân n tỉnh Hải Dương t
xử thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ số 343/2024/TLST-HNGĐ
ngày 26/6/2024 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn". Theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 382/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm
2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 248/2024/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm
2024, giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1989.
Địa chỉ trú: Đội 12 thôn N, C, huyện T, tỉnh Hải Dương; Vắng mặt
đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Đặng Đức L, sinh năm 1986.
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương. Nơi cư
trú hiện nay: Singapore; Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyễn Thị M, sinh năm 1959, địa chỉ: Thôn L, xã H, huyện N, tỉnh Hải
Dương; Vắng mặt có quan điểm đề nghị giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn chị Phạm Thị T trình bày: Chị anh Đặng Đức L được tự do tìm hiểu, tự
nguyện đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân H, huyện N, tỉnh Hải Dương vào
ngày 16/11/2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến năm 2010 thì anh L đi
lao động tại rập Xê út, năm 2013 anh sang lao động tại Đài Loan, năm 2014 anh
đi lao động tại Singapore. Trong thời gian nước ngoài chị anh L không sống
cùng nhau, chỉ thỉnh thoảng anh về nghỉ phép mới gặp nhau và chị phát hiện anh L
có người phụ nữ khác, anh thường xuyên ở cùng người phụ nữ đó, không quan tâm
đến gia đình. Nhiều lần chị lựa lời khuyên bảo cho anh hội đsửa chữa, gi
gìn hạnh phúc gia đình nhưng anh không thay đổi. Năm 2018 chị đi lao động tại
Đài Loan đến năm 2021 thì về nước nhưng chỉ gia đình nhà chồng được một
ngày rồi về nhà bố mẹ đở, vợ chồng sống ly thân nhiều năm nên tình cảm lạnh
nhạt không còn, nên chị đnghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh
Đặng Đức L.
Về con chung: Vợ chồng 02 con chung Đặng Thị Anh T1, sinh ngày
19/6/2010 Đặng Đức D, sinh ngày 27/8/2013, hiện con Đặng Thị Anh T1 đang
với chị, con Đặng Đức D đang với nội Nguyễn Thị M. Chị đề nghị
mỗi người nuôi một con, chị nuôi con Đặng Thị Anh T1, anh L nuôi con Đặng Đức
D cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi), không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi
con chung cho nhau. Trong thời gian anh L đang lao động nước ngoài, chị nhất
trí để con Đặng Đức D ở với bà M.
Về tài sản chung nợ chung: Chị xác định vợ chồng không nên không
yêu cầu Tòa án giải quyết.
Vì bận công việc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Do chị T không cung cấp được địa chỉ của anh L nên Tòa án đã tiến hành
xác minh tại gia đình anh L. Nguyễn Thị M (là mẹ đẻ anh L) trình bày:
không biết địa chỉ cụ thcủa anh L nước ngoài nên không cung cấp cho Tòa án
được. Tuy nhiên anh L vẫn liên lạc với qua điện thoại, đồng ý nhận văn bản
tố tụng của Tòa án đã thông báo cho anh L biết, thông qua gia đình anh L trình
bày vợ chồng không sống được với nhau, chT muốn giải quyết như thế nào thì
giải quyết, anh không biện pháp đhàn gắn tình cảm vợ chồng. Anh L xác
định vợ chồng 02 con chung nchị T trình bày đúng, anh đồng ý với quan
điểm của chị T mỗi người nuôi một con, anh nuôi con Đặng Đức D, để chị T nuôi
con Đặng Thị Anh T1 cho đến khi các con đủ 18 tuổi, không ai phải cấp dưỡng
tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian không mặt Việt Nam, anh để
cháu Đặng Đức D cho M chăm sóc cho đến khi anh v nước, anh trách
nhiệm gửi tiền về để bà M nuôi dưỡng cháu D. Tài sản chung anh không yêu cầu
Tòa án giải quyết, ngoài ra, M nhất trí trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng
cháu D cho đến khi anh L về nước và không có yêu cầu gì.
Con chung của chị T anh L cháu Đặng Thị Anh T1 nguyện vọng
được ở với chT, cháu Đặng Đức D có nguyện vọng được ở với anh L và bà M.
Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị T, anh L đăng ký kết hôn
và sinh sống thể hiện: Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống tại địa phương được một
thời gian ngắn thì anh L đi lao động nước ngoài đến nay chưa về nước, chị T
cũng đi lao động nước ngoài khi về nước đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở, không
sống tại gia đình anh L, vợ chồng chủ yếu sống xa cách mỗi người một nơi. Nay
chị T đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên
đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56; 81;
82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu án phí, lệ pTòa án. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi
kiện xử cho chị Phạm Thị T ly n anh Đặng Đức L. Về con chung: Giao con
chung Đặng Thị Anh T1 cho chị T chăm sóc, nuôi dưỡng, giao con chung Đặng
Đức D cho anh L chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ 18 tuổi, không ai
phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao cháu Đặng Đức D cho
Nguyễn Thị M chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh L không mặt tại Việt
Nam. Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị T hiện đang sinh sống tại đội 12
thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương, bị đơn anh Đặng Đức L nơi trú cuối
cùng trước khi xuất cảnh tại thôn L, H, huyện N, tỉnh Hải Dương, hiện anh L
đang lao động tại Singapore. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải
quyết đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T không cung cấp
được địa chỉ cụ thể của anh L.
Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình anh L cung cấp địa chỉ nhưng gia đình
không cung cấp được. Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho M mẹ đẻ
anh L để thông báo về việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị T anh
L đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Bà
Nguyễn Thị M vẫn liên lạc với anh L đã thông báo việc Tòa án đang giải quyết
vụ án ly hôn giữa M anh L, tại phiên tòa các đương sự vắng mặt đều
quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228, Điều 238
Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự
theo quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Đặng Đức L kết hôn trên
stự nguyện, đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện N, tỉnh Hải
Dương vào ngày 16/11/2009 hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống v
chồng đến năm 2010 thì anh L đi lao động tại rập út, năm 2013 anh sang lao
động tại Đài Loan, năm 2014 anh tiếp tục đi lao động tại Singapore đến nay chưa
về nước. Chị T cũng thời gian đi lao động tại Đài Loan tnăm 2018 đến năm
2021 thì về nước, khi về nước chị T về nhà chồng được một ngày rồi về nhà bố mẹ
đẻ ở. Từ khi anh L đi lao động nước ngoài vợ chồng chủ yếu sống xa cách mỗi
người một nơi nên không sự gắn , chia sẻ nghi ngờ lẫn nhau, chị T nhiều
lần khuyên bảo và mong muốn hàn gắn tình cảm gia đình nhưng không có kết quả,
từ đó vợ chồng không liên lạc không quan tâm đến nhau. Chị T xác định tình
cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L.
Thông qua gia đình anh L xác định anh không biện pháp nào để hàn gắn tình
cảm vợ chồng bởi anh vẫn đang lao động nước ngoài chưa về nước. Vợ chồng
không sống được với nhau, chị T muốn giải quyết thế nào thì giải quyết, anh không
thể hiện quan điểm của mình cũng không mong muốn vợ chồng về đoàn tụ.
Trên thực tế vợ chồng sống ly thân từ lâu, không liên lạc không quan tâm đến
nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T anh L đã trầm trọng,
mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xcần chấp nhận yêu
cầu khởi kiện, xử cho chị T ly hôn anh L là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56
Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về quan hcon chung: Chị Phạm Thị T anh Đặng Đức L 02 con
chung Đặng Thị Anh T1, sinh ngày 19/6/2010 và Đặng Đức D, sinh ngày
27/8/2013, hiện con Đặng Thị Anh T1 đang với chị T, con Đặng Đức D đang
với bà M. Chị T anh L cùng thống nhất mỗi người nuôi một con, chị T chăm
sóc, nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Anh T1, anh L chăm sóc nuôi dưỡng con
chung Đặng Đức D cho đến khi các con tròn 18 tuổi. ChT anh L cùng nhất trí
để M chăm sóc, nuôi dưỡng con Đặng Đức D cho đến khi anh L về nước, M
cũng nhất trí trách nhiệm chăm sóc cháu D thay anh L. Hội đồng xét xxét
thấy, thỏa thuận của các đương sự phù hợp với thực tế, phù hợp với quy định của
pháp luật không trái đạo đức hội. Do vậy, cần chấp nhận thỏa thuận của anh
chị giao con chung Đặng Thị Anh T1 cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng,
giao con chung Đặng Đức D cho anh L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi
các con đủ 18 tuổi, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm
giao cháu Đặng Đức D cho Nguyễn Thị M chăm c, nuôi dưỡng cho đến khi
anh L có mặt tại Việt Nam.
[2.3] Về tài sản chung nợ chung: Chị T, anh L cùng xác định không yêu
cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[3]. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự thẩm về Hôn nhân
gia đình theo quy định của pháp luật.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ
luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T,
xử cho chị Phạm Thị T ly hôn anh Đặng Đức L.
2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Phạm Thị T được nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục con chung Đặng Thị Anh T1, sinh ngày 19/6/2010; Giao cho anh
Đặng Đức L được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Đặng Đức D, sinh
ngày 27/8/2013 cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi), không ai phải cấp
dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Đặng Đức D cho
Nguyễn Thị M chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh L không mặt tại Việt
Nam.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm
nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án
phí dân sthẩm về Hôn nhân gia đình được đối trừ số tiền tạm ứng án phí
300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp, theo biên lai thu số AA/2021/0000814
ngày 26 tháng 6 năm 2024 tại Cục thi hành án dân stỉnh Hải Dương. Chị T đã
nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị T Nguyễn Thị M được quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, anh Đặng Đức L được quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết theo quy định của pháp luật./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- Cục THADS tỉnh Hải Dương;
- UBND Hiệp Cát, huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương;
- Lưu hồ sơ, VP, Tòa GĐ&NCTN.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Xuân Trường
Tải về
Bản án số 337/2024/HNGĐ-ST Bản án số 337/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 337/2024/HNGĐ-ST Bản án số 337/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất