Bản án số 323/2024/DS-PT ngày 10/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 323/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 323/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 323/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 323/2024/DS-PT ngày 10/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 323/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Hữu Đ yêu cầu Nguyễn Thị Kim H phải trả lại đất lấn chiếm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐĂK LĂK
Bản án số: 34/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 19/11/2024.
V/v: “Tranh chấp hôn nhân gia
đình”.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thanh Huyền.
Các Thẩm phán: Ông Võ Thanh Hà.
Bà Nguyễn Thị Hằng.
- Thư ký phiên toà: Bà Khổng Thị Hoa – Thư ký Toà án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà
Lương Thị Diệu Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 11 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk mở phiên
tòa xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 26/2024/HNGĐ-PT ngày
07/10/2024 về việc “Ttranh chấp hôn nhân và gia đình”. Do bản án hôn nhân và gia
đình sơ thẩm số: 118/2024/HNGĐ – ST ngày 15/7/2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 28/QĐXX-PT ngày 30/10/2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu Đ; sinh năm 1986; trú tại: Thôn D, xã E,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Hữu Đ: Luật sư
Nguyễn Khắc D, Công ty L2 Chi nhánh B1, Đoàn luật sư thành phố H; địa chỉ: Số
D N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
* Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1984; trú tại: Số A đường Đ, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Mỹ H: Bà Huỳnh Lê Thị
Diệu T, sinh năm 1996; trú tại: Số A đường H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Vợ chồng ông Nguyễn Hữu Đ1, sinh năm 1958, bà Phạm Thị T1, sinh năm
1957; cùng địa chỉ: Thôn D, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; đều vắng mặt.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ1, bà T1: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm
1990; trú tại: Thôn D, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
2. Bà Nguyễn Thị Mỹ V, sinh năm 1982; trú tại: Số A đường Đ, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
3. Bà Nguyễn Thị Mỹ D1, sinh năm 1975; trú tại: Số D đường Đ, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
4. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1988; trú tại: Số F đường N, thị trấn K, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
* Người làm chứng:
1. Ông Phạm Viết B, sinh năm1970; trú tại: Thôn D, xã E, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk.
2.Bà Phạm Thị T2, sinh năm 1959; trú tại: Thôn D, xã E, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk.
3. Bà Phạm Thị S, sinh năm 1964; trú tại: Tổ dân phố B, phường T, thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk.
4. Ông Nguyễn Hữu Đ2, sinh năm 1994; trú tại: Thôn D, xã E, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk.
Tất cả đều vắng mặt
Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Đ, bị đơn bà Nguyễn Thị
Mỹ H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 01/12/2023, quá trình làm việc tại Toà án và
tại phiên toà, nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Đ trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông Đ và bà H tự nguyện chung sống với nhau có tổ
chức cưới theo phong tục tập quán, có đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ngày 18/8/2014. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc
nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do bất đồng quan điểm sống, tính
cách không hòa hợp, thường xuyên xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn đã được hai bên gia
đình hòa giải nhiều lần nhưng không cải thiện được tình cảm vợ chồng. Chúng tôi
sống ly thân được 1 năm. Nay ông Đ nhận thấy không còn tình cảm với bà H, mâu
thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, kéo dài nên ông Đ đề nghị Tòa án giải quyết cho ông
Đ được ly hôn với bà H.
Về con chung: Có hai con chung: Nguyễn Hữu T3, sinh ngày 29/9/2014,
Nguyễn Hữu T4, sinh ngày 18/8/2017. Hiện nay, các cháu đang ở với bà H. Ông Đ
có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến tuổi
trưởng thành và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay ông Đ
đang làm tại Công ty TNHH X; địa chỉ: 5 Đ, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, thu nhập
3
trung bình 6.000.000đồng/tháng. Ngoài ra, còn có thu nhập từ việc thu hoạch nông
sản như tiêu, cà phê trên thửa đất rẫy ở xã H khoảng 70.000.000 đồng/ năm.
Về tài sản chung: 01 căn nhà cấp IV, xây dựng năm 2022, được xây dựng
trên thửa đất số 99 (c 317), tờ bản đồ 30 (c 33) theo Giấy chứng chứng nhận quyền
sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DĐ 322099 do
Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/03/2022 mang tên hộ bà Phạm Thị T1,
địa chỉ thửa đất: Xã E, thành phố B. Nguyện vọng của ông Đ chia đôi giá trị căn nhà,
giao căn nhà cho ông Đ1, bà T1 trực tiếp quản lý, sử dụng và ông Đ1, bà T1 hoàn
tiền lại cho ông Đ, bà H. Ngoài ra ông Đ xác định vợ chồng không có tài sản chung
nào khác.
Về tài sản riêng: Thửa đất số 47, 48; tờ bản đồ số 16, diện tích 4.730m
2
, địa
chỉ đất tại xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 206671 do Ủy ban
nhân dân thành phố B cấp ngày 12/9/2013 cho hộ bà Phạm Thị T1, ông Nguyễn Hữu
Đ1, ghi nhận biến động tặng cho ông Nguyễn Hữu Đ ngày 18/3/2021. Ông Đ xác
định do hộ ông Nguyễn Hữu Đ1, bà Phạm Thị T1 tặng cho riêng ông Đ vào tháng
3/2021. Ông Đ không đồng ý với ý kiến của bà H cho rằng đây là tài sản chung và
không đồng ý chia.
Về nợ chung: Ông Đ xác định vợ chồng có các khoản nợ chung sau:
1. Nợ Quỹ tín dụng nhân dân xã H 60.000.000đồng gốc, mục đích vay để chăn
nuôi bò. Ngày 12/3/2024, ông Đ đã trả cho Quỹ tín dụng nhân dân xã H tổng cả gốc
và lãi là 61.762.200 đồng (Trong đó gốc là 60.000.000 đồng và tiền lãi là 1.762.200
đồng). Ông Đ yêu cầu chia mỗi người phải trả ½ số tiền nợ này.
2. Nợ bà Nguyễn Thị Mỹ V 300.000.000đồng gốc, mục đích vay để xây nhà
năm 2022. Việc bà V cho rằng ông Đ và bà H vay và còn nợ bà V 330.000.000 đồng
thì ông Đ không đồng ý. Ông Đ yêu cầu chia mỗi người ½ số tiền nợ này, ông Đ có
trách nhiệm trả 150.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Mỹ V.
3. Nợ bà Nguyễn Thị L1 100.000.000 đồng, mục đích vay để xây nhà. Ông Đ
đề nghị Tòa án chia mỗi người ½ số tiền nợ này.
Nợ riêng: Bà H cho rằng ông Đ và bà H nợ bà Nguyễn Thị Mỹ D1
100.000.000đồng, đã trả được 50.000.000đồng, còn nợ lại 50.000.000đồng thì ông
Đ xác định không nợ bà D1, còn việc bà H có vay riêng thì ông Đ không biết và
không đồng ý trả số tiền này cho bà D1.
Đối với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 06/3/2024 và định giá tài sản
ngày 14/3/2024 thì ông Đ đồng ý và không có ý kiến gì.
*Bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Như trình bày của ông Đ về đăng ký kết hôn, mâu
thuẫn, con chung là đúng. Nay bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng
4
ý ly hôn.
Về con chung: Bà H có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung, vì ông Đ
không quan tâm, chăm sóc các con chung. Bà H không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng
nuôi con chung. Hiện nay bà H đang buôn bán tại chợ L3 thành phố B, thu nhập
trung bình khoảng 9 triệu đồng/1 tháng.
Về tài sản chung của vợ chồng:
1.Thửa đất số 48, tờ bản đồ số 16, diện tích 2.230m
2
, tọa lạc tại xã H, thành
phố B. Nguồn gốc do ông Nguyễn Hữu Đ1, bà Phạm Thị T1 là bố mẹ của ông Đ cho
tặng vợ chồng bà H, ông Đ từ năm 2014, việc cho đất chỉ nói miệng, không đăng ký
cho tặng theo thủ tục quy định của pháp luật.
2. Thửa đất số 47, tờ bản đồ 16, diện tích 2.500m
2
tọa lạc tại xã H, thành phố
B. Nguồn gốc: Do ông Nguyễn Hữu Đ1, bà Phạm Thị T1 (bố mẹ đẻ của ông Nguyễn
Hữu Đ) chuyển nhượng cho vợ chồng bà H năm 2014 với giá 200.000.000 đồng,
việc chuyển nhượng không viết giấy tờ, không làm thủ tục sang tên theo quy định
của pháp luật; Nguồn tiền để mua đất từ 100.000.000 đồng vay của bà Nguyễn Thị
Mỹ D1 chị gái ruột của bà H, 100.000.000 đồng ông Đ vay Ngân hàng, vay ngân
hàng nào thì bà H không nhớ rõ, chỉ nhớ nằm ở chợ E, thành phố B. Bà H nghe ông
Đ nói là khoản vay 100.000.000 đồng này dùng 2 thửa đất rẫy 47, 48 để thế chấp.
Ông Đ đưa 200.000.000đ giao trực tiếp cho bà T1, khi giao tiền không viết giấy nhận
tiền cng không có ai làm chứng. Lý do ông Đ1, bà T1 chuyển nhượng thửa đất 47
cho vợ chồng bà H vì thời điểm năm 2014 ông Đ1, bà T1 cần tiền lo công việc cho
ông Nguyễn Hữu Đ2.
Tại thời điểm nhận chuyển nhượng và nhận tặng cho đất thì chưa làm thủ tục
sang tên ngay vì bà T1 nói là chưa làm được giấy tờ. Đến năm 2021, ông Đ1 bà T1
nói làm thủ tục tặng cho riêng ông Đ vì như vậy sẽ không mất tiền thuế, bà H có
phản đối nhưng bố mẹ ông Đ vẫn tự ý đi làm.
Do bà H buôn bán trên chợ phố nên không thể thường xuyên trực tiếp canh tác
trên đất rẫy. Từ năm 2014 đến năm 2019 bà H đưa tiền cho ông Đ mua phân bón
cho cây, mua cây trồng, tiền tưới rẫy mỗi năm khoảng 11.500.000 đồng. Từ năm
2020, thì có nguồn thu từ thu hoạch cà phê, tiêu nên bà H cng bớt tiền đưa ông Đ,
thay vào đó là tiết kiệm tiền để xây nhà.
Bà H yêu cầu chia đôi mỗi người nhận một thửa đất, nguyện vọng của bà H
muốn nhận thửa đất số 47 và giao lại cho ông Đ thửa đất số 48, ai nhận thửa đất nào
có giá trị cao hơn thì bù chênh lệch cho người kia.
3. 01 căn nhà cấp 4, tại địa chỉ số A thôn D, xã E, thành phố B nằm trên thửa
đất số 99 (c 317), tờ bản đồ 30 (c 33) theo Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng
đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DĐ 322099 do Sở tài
nguyên môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/03/2022 mang tên hộ bà Phạm Thị T1. Căn
nhà này xây và hoàn thành trong năm 2022, khi xây có được sự đồng ý của bố mẹ
5
ông Đ. Bà H yêu cầu chia đôi giá trị, bà H nhận tiền và giao căn nhà trên cho bà T1,
ông Đ1 trực tiếp quản lý, sử dụng.
Về nợ chung: Vợ chồng có các khoản nợ chung sau:
1. Nợ bà Nguyễn Thị Mỹ V 330.000.000đồng, vay năm 2021, mục đích vay để
xây dựng nhà ở. Khi vay không viết giấy, không thỏa thuận lãi suất, không hẹn thời
gian trả nợ, chỉ nói miệng khi nào có sẽ trả. Ông Đ trực tiếp nhận tiền ba lần, mỗi
lần nhận 100.000.000 đồng, còn 30.000.000 đồng thì bà H trực tiếp nhận. Đến năm
2023, bà H, ông Đ xích mích nên chị V có yêu cầu ông Đ viết giấy nhận nợ thì ông
Đ mới viết giấy nhận nợ số tiền 300.000.000 đồng ngày 23/6/2023, hẹn 1 năm sẽ trả,
còn 30.000.000 đồng thì ông Đ không chịu nhận nợ. Bà H đề nghị chia đôi khoản
nợ này, mỗi người chịu trách nhiệm trả 165.000.000 đồng cho bà V.
2. Nợ bà Nguyễn Thị Mỹ D1 100.000.000đồng, vay năm 2014, mục đích vay
để nhận chuyển nhượng thửa đất 47. Khi vay không viết giấy, không thỏa thuận lãi
suất, không hẹn thời gian trả nợ. Bà H đã trả được 50.000.000 đồng cho bà D1, còn
nợ bà D1 50.000.000 đồng. Bà H đề nghị chia đôi khoản nợ này, mỗi người chịu
trách nhiệm trả 25.000.000 đông cho bà D1.
3. Nợ Quỹ tín dụng nhân dân Hòa Khánh 60.000.000đồng gốc, mục đích vay
để trả nợ cho ông Đ chứ không phải là chăn nuôi bò. Nay ông Đ đã 61.762.200 đồng
(Trong đó, gốc 60.000.000 đồng, tiền lãi 1.762.200 đồng) thì bà H đồng ý hoàn trả
lại cho ông Đ ½ số tiền mà ông Đ đã trả cho Q tín dụng nhân dân xã H nếu bà H
được chia tài sản này, còn nếu bà H không được chia tài sản này thì bà H không
đồng ý trả ½ khoản nợ mà ông Đ đã trả cho Quỹ tín dụng nhân dân xã H.
Đối với việc ông Đ khai nợ chung bà Nguyễn Thị L1 100.000.000 đồng thì bà
H không biết, không nhận tiền và không đồng ý trả cho bà L1.
Bà Hòa đồng Ý với kết quả xem xét thẩm định ngày 06/3/2024 và kết quả định
giá ngày 14/3/2024.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Mỹ D1 trình bày:
Bà D1 là chị gái ruột của bà H. Cuối năm 2014, ông Đ, bà H có vay bà D1
100.000.000 đồng mục đích để mua đất rẫy làm ăn, vì là chị em với nhau nên khi
vay không viết giấy vay nợ cng không thỏa thuận lãi suất và có thỏa thuận là khi
nào có tiền sẽ trả lại số tiền này cho bà D1. Ông Đ là người trực tiếp nhận tiền tại
chợ, không có người làm chứng. Đến khoảng đến năm 2020 thì bà H và ông Đ đã
trả cho bà D1 50.000.000 đồng, bà H là người trực tiếp trả tiền cho bà D1, còn
50.000.000 đồng còn lại tới nay vẫn chưa trả. Nay vợ chồng bà H ông Đ ly hôn thì
bà D1 yêu cầu bà H, ông Đ phải trả cho bà D1 50.000.000 đồng còn lại và không
yêu cầu tính lãi.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Mỹ V trình bày:
Bà V là chị ruột của bà H. Bà H, ông Đ có vay bà V 330.000.000 đồng từ năm
2022, mục đích vay để xây dựng nhà ở. Khi vay không viết giấy, không thỏa thuận
lãi suất, không hẹn thời gian trả nợ, chỉ nói miệng khi nào có sẽ trả. Đến năm 2023,
6
bà V yêu cầu ông Đ phải viết giấy nhận nợ ngày 23/6/2023, hẹn 1 năm sẽ trả, trong
giấy ông Đ chỉ đồng ý ghi là nợ bà V 300.000.000 đồng. Tại phiên toà, bà V yêu cầu
bà H, ông Đ phải trả số tiền còn nợ 300.000.000 đồng và yêu cầu trả tiền lãi
4,5%/năm kể từ ngày ghi giấy vay ngày 23/6/2023 cho đến nay.
* Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Hữu Đ1, bà Phạm Thị T1 là bà Nguyễn Thị L trình bày:
Quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 206671, thửa đất số 47, 48, tờ bản đồ số 16
do Ủy ban nhân dân Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cấp ngày 12/09/2013 mang tên hộ
bà Phạm Thị T1 và ông Nguyễn Hữu Đ1. Đến ngày 18/03/2021, hộ ông Đ1, bà T1
tặng cho riêng Quyền sử dụng đất này cho ông Nguyễn Hữu Đ. Ông Đ1, bà T1 xác
định lô đất này chỉ tặng riêng cho một mình ông Nguyễn Hữu Đ toàn bộ diện tích
4.730m
2
, không có việc tặng cho bà H và ông Đ thửa đất số 47, diện tích 2.500m
2
và cng không có việc bà T1, ông Đ1 chuyển nhượng cho bà H, ông Đ thửa đất số
48, diện tích 2.230m
2
, tọa lạc tại xã H, thành phố B
Vào năm 2022, bà T1 và ông Đ1 có cho vợ chồng ông Đ và bà H xây dựng nhờ
01 căn nhà cấp 4, khoảng 100m
2
trên diện tích đất 1.160m
2
, thửa đất số 99 (c 317),
tờ bản đồ 30 (c 33) theo Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DĐ 322099 do Sở tài nguyên môi trường
tỉnh Đ cấp ngày 09/03/2022. Ông Đ1, bà T1 xác định chỉ cho ông Đ, bà H xây nhờ
nhà ở trên đất còn ông bà xác định không cho tặng đất để làm nhà. Ông Đ1, bà T1
đồng ý nhận trực tiếp quản lý, sử dụng và sở hữu ngôi nhà đồng thời có trách nhiệm
thanh toán giá trị ngôi nhà cho ông Đ, bà H.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L1 trình bày:
Bà L1 là em gái ruột của ông Nguyễn Hữu Đ. Ngày 01/6/2022, bà L1 có chuyển
khoản cho ông Đ vay 100.000.000 đồng để vợ chồng ông Đ xây nhà. Vì là anh em
trong nhà nên không viết giấy vay, không thỏa thuận lãi suất, chỉ thỏa thuận miệng
khi nào có thì trả. Nay bà H ông Đ ly hôn thì bà L1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau này có nhu cầu thì bà L1 sẽ làm đơn yêu cầu sau.
* Người làm chứng ông Phạm Viết B trình bày:
Ông B là em trai ruột của bà Phạm Thị T1. Năm 2016, bà T1 có sang nhà ông
B chơi và nói chuyện là bà T1, ông Đ1 có bán một thửa đất rẫy 2.500m
2
tại thôn B,
xã H, thành phố B cho vợ chồng bà H, ông Đ với giá 250.000.000 đồng. Đối với
thửa đất rẫy này thì ông B chứng kiến bà T1, ông Đ1 là người trực tiếp quản lý, canh
tác, chăm sóc cây trồng. Việc mua bán đất giữa bà T1, ông Đ1 và bà H, ông Đ thì
ông B chỉ nghe nói như thế chứ không chứng kiến việc giao tiền giữa các bên.
* Người làm chứng bà Phạm Thị T2 trình bày:
Bà T2 là em gái ruột của bà Phạm Thị T1. Năm 2016, bà T2 nghe bà T1, ông
7
Đ1 có bán một thửa đất rẫy 2.500m
2
tại thôn B, xã H, thành phố B cho vợ chồng bà
H, ông Đ với giá 250.000.000 đồng. Đối với thửa đất rẫy này thì bà T2 chứng kiến
bà T1, ông Đ1 là người trực tiếp quản lý, canh tác, chăm sóc cây trồng. Việc mua
bán đất giữa bà T1, ông Đ1 và bà H, ông Đ thì bà T2 chỉ nghe nói như thế chứ không
chứng kiến việc giao tiền giữa các bên.
* Người làm chứng ông Nguyễn Hữu Đ2 trình bày:
Ông Đ2 là em trai ruột của ông Nguyễn Hữu Đ. Sau khi kết hôn ông Đ, bà H
ở chung với gia đình chồng. Việc bà H cho rằng ông Đ1, bà T1 tặng cho vợ chồng
ông Đ, bà H thửa đất số 47 và chuyển nhượng thủa đất số 48, tờ bản đồ 16, địa chỉ
xã H, thành phố B là không đúng. Gia đình ông Đ2 chỉ tặng cho riêng con ruột, chứ
không tặng cho con dâu, con rể. Nay ông Đ, bà H ly hôn, thì không liên quan gì đến
ông Đ2, không có yêu cầu gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật
Tại Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 118/2024/HNGĐ–ST ngày
15/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết
định:
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản
4 Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 220; Điều 266; Điều 271; Điều 273
Bộ luật tố tụng Dân sự.
Căn cứ Điều 29, Điều 33, Điều 43, Điều 56, Điều 59, Điều 60, Điều 62, Điều
81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Điều 213, Điều 219, Điều 357, Điều 457, Điều 459, Điều 466; Điều
468, Điều 500, Điều 502, Điều 503 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 167, Điều 188 Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Đ.
Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hữu Đ được ly hôn với bà Nguyễn Thị
Mỹ H.
Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hữu T3, sinh ngày 29/9/2014 cho bà
Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành (18 tuổi).
Giao cháu Nguyễn Hữu T4, sinh ngày 18/8/2017 cho ông Nguyễn Hữu Đ trực
tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành (18 tuổi).
Ông Nguyễn Hữu Đ và bà Nguyễn Thị Mỹ H có quyền thăm nom, chăm sóc
8
con chung, không ai được cản trở.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu của bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H:
Về tài sản chung: Tài sản chung của ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị Mỹ
H là 01 căn nhà cấp IV, xây dựng năm 2022, móng xây đá hộc, tường xây gạch có
sơn nước, có bả ma tít, mái lợp tôn thiếc, trần thạch cao, nền gạch Ceramic 60x60,
cửa đi cửa sổ bằng gỗ, nhà có xê nô mặt đứng, diện tích 5,2mx25,7m=133,64m
2
;
mái hiên (mái che) khung sắt, mái lợp tôn thiếc, nền bê tông xi măng; 02 trụ cổng
xây gạch 40x40; hàng rào khung sắt 6m dài, tường xây gạch cao 50, song sắt bình
quân 3m. Nhà được xây dựng trên thửa đất số 99 (c 317), tờ bản đồ 30 (c 33) theo
Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số DĐ 322099 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/03/2022
mang tên hộ bà Phạm Thị T1, địa chỉ thửa đất: Xã E, thành phố B. Giao cho bà Phạm
Thị T1, ông Nguyễn Hữu Đ1 được quyền sở hữu, quản lý, sử dụng, định đoạt 01 căn
nhà cấp 4 có đặc điểm, vị trí như trên. Bà Phạm Thị T1, ông Nguyễn Hữu Đ1 có
nghĩa vụ thanh toán cho ông Nguyễn Hữu Đ và bà bà Nguyễn Thị Mỹ H mỗi người
290.567.500 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mỹ H về việc chia thửa đất số
47, tờ bản đồ 16, diện tích 2.500m
2
; Thửa đất số 48, tờ bản đồ số 16, diện tích
2.230m
2
, địa chỉ hai thửa đất tại xã E, thành phố B theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 206671 do Ủy
ban nhân dân thành phố B cấp ngày 12/9/2013 cho hộ bà Phạm Thị T1 và ông
Nguyễn Hữu Đ1, ghi nhận biến động tặng cho ông Nguyễn Hữu Đ ngày 18/3/2021.
Ông Nguyễn Hữu Đ có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Mỹ H số tiền
106.417.840 đồng tiền công sức đóng góp.
Về nợ chung:
Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Mỹ V. Buộc bà Nguyễn Thị
Mỹ H và ông Nguyễn Hữu Đ mỗi người phải có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị
Mỹ V 152.043.750 đồng.
Bà Nguyễn Thị Mỹ H có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Hữu Đ
30.881.100 đồng là ½ số tiền ông Đ đã trả cho Q tín dụng nhân dân Hoà Khánh.
Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Mỹ D1. Buộc bà
Nguyễn Thị Mỹ H có trách nhiệm phải trả cho bà Nguyễn Thị Mỹ D1 số tiền
50.000.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân
sự 2015.
9
Án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo theo quy
định.
Ngày 29/7/2024, bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H kháng cáo một phần bản án số
118/2024/HNGĐ-ST ngày 15 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Đ kháng cáo đề nghị
cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án số 118/2024/HNGĐ-ST ngày 15/7/2024 xác
định lại công sức đóng góp của bà Nguyễn Thị Mỹ H về việc duy trì canh tác thửa
đất và giá trị tài sản trên đất đối với thửa đất số 47, 48, tờ bản đồ số 16 tại xã E,
thành phố B.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và tự nguyện
rút kháng cáo. Bị đơn bổ sung thêm nội dung kháng cáo yêu cầu sửa phần án phí
DSST.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của
nguyên đơn, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa bản án hôn nhân gia
đình sơ thẩm số 118/2024/HNGĐ ngày 15/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên toà và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn làm trong hạn luật định và đã
nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên được xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Đ tự nguyện rút yêu cầu kháng cáo. Do đó,
HĐXX cần đình chỉ kháng cáo của nguyên đơn.
[2] Về nội dung.
[2.1] Xét nội dung đơn kháng cáo của bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc,
nuôi dưỡng cả hai con chung thấy:
Ông Đ, bà H có hai con chung là cháu Nguyễn Hữu T3, sinh ngày 29/9/2014
và cháu Nguyễn Hữu T4, sinh ngày 18/8/2017. Ông Đ, bà H đều có nguyện vọng
được nuôi cả hai con chung và không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện
nay ông Đ đang làm tại Công ty TNHH X thu nhập trung bình 6.000.000đồng/tháng.
Ngoài ra còn có thu nhập từ việc thu hoạch nông sản như hạt tiêu, cà phê trên thửa
đất rẫy ở xã H khoảng 70.000.000 đồng/năm, bà H buôn bán ở chợ T5 khoảng
9.000.000 đồng/ tháng. Cả ông Đ, bà H đều có nghề nghiệp, có thu nhập ổn định, đủ
10
khả năng nuôi dưỡng con. Cháu Nguyễn Hữu T3, sinh ngày 29/9/2014 có nguyện
vọng muốn được ở với mẹ. Tòa án cấp sơ thẩm giao cháu Nguyễn Hữu T3, sinh ngày
29/9/2014 cho cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến
tuổi trưởng thành và giao cháu Nguyễn Hữu T4, sinh ngày 18/8/2017 cho ông Đ trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành là phù hợp.
[2.2] Xét kháng cáo của bà H về yêu cầu chia tài sản chung thấy:
Đối với căn nhà cấp IV, xây dựng năm 2022, móng xây đá hộc, tường xây
gạch có sơn nước, có bả ma tít, mái lợp tôn thiếc, trần thạch cao, nền gạch Ceramic
60x60, cửa đi cửa sổ bằng gỗ, nhà có xê nô mặt đứng, diện tích
5,2mx25,7m=133,64m
2
có giá trị còn lại là 515.834.000 đồng; mái hiên (mái che)
khung sắt, mái lợp tôn thiếc, nền bê tông xi măng giá trị còn lại 45.314.000 đồng;
02 trụ cổng xây gạch 40x40 giá trị là 3.988.000 đồng; hàng rào khung sắt 6m dài,
tường xây gạch cao 50, song sắt bình quân 3m giá trị là 15.999.000 đồng; tổng giá
trị là 581.135.000 đồng. Nhà được xây dựng trên thửa đất số 99 (c 317), tờ bản đồ
30 (c 33) theo Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số DĐ 322099 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đ cấp
ngày 09/03/2022 mang tên hộ bà Phạm Thị T1, địa chỉ thửa đất: Xã E, thành phố B.
Bà H, ông Đ xác định căn nhà là tài sản chung của vợ chồng, thống nhất chia đôi
gía trị tài sản mỗi người ½ đồng thời giao căn nhà cho bà T1, ông Đ1 sở hữu, sử
dụng. Ông Đ1, bà T1 thanh toán giá trị nhà cho ông Đ, bà H và được bà T1, ông Đ1
đồng ý. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm giao cho ông Đ1, bà T1 được quyền sở hữu, quản
lý, sử dụng căn nhà và buộc ông T1, bà Đ1 có nghĩa vụ thanh toán giá trị căn nhà
cho ông Đ, bà H mỗi người nhận ½ giá trị tương đương số tiền 290.567.500 đồng là
phù hợp.
- Xét thửa đất 47, 48, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại xã E, thành phố B theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số BP 206671 do Ủy ban nhân dân thành phố B cấp ngày 12/9/2013 cho hộ bà Phạm
Thị T1 và ông Nguyễn Hữu Đ1, ghi nhận biến động tặng cho ông Nguyễn Hữu Đ
ngày 18/3/2021. Thấy rằng: bà H cho rằng thửa đất số 48, được bố mẹ chồng bà T1,
ông Đ1 tặng cho chung vợ chồng bà H, ông Đ. Thửa đất số 47, bà H cho rằng năm
2014 vợ chồng bà H, ông Đ nhận chuyển nhượng từ bà T1, ông Đ1 với giá
200.000.000 đồng. Tuy nhiên, H1 không có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lời
khai nại của mình, không được bà T1, ông Đ1, ông Đ thừa nhận, ngoài ra ông bà T1,
ông Đ1 xác nhận chỉ tặng cho riêng ông Đ cả hai thửa đất trên. Những người làm
chứng ông Phạm Viết B, bà Phạm Thị T2, bà Phạm Thị S trình bày là có nghe bà
Phạm Thị T1 nói chuyện về việc có chuyển nhượng một thửa đất rẫy diện tích
2.500m
2
ở xã H, thành phố B với giá 250.000.000 đồng cho vợ chồng bà H, ông Đ
năm 2014. Tuy nhiên các ông bà Phạm Viết B, Phạm Thị T2, Phạm Thị S cng chỉ
nghe nói chứ không chứng kiến việc chuyển nhượng hay nhận tiền chuyển nhượng.
11
Xét các tài liệu chứng cứ thu thập tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai
thành phố B, cả hai thửa đất 47, 48 đều do hộ bà Phạm Thị T1, ông Nguyễn Hữu Đ1
thực hiện thủ tục tặng cho riêng ông Đ ngày 02/3/2021, hợp đồng tặng cho công
chứng tại Văn phòng C, số công chứng 00136, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD,
được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B ghi nhận biến động ngày
18/3/2021 tại trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tặng cho riêng ông Nguyễn
Hữu Đ. Do đó, không có căn cứ chấp nhận thửa đất số 47, 48 là tài sản chung của
vợ chồng bà H ông Đ, đây là các tài sản riêng của ông Đ.
Mặc dù, không đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh thửa đất số 47, 48 là do ông
Đ, bà H nhận chuyển nhượng, tặng cho chung từ bà T1, ông Đ1. Tuy nhiên, quá
trình chung sống bà H cng có công sức đóng góp vào việc duy trì canh tác, tôn tạo
thửa đất số 47, 48 Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận chia một phần công sức đóng góp
cho bà H và giá trị tài sản trên các thửa đất số 47, 48, theo tỉ lệ 40% giá trị các tài
sản trên đất. Ông Đ phải thanh toán cho bà H 40% giá trị các tài sản trên đất theo
biên bản định giá ngày 14/3/2024 đối với thửa 47 là 74.932.320 đồng, đối với thửa
48 là 31.485.520 đồng cho bà H là phù hợp, có lợi cho bà H.
Từ những nhận định, phân tích trên, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của
bị đơn bà H về phần tài sản chung.
Về quan hệ hôn nhân và công nợ, các bên đương sự không kháng cáo nên
HĐXX không xem xét.
[3] Về án phí,và chi phí tố tụng:
[3.1] Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 4.500.000 đồng đã được bà Nguyễn Thị Mỹ
H nộp theo Phiếu thu số 52 ngày 29/01/2024 và phiếu thu 456 ngày 29/12/2023 của
Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột. Do chấp nhận yêu cầu chia tài sản của
nguyên đơn, bà H và ông Đ phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá
tài sản tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia, cụ thể bà H chịu 1.800.000
đồng, ông Đ chịu 2.700.000 đồng. Ông Nguyễn Hữu Đ phải hoàn trả lại cho bà
Nguyễn Thị mỹ H số tiền 2.700.000 đồng chi phí tố tụng nêu trên.
Bà H đã nộp chi phí thu thập tài liệu chứng cứ tại Chi nhánh văn phòng đăng
ký đất đai thành phố B là 600.000 đồng. Bà H và ông Đ mỗi người phải chịu ½ chi
phí trên. Ông Nguyễn Hữu Đ phải hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Mỹ H số tiền
300.000 đồng.
[3.2] Án phí dân sự sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà H phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm 47.475.000 đồng đối với yêu cầu chia tài sản không được chấp nhận;
buộc ông Nguyễn Hữu Đ chịu 5.320.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với nghĩa
vụ thanh toán công sức đóng góp cho bà H; không tính án phí đối với giá trị phần tài
sản ông Đ được chia là không đúng theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
12
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì vậy, cần chấp nhận một phần kháng cáo của bà H, án phí được tính lại như sau:
+ Bà H được chia ½ giá trị căn nhà cấp IV là 290.567.500đ và 40% giá trị tài
sản trên thửa đất số 47 là 74.932.320đ, thửa đất số 48 là 31.485.520đ. Tổng tài sản
bà H được chia trị giá 396.985.340đ, nên bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương
ứng với giá trị tài sản được chia là 19.849.267đ.
+ Bà H có nghĩa vụ trả nợ: Nợ ông Đ số tiền 30.881.100đ; nợ bà D1 số tiền
50.000.000đ; nợ bà V số tiền 152.043.750đ. Tổng số tiền nợ bà H có nghĩa vụ trả là
232.924.850đ, nên bà H phải chịu án phí đối với nghĩa vụ trả nợ là 11.646.242đ.
Như vậy tổng số tiền án phí dân sự sơ thẩm bà H phải chịu là (19.849.267đ +
11.646.242đ) = 31.495.509đ.
+ Ông Đ phải chịu 300.000 đồng án phí HNGĐ sơ thẩm.
+ Ông Đ được chia ½ giá trị căn nhà cấp IV là 290.567.500đ; 60% giá trị tài
sản trên đất thửa đất số 47, 48 với tổng giá trị là 159.626.700 đồng. Tổng số tài sản
ông Đ được chia là 450.194.200 đồng, nên ông Đ phải chịu án tương ứng với giá trị
tài sản được chia là 22.007.768đ.
+ Ông Đ có nghĩa vụ trả nợ cho bà V số tiền 152.043.750đ, nên ông Đ phải
chịu án phí đối với nghĩa vụ trả nợ là 7.602.187đ. Như vậy tổng số tiền án phí dân
sự sơ thẩm ông Đ phải chịu là (22.007.768đ + 7.602.187đ) = 29.609.955đ.
[3.3 ]Về án phí phúc thẩm: Nguyên đơn ông Đ rút kháng cáo tại phiên tòa phúc
thẩm nên phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm theo quy định tại khoản 4
điều 29 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH, bị đơn bà H được chấp nhận một phần
kháng cáo nên bà H không phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm.
[4]. Ngoài ra, bản án sơ thẩm tuyên buộc ông Đ, bà H đều có nghĩa vụ thanh
toán tiền cho nhau nhưng không tuyên khấu trừ là thiếu sót. Do đó, cần sửa án sơ
thẩm tuyên các bên được khấu trừ nghĩa vụ cho nhau để thuận lợi cho công tác thi
hành án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 khoản 5 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu
Đ và chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H.
Sửa bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 118/2024/HNGĐ – ST ngày
15/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần án
phí và chi phí tố tụng.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu Đ.
13
Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hữu Đ được ly hôn với bà Nguyễn Thị
Mỹ H.
Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hữu T3, sinh ngày 29/9/2014 cho bà
Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành (18 tuổi).
Giao cháu Nguyễn Hữu T4, sinh ngày 18/8/2017 cho ông Nguyễn Hữu Đ trực
tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến tuổi trưởng thành (18 tuổi).
Ông Nguyễn Hữu Đ và bà Nguyễn Thị Mỹ H có quyền thăm nom, chăm sóc
con chung, không ai được cản trở.
Vì lợi ích chính đáng của các con các bên có quyền yêu cầu thay đổi người
trực tiếp nuôn con chung.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu của bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ H:
2.1 Về tài sản chung: Tài sản chung của ông Nguyễn Hữu Đ, bà Nguyễn Thị
Mỹ H là: 01 căn nhà cấp IV, xây dựng năm 2022, móng xây đá hộc, tường xây gạch
có sơn nước, có bả ma tít, mái lợp tôn thiếc, trần thạch cao, nền gạch Ceramic 60x60,
cửa đi cửa sổ bằng gỗ, nhà có xê nô mặt đứng, diện tích 5,2m x 5,7m=133,64m
2
;
mái hiên (mái che) khung sắt, mái lợp tôn thiếc, nền bê tông xi măng; 02 trụ cổng
xây gạch 40x40; hàng rào khung sắt 6m dài, tường xây gạch cao 50, song sắt bình
quân 3m. Nhà được xây dựng trên thửa đất số 99 (c 317), tờ bản đồ 30 (c 33) theo
Giấy chứng chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số DĐ 322099 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đ cấp ngày 09/03/2022
mang tên hộ bà Phạm Thị T1, địa chỉ thửa đất: Xã E, thành phố B. Giao cho bà Phạm
Thị T1, ông Nguyễn Hữu Đ1 được quyền sở hữu, quản lý, sử dụng, định đoạt 01 căn
nhà cấp 4 có đặc điểm, vị trí như trên. Bà Phạm Thị T1, ông Nguyễn Hữu Đ1 có
nghĩa vụ thanh toán cho ông Nguyễn Hữu Đ và bà Nguyễn Thị Mỹ H mỗi người số
tiền 290.567.500 đồng (Hai trăm chín mươi triệu năm trăm sáu mươi bảy nghìn năm
trăm đồng).
2.2 Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mỹ H về việc chia thửa đất
số 47, tờ bản đồ 16, diện tích 2.500m
2
; Thửa đất số 48, tờ bản đồ số 16, diện tích
2.230m
2
, địa chỉ hai thửa đất tại xã E, thành phố B theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BP 206671 do Ủy
ban nhân dân thành phố B cấp ngày 12/9/2013 cho hộ bà Phạm Thị T1 và ông
Nguyễn Hữu Đ1, ghi nhận biến động tặng cho ông Nguyễn Hữu Đ ngày 18/3/2021.
2.3 Buộc ông Nguyễn Hữu Đ có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Mỹ
H số tiền 106.417.840 đồng (Một trăm lẻ sáu triệu bốn trăm mười bảy nghìn tám
trăm bốn mươi đồng) tiền công sức đóng góp tài sản.
3. Về nợ chung:
3.1 Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Mỹ V.
14
Buộc bà Nguyễn Thị Mỹ H và ông Nguyễn Hữu Đ mỗi người phải có trách
nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Mỹ V số tiền 152.043.750 đồng (Một trăm năm mươi
hại triệu đồng không trăm bốn mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng). Đình chỉ
đối với yêu cầu của bà V buộc ông Đ, bà H phải trả số tiền 30.000.000 đồng (Ba
mươi triệu đồng).
3.2 Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Mỹ D1.
Buộc bà Nguyễn Thị Mỹ H có trách nhiệm phải trả cho bà Nguyễn Thị Mỹ
D1 số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
3.3 Buộc bà Nguyễn Thị Mỹ H có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Hữu
Đ số tiền 30.881.100 đồng (Ba mươi triệu tám trăm tám mươi mốt nghìn một trăm
đồng), là ½ số tiền ông Đ đã trả cho Q tín dụng nhân dân Hoà Khánh. Ông Đ được
khấu trừ vào số tiền 106.417.840 đồng (Một trăm lẻ sáu triệu bốn trăm mười bảy
nghìn tám trăm bốn mươi đồng) tiền công sức đóng góp tài sản phải thanh toán cho
bà H. Ông Đ còn phải thanh toán cho bà H 75.536.740đồng (Bảy mươi lăm triệu
năm trăm ba mươi sáu nghìn bảy trăm bốn mươi đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân
sự 2015.
4. Về án phí sơ thẩm:
4.1 Buộc ông Nguyễn Hữu Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia
đình sơ thẩm và 22.609.955 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Đ được khấu trừ trong
số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn
Ma Thuột theo các biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2023/0004398 ngày
21/11/2023, ông Đ phải tiếp tục đóng số tiền án phí dân sự sơ thẩm còn lại là
22.609.955 đồng (Hai mươi hai triệu sáu trăm lẻ chín nghìn chín trăm năm mươi lăm
đồng).
4.2 Buộc bà Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu 31.495.509 đồng (Ba mươi mốt triệu
bốn trăm chín mươi lăm nghìn năm trăm lẻ chín đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được
khấu trừ trong số tiền tạm ứng án phí 20.400.000 đồng (Hai mươi triệu bốn trăm
nghìn đồng) bà H đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột
theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2023/0004398 ngày 21/11/2023, bà H
phải tiếp tục đóng số tiền án phí dân sự sơ thẩm còn lại là 11.095.509 đồng (Mười
một triệu không trăm chín mươi lăm nghìn năm trăm lẻ chín đồng).
4.3 Bà Nguyễn Thị Mỹ V được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 8.250.000
đồng (Tám triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) đã nộp tại Chi cục thi hành án dân
sự thành phố Buôn Ma Thuột theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
AA/2023/0005004 ngày 26/12/2023.
15
4.4 Bà Nguyễn Thị Mỹ D1 được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 1.250.000
đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) đã nộp tại Chi cục thi hành án dân
sự thành phố Buôn Ma Thuột theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
AA/2023/0005005 ngày 26/12/2023.
4.3 Bà Phạm Thị T1, ông Nguyễn Hữu Đ1 là người cao tuổi (trên 60 tuổi) và
có đơn xin miễn án phí nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Buộc Ông Nguyễn Hữu Đ phải
chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm, ông Đ được khấu trừ vào số tiền
300.000đ đã nộp tạm ứng tại biên lai thu số AA/2023/0013314 ngày 01/8/2024 tại
Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột.
Bà Nguyễn Thị Mỹ H không phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm. Số
tiền 300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm mà bà Nguyễn Thị Mỹ H đã nộp theo biên
lai thu số AA/2023/0013326 ngày 05/8/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành
phố Buôn Ma Thuột được khấu trừ vào số tiền án phí Dân sự sơ thẩm bà H phải
chịu.
5. Về các chi phí tố tụng khác: Bà Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu 1.800.000 đồng,
được khấu trừ số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) mà bà H đã
nộp và đã chi phí xong. Ông Nguyễn Hữu Đ phải hoàn trả lại cho bà H số tiền
3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) chi phí tố tụng.
7. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp. Buôn Ma Thuột;
- Chi cục THADS Tp. Buôn Ma Thuột;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thanh Huyền
16
Tải về
Bản án số 323/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 323/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm