Bản án số 304/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 304/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 304/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 304/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 304/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
Số hiệu: | 304/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 04/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Nguyễn Thành V khởi kiện yên cầu bà Văn Thị T phải trả lại quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG NAI Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 304/2024/DS-PT
Ngày: 04-12-2024
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thị Nhung
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Ký
Ông Trần Vĩnh Yên
Thư ký phiên tòa: Ông Lưu Tuấn Minh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Loan - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 12 năm 2024 tại Tòa án nhân dân, tỉnh Đồng Nai xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 260/2024/TLPT-DS ngày 30 tháng 10 năm
2024 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất ”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 34/2024/DS-ST ngày 21-6-2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 259/2024/QĐ-PT
ngày 30 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành V, sinh năm 1955. Địa chỉ: Số D, tổ
A, khu phố N, phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Ngọc T, sinh năm
1978. Địa chỉ: Tổ G, khu phố A, phường P, thành phố L, tỉnh Đồng Nai là người
đại diện theo ủy quyền. Văn bản ủy quyền ngày 05/9/2017,
2. Bị đơn: Bà Văn Thị T1, sinh năm 1947. Địa chỉ: Số D, tổ A, khu phố
N, phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
3. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1978. Địa chỉ: Tổ G, khu phố A,
phường P, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
3.2. Bà Nguyễn Ngọc V1, sinh năm 1985. Địa chỉ: Số D, tổ A, khu phố
N, phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
3.3. Bà Nguyễn Ngọc P, sinh năm 1981. Địa chỉ: Số A đường L, phường
T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2
Người đại diện hợp pháp của bà V1 và bà P: Bà Nguyễn Ngọc T, sinh
năm 1978. Địa chỉ: Tổ G, khu phố A, phường P, thành phố L, tỉnh Đồng Nai là
người người đại diện theo ủy quyền.
3.4. Bà Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1987. Địa chỉ: Số D, tổ A, khu phố N,
phường B, thành phố L, tỉnh Đồng Nai.
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thành V.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 01/8/2013, và quá trình tố tụng nguyên đơn
ông Nguyễn Thành V trình bày:
Năm 1982, sau khi mẹ vợ là bà Đỗ Thị T2 mất, cha vợ là ông Văn Ngọc
H có phân một lô đất thành 05 phần để cho 5 người con, mỗi người khoảng hai
sào đất. Lô đất đầu tiên cho ông Văn Ngọc B, lô thứ hai cho bà Văn Thị L, lô
thứ ba cho bà Văn Thị H1, lô thứ tư cho vợ ông bà Văn Thị H2, lô thứ năm cho
bà Văn Thị T1. Khi cho đất cha vợ ông là người phân ranh được làm bằng đá
xếp dài từ đầu ranh đến cuối đất.
Năm 1985, ông xây dựng nhà và đến năm 1987, bà T1 xây dựng nhà trên
phần đất cha mẹ cho. Ngày 10/9/1997, ông được Ủy ban nhân dân huyện L cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số K 616890 đối với thửa đất 233, tờ bản đồ
13 tại xã B, thị xã L, tỉnh Đồng Nai với diện tích 1584m
2
. Năm 2008, bà T1
nhiều lần dời hàng ranh đá để lấn chiếm đất trong thời gian ông không ở nhà.
Ông có yêu cầu bà T1 trả lại đất nhưng bà T1 không đồng ý. Ngày 30/5/2013,
ông có yêu cầu Ủy ban nhân dân xã B giải quyết nhưng không thành nên ông
khởi kiện tại Tòa án yêu cầu bà T1 trả lại diện tích đất (nhận bằng hiện vật) là 23
m
2
được giới hạn bởi các mốc (5, 6, 15, 14, 16, 5) theo sơ đồ hiện trạng khu đất
số 667/2014 ngày 15 tháng 10 năm 2014 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ
– Chi nhánh L3. Ông đề nghị Tòa án căn cứ vào “Trích vẽ khu đất theo bản đồ
địa chính cũ” do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ- Chi nhánh L3 thực hiện
ngày 15/12/2021, để giải quyết.
* Tại biên bản lấy lời khai ngày 17/3/2014, đơn tường trình ngày
03/4/2014, bị đơn bà Văn Thị T1 trình bày:
Bà xác định nguồn gốc đất của bà và ông V đúng như ông V trình bày.
Sau khi cha bà (ông Văn Ngọc H) cho đất, đến năm 1987 bà xây nhà và ở ổn
định cho đến nay, khi xây nhà, bà xây cách hàng ranh của ông V 01 mét, sau đó
bà có tráng nền xi măng trước nhà và chừa lại 60cm cách ranh đất của ông V để
hàng chậu kiểng. Ranh giới giữa hai bên phía trước mặt tiền là chậu kiểng và
phía sau là ranh đá. Do đó, bà xác định không có lấn chiếm đất và không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của ông V.
* Tại bản tường trình ngày 18/8/2015 và quá trình tố tụng, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Ngọc T trình bày:
Trước đây, ranh giới nhà bà và nhà bà T1 là hàng đá. Năm 2007, bà T1
tháo dỡ ranh đá để tráng sân xi măng và lấn chiếm đất của gia đình bà, bà T1 có
3
bán đất cho ông Lê Văn T3 để làm đường đi, thời điểm này cha bà không có ở
nhà. Sau đó, bà phát hiện có nói “Sao dì lấn chiếm đất nhà cháu”, bà T1 nói “tao
rào thì rào, đất mày còn đó chứ lo gì”. Do đó, bà xác định bà T1 có lấn chiếm
đất của gia đình bà và bà đồng ý với yêu cầu khởi kiện của cha bà về việc buộc
bà Văn Thị T1 trả lại diện tích đất lấn chiếm là 23 m
2
.
* Tại bản tường trình ngày 27/9/2017 và ngày 29/9/2017, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Ngọc P và bà Nguyễn Ngọc V1 trình
bày: Các bà là con của ông Nguyễn Thành V và bà Văn Thị H2. Cha mẹ các bà
có 04 người con gồm Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Ngọc P, Nguyễn Ngọc V1 và
Nguyễn Ngọc A. Cha mẹ các bà được ông ngoại cho hai thửa đất, một thửa tại
xã B và một thửa tại phường P. Năm 1990, sau khi mẹ chết, các bà đồng ý cho
cha là ông V đứng tên chủ quyền đất. Năm 1997, ông V được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của hai thửa đất trên, các bà đồng ý và không tranh
chấp. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông V và bà Văn Thị T1 các bà không có ý
kiến.
Tại Bản án số: 34/2024/DS-ST ngày 21-6-2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Long Khánh căn cứ Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thành V về việc
buộc bà Văn Thị T1 phải trả lại diện tích đất lấn chiếm 23m
2
.
2.Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Thành V phải chịu 7.026.065 đồng chi
phí tố tụng, ông V đã nộp xong.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.
Ngày 01/7/2024 nguyên đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia
phiên tòa phúc thẩm:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy
định của pháp luật từ khi thụ lý đến khi xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
đúng thành phần, đảm bảo vô tư khách quan, trình tự phiên tòa được Hội đồng
xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Thư ký thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật.
Về đề xuất đường lối giải quyết vụ án: Theo Công văn số 801/UBND-NN
ngày 29/3/2024 của UBND thành phố L có nội dung: Diện tích thửa đất 21 và
22, tờ bản đồ 32 tại phường B, thành phố L giảm so với giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã cấp năm 1997 là do chênh lệch giữa hai lần đo đạc bản đồ địa
chính.
4
Theo sơ đồ hiện trạng khu đất số 667/2014 ngày 15 tháng 10 năm 2014
của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ – Chi nhánh L3 thì diện tích đất tranh
chấp 23 m² giới hạn bởi các mốc 5, 6, 15, 14, 16,5 nằm trong thửa đất 22, tờ bản
đồ 32 tại phường B được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Văn
Thị T1.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã đề nghị Văn
phòng Đ chi nhánh L3 chồng ghép bản đồ cũ và mới để xác định vị trí, diện tích
đất tranh chấp, nhưng tại Công văn số 358 ngày 22/6/2021 Văn phòng Đ chi
nhánh L3 cho biết: Vì bản đồ địa chính cũ được đo vẽ năm 1996 với tỷ lệ 1:5000
có hạn sai lớn nên không thực hiện được việc chồng ghép giữa hiện trạng chỉ
dẫn lên bản đồ địa chính cũ.
Từ những phân tích trên không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn
Thành V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Thành V làm
trong hạn luật định, ông V được miễn đóng tạm ứng án phí nên được xem xét
theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thành V nhận thấy:
Nguồn gốc thửa đất số 233, tờ bản đồ số 13, xã B, huyện L, tỉnh Đồng
Nai có diện tích 1.584 m
2
(Nay thuộc thửa đất số 21, tờ bản đồ số 32, phường B,
thành phố L) với diện tích đất thực tế là 1294,7m
2
) được Ủy ban nhân dân huyện
L cấp cho ông Nguyễn Thành V số K 616890 ngày 10/9/1997 và thửa đất số
234, tờ bản đồ số 13, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai có diện tích 1.551m
2
(Nay
thuộc thửa đất số 22, tờ bản đồ số 32, phường B, thành phố L) với diện tích đất
thực tế là 1.369,8m
2
) được Ủy ban nhân dân huyện L cấp cho bà Văn Thị T1 số
K 616881 ngày 10/9/1997.
Ông V cho rằng diện tích đất của ông bị thiếu một phần là do chênh lệch
giữa hai lần đo đạc và một phần là do bị bà T1 lấn chiếm nên ông yêu cầu Tòa
án giải quyết buộc bà T1 phải trả lại cho ông 23m
2
.
Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thu thập chứng cứ lấy lời khai của các
ông bà ông Văn Ngọc B, bà Văn Thị G, bà Văn Thị L (bút lục số 67, 68) là anh
chị em ruột với vợ ông V và bà T1 thể hiện: Ranh đất nhà ông V và bà T1 vẫn
giữ nguyên không thay đổi so với cũ. Bà T1 không có lấn chiếm đất nhà ông V.
Các nhân chứng do ông V cung cấp là chị Văn Ngọc D, ông Văn Ngọc
L1, ông Vi L2, ông Lê Văn T3. Tại bản tường trình ngày 18/8/2015 của chị Văn
5
Ngọc D; các biên bản lấy lời khai cùng ngày 18/8/2015 của Tòa án Tòa án cấp
sơ thẩm đối với chị D, ông L1, ông L2, ông T3 cho rằng việc bà T1 có lấn đất
của ông V hay không thì họ không biết và không xác định được.
Tại Công văn số 801/UBND-NN ngày 29/3/2024 của Ủy ban nhân dân
thành phố L xác định: Diện tích thửa đất số 21, 22, tờ bản đồ số 32 giảm so với
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp năm 1997 là do chênh lệch giữa hai
lần đo đạc thành lập bản đồ địa chính.
[3] Theo Bản vẽ hiện trạng khu đất số 667/2014 ngày 15 tháng 10 năm
2014 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ – Chi nhánh L3 thì thửa đất ông V
đang sử dụng có diện tích 1294,7m
2
bị thiếu 289,3m
2
và thửa đất bà T1 đang sử
dụng có diện tích 1.369,8m
2
bị thiếu 181,2m
2
so với giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Phần đất 23m
2
mà ông V tranh chấp được giới hạn bởi các mốc
(5,6,15,16,5) thuộc thửa đất số 22, tờ bản đồ số 32, phường B được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Văn Thị T1.
[4] Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn là đúng quy định. Xét kháng cáo của ông V là không có căn cứ nên
không được chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Đối với yêu cầu của ông V và bà T đề nghị Tòa án căn cứ vào “Trích
vẽ khu đất theo bản đồ địa chính cũ” do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - Chi
nhánh L3 thực hiện ngày 15/12/2021 để giải quyết vụ án: Xét thấy, trích lục đo
ngày 15/12/2021 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - Chi nhánh L3, không
đo vẽ hiện trạng hai thửa đất tranh chấp, không có sự chỉ dẫn của các đương sự
nên không phải là căn cứ để giải quyết vụ án.
[6] Về chi phí tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng. Do yêu cầu của
nguyên đơn không được chấp nhận nên ông Vân phải chịu chi phí tố tụng.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Kháng cáo của ông Vân không được chấp
nhận, ông Vân phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, tuy nhiên ông Vân là người cao
tuổi nên được miễn án phí theo quy định.
[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của
Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thành V.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 34/2024/DS-ST ngày 21-6-2024
của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
Căn cứ Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Pháp lệnh số 10/2009 /PL-
UBTVQH12 của Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án; Nghị quyết
326/2016/UBTTQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án;
6
Tuyên xử:
1. Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Thành V về việc buộc bà Văn Thị T1 phải trả lại diện tích đất lấn chiếm 23m
2
.
2.Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Thành V phải chịu 7.026.065 (Bảy
triệu không trăm hai mươi sáu nghìn không trăm sáu mươi lăm đồng) chi phí tố
tụng, ông V đã nộp xong.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Thành V phải chịu 200.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 200.000 đồng tạm ứng án phí
do ông V đã nộp tại Biên lai thu tiền số 09301 ngày 21 tháng 10 năm 2013 của
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Long Khánh (N thành phố L), tỉnh Đồng Nai.
4. Về án phí dân sự phúc: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông
Nguyễn Thành V.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- TAND Tp Long Khánh;
- Chi cục THADS Tp Long Khánh;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Thị Nhung
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm