Bản án số 30/2024/HC-ST ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Bến Tre
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 30/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 30/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 30/2024/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 30/2024/HC-ST ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Bến Tre |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 30/2024/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 30/2024/HC-ST
Ngày: 10/09/2024
V/v “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Lê Văn Phận
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Nguyễn Thị Kiều Oanh
Bà Dương Thị Hồng Thuỳ
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Hồ Nhật Hạ - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Thúy Kiều - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 09 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 14/2024/TLST-HC ngày 08/03/2024 về việc
‘‘Khiếu kiện quyết định hành chính" giữa.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 3100/2024/QĐXXST-HC
ngày 16 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
Người khởi kiện:
Ông Đinh Văn S, sinh năm: 1998;
Địa chỉ: Số B ấp G, xã G, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông S: Ông Trần Nhật Long H, sinh năm:
1978; (có mặt).
Địa chỉ: A H, phường G, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Người bị kiện:
2
Giám đốc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Minh T – Giám đốc (có đơn xin xét
xử vắngg mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Võ Hiệp T1
– Phó Giám đốc chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T; (có mặt).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1.Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1974;
2.Ông Đinh Văn P, sinh năm 1971;
Cùng địa chỉ: Số B, ấp G, xã G, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông P, bà D: Ông Trần Nhật Long H, sinh
năm: 1978; (có mặt).
Địa chỉ: A H, phường G, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Minh T2 - Giám đốc
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Võ Hiệp T1
– Phó Giám đốc chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T; (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, biên bản đối thoại cũng như tại phiên toà,
người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện – ông Trần Nhật Long H
trình bày:
Vào năm 2017 mẹ anh S là Nguyễn Thị D đã kí hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng thửa đất số 27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre cho anh S
được toàn quyền sử dụng và anh S đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CL 813945, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CS03078 ngày
17/01/2018. Đây là tài sản do mẹ anh S đứng tên cá nhân nên mẹ anh S có toàn
quyền kí hợp đồng tặng cho anh S. Còn cha anh S không có đứng tên nên không
cần phải kí vào hợp đồng tặng cho và việc mẹ anh S cho thì cha anh S cũng đồng ý
nên cũng không có khiếu nại hay tranh chấp gì từ trước đến nay. Diện tích đất
được cấp ghi trong giấy chứng nhận cũng không có sai sót, đúng với diện tích ban
đầu trong giấy chứng nhận do mẹ anh S đứng tên. Kể từ thời điểm tặng cho đến
nay, thì không ai tranh chấp, ngăn cản hay khiếu nại cho đến ngày 06/11/2023 anh
S nhận được Thông báo số 391/TB-UBND của Ủy ban nhân dân xã G, huyện T
thông báo cho anh S về việc phải giao nộp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
3
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liên trên đất số CL 813945 cấp ngày
17/01/2018. Thời hạn giao nộp trong vòng 30 ngày, kể từ ngày 06/11/2023 đấn
ngày 06/12/2023 cũng với lí do "Bà Nguyễn Thị D tặng cho thửa đất số 27, tờ bản
đồ số 10 xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre cho ông Đinh Văn S theo Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất số chứng thực 194, quyển số 01-SC1/HĐ,GD do Ủy ban nhân
dân Thị trấn T chứng thực có sai sót dẫn đến Giấy chứng nhận phát hành chưa
đúng qui định pháp luật. Ngày 21/11/2023 Văn phòng đăng kí đất đai - Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B ban hành Quyết định số 442/QĐ-VPĐK để thu hồi
Giây chừng nhận quyên sử dụng đât, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số CL 813945 của anh S với lí do: "Bà Nguyễn Thị D tặng cho thửa đất số
27, tờ bản đồ số 10 xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre cho ông Đinh Văn S theo Hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất số chứng thực 194, quyển số 01-SCT/HĐ,GD do
Ủy ban nhân dân Thị trấn T chứng thực có sai sót dẫn đến Giây chứng nhận do
Văn phòng đăng kí đất đai trình Sở T có số phát hành CL 813945, số vào số cấp
GCN CS03078 kí ngày 17 tháng 01 năm 2018 chưa đúng qui định pháp luật".
Trong khi đó, việc cho tặng này do chính cán bộ địa chính xã A, huyện T thời điểm
đó thực hiện và mẹ con anh S có mặt kí tên tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T
theo qui định. Văn phòng đăng kí đất đai - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
ban hành Quyết định số 442/QĐ-VPĐK để thu hồi và Ủy ban nhân dân xã G ra
Thông báo số 391/TB-UBND về việc phải giao nộp lại Giấy chứng nhận cũng đều
không giải thích và không đưa ra căn cứ pháp lý vì sao bị thu hồi và sai sót chỗ nào
nên gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của anh S. Nay anh S khởi kiện yêu cầu
Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre giải quyết:
Hủy Quyết định số 442/QĐ-VPĐK về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp cho ông
Đinh Văn S do Giám đốc Văn phòng đăng kí đất đai tỉnh B ban hành ngày
21/11/2023 để thu hồi đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CL 813945, số vào sổ cấp giấy chứng
nhận số CS03078 ngày 17/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
cho Đinh Văn S thửa số 27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DO331097, số vào số cấp giấy
chứng nhận số VP04596 ngày 20/02/2024 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B
cấp cho bà Nguyễn Thị D đối với thửa số 27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc xã A, huyện
T, tỉnh Bến Tre.
* Theo văn bản số 1087/VPĐK-TĐCG ngày 29/5/2024 của Giám đốc Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh B trình bày:
1. Văn phòng Đăng ký đất đai ban hành Quyết định số 422/QĐ-VPĐK ngày
21 tháng 11 năm 2023 về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền
4
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (viết tắt là Giấy chứng nhận) của ông
Đinh Văn S có số phát hành CL 813945, số vào sổ cấp GCN: CS03078, thửa đất số
27, tờ bản đồ số 10, xã A, huyện T, tỉnh Bên Tre, dựa trên cơ sở:
Ngày 14 tháng 7 năm 2023, Văn phòng Đ (từ nguồn văn bản đến do Sở T
chuyên đến) có nhận Công văn số 2070/UBND-NC ngày 14 tháng 7 năm 2023 về
việc kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Công văn số
2463/UBND-NC ngày 15 tháng 8 năm 2023 về việc tiếp tục kiến nghị thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện T. Nội dung: Ủy ban
nhân dân huyện T chuyển Đơn đề nghị của 14 hộ liên quan đến vụ hụi của bà
Nguyễn Thị D, yêu cầu xem xét hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông
Đinh Văn S (nhận tặng cho quyền sử dụng đất từ bà Nguyễn Thị D) đối với thửa
đất trên.
Qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ và Báo cáo của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai huyện T, Văn phòng Đ nhận thấy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
giữa bà Nguyễn Thị D và ông Đinh Văn S có sai sót như sau:
- Tại Điều 1, "phần diện tích: 44.398,5m
2
(bằng chữ: năm mươi hai phẩy
một mét vuông)"
- Lời chứng thực Hợp đồng, giao dịch "Tại Ủy ban nhân thị trấn T, tôi
Dương Văn H1, Chủ tịch/ Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh
Bến Tre". Do ông Dương Văn H1 nguyên là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A ký
chứng thực.
Như vậy, Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Đinh Văn S đối với thửa đất số
27, tờ bản đồ số 10, tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre là không đủ điều kiện được
cấp.
- Về quy định:
+ Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013;
+ Căn cứ khoản 5 Điều 1 Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành
Luật Đất đai;
- Về quy trình: Thực hiện theo thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
không đúng quy định của pháp luật đất đai theo Quyết định số 2291/QĐ-UBND
ngay 09 tháng 10 năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh B.
- Về giấy tờ hợp pháp:
+ Công văn số 3670/STNMT-VPĐK ngày 18 tháng 8 năm 2023 của Sở T về
việc kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Báo cáo số 2197/BC-CNTP ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Chi nhánh Văn
5
phòng Đăng ký đất đai huyện T về việc hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông Đinh Văn S.
+ Thông báo số 1906/TB-VPĐK ngày 19 tháng 10 năm 2023 của Văn phòng
Đăng ký đất đai về việc giao nộp Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Đinh Văn S tại
thửa đất số 27, tờ bản đồ số 10, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
+ Biên bản làm việc ngày 19 tháng 10 năm 2023 và ngày 17 tháng 11 năm
2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện T về việc trao Thông báo
giao nộp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. Việc Văn phòng Đ có Quyết định số 442/QĐ-VPĐK ngày 21 tháng 11
năm 2023 về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đât, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất số CL 813945, số vào số cấp giấy chứng nhận số
CS03078 ngày 17/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho Đinh
Văn S thửa số 27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
3. Việc yêu cầu "hủy" Quyết định số 442/QĐ-VPĐK ngày 21 tháng 11 nam
2023 của Văn phòng Đăng ký đất đai là không có cơ sở xem xét, giải quyết. Ngày
11 tháng 12 năm 2023, Văn phòng Đ đã ban hành Quyết định số 518/QĐ-VPĐK
về việc hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Đinh Văn S. Ngày 22 tháng 01 năm
2024, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện T tiến hành họp
Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự huyện (Trích biên bản). Hiện nay, Văn phòng Đ đã
cấp lại Giấy chứng nhận cho bà Nguyễn Thị D có số phát hành DO331097, số vào
số cấp giấy chứng nhận số VP04596 ngày 20/02/2024 do Văn phòng đăng ký đất
đai tỉnh B cấp cho bà Nguyễn Thị D đối với thửa số 27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc xã
A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Tại phiên toà, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan trong vụ án có ý kiến trình bày:
Qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ và Báo cáo của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai huyện T, Văn phòng Đ nhận thấy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
giữa bà Nguyễn Thị D và ông Đinh Văn S có sai sót như sau:
- Tại Điều 1, "phần diện tích: 44.398,5m
2
(bằng chữ: năm mươi hai phẩy
một mét vuông)"
- Lời chứng thực Hợp đồng, giao dịch "Tại Ủy ban nhân thị trấn T, tôi
Dương Văn H1, Chủ tịch/ Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh
Bến Tre". Do ông Dương Văn H1 nguyên là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã A ký
chứng thực.
Như vậy, Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Đinh Văn S đối với thửa đất số
27, tờ bản đồ số 10, tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre là không đủ điều kiện được
6
cấp.
Việc yêu cầu "hủy" Quyết định số 442/QĐ-VPĐK ngày 21 tháng 11 nam
2023 của Văn phòng Đăng ký đất đai là không có cơ sở xem xét, giải quyết. Ngày
11 tháng 12 năm 2023, Văn phòng Đ đã ban hành Quyết định số 518/QĐ-VPĐK
về việc hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Đinh Văn S. Ngày 22 tháng 01 năm
2024, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện T tiến hành họp
Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự huyện (Trích biên bản). Hiện nay, Văn phòng Đ đã
cấp lại Giấy chứng nhận cho bà Nguyễn Thị D có số phát hành DO331097, số vào
số cấp giấy chứng nhận số VP04596 ngày 20/02/2024 do Văn phòng đăng ký đất
đai tỉnh B cấp cho bà Nguyễn Thị D đối với thửa số 27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc xã
A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội
đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Những người tham gia
tố tụng tại phiên tòa đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật
Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính,
đề nghị Tòa án tuyên xử:
Hủy Quyết định số 442/QĐ-VPĐK ngày 21/11/2023 của Văn phòng Đ - Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở tài sản khác gắn liền với đất số CL 813945, số vào sổ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS03078 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 17/01/2018 cho Đinh Văn S thửa số 27, tờ bản đồ số 10,
tọa lạc lạc xã A, huyện T, tỉnh Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra xem
xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội
đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính xét thấy:
[1] Về thời hiệu khởi kiện:
Ngày 21/11/2023 Văn phòng đăng ký đất đai – Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B ban hành Quyết định số 442/QĐ-VPĐK để thu hồi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của anh S với lý do:“Bà D tặng cho thửa đất số 27, tờ bản đồ số
10, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre cho ông Đinh Văn S theo Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất đất số chứng thực 194, quyền 01-SCT/HĐ,GD do Ủy ban nhân
dân thị trấn T chứng thực có sai sót dẫn đến Giấy chứng nhận phát hành chưa đúng
quy định pháp luật”.
Đến ngày 07/02/2024, anh S khởi kiện tại Tòa án. Căn cứ điểm a khoản 2
7
Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, anh S khởi kiện vẫn còn thời hiệu.
[2] Về tính hợp pháp và căn cứ của quyết định hành chính bị khởi kiện:
[2.1] Xét thẩm quyền ban hành quyết định hành chính:
- Về thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Tại khoản 2 Điều 106 Luật đất đai 2013 quy định về Đính chính, thu hồi
Giấy chứng nhận đã cấp:
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng
sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng
mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo
quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó
đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo
quy định của pháp luật đất đai.”
Tại Điều 37 Nghị định 43/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều,
khoản của Luật Đất đai quy định :
“1. Đối với địa phương đã thành lập Văn phòng đăng ký đất đai theo quy
định tại Khoản 1 Điều 5 của Nghị định này thì Sở T cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, …..trong các trường hợp sau:
a) Khi người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản thực hiện các quyền của người
sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
Tại khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP về Thủ tục thu hồi Giấy
chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu
công trình xây dựng đã cấp
“…4. Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của
pháp luật về đất đai tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai được thực hiện
như sau:
b) Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện
Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì kiểm tra
lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do và quyết định thu hồi Giấy
chứng nhận đã cấp không đúng quy định.
e) Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện việc thu hồi và quản lý Giấy chứng
nhận đã thu hồi theo quyết định thu hồi Giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.”.
Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 56, Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-
8
CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định
chi tiết thi hành Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung Điểm b và Điểm c, Khoản 4, Điều
87 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP cũng quy định:
“b) Trường hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện
Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì kiểm tra
lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do và quyết định thu hồi Giấy
chứng nhận đã cấp không đúng quy định;
Tại khoản 26 Điều 1 NĐ 148/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm 2020 sửa
đổi, bổ sung một số nghị định quy đinh chi tiết thi hành luật đất đai cũng quy định:
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai
26. Sửa đổi, bổ sung khoản 4 và khoản 5 Điều 87 như sau:
“4. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật
về đất đai tại điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai được thực hiện như sau:
“…đ) Cơ quan có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quy định tại các
điểm a, b, c và d khoản này là cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận tại thời
điểm thu hồi Giấy chứng nhận;
e) Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện việc thu hồi và quản lý Giấy chứng
nhận đã thu hồi theo quyết định thu hồi Giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền;”
Ngày 03/4/2023, Chính Phủ ban hành Nghị định số 10/2023/NĐ-CP Sửa
đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành luật đất đai (sau
đây gọi tắt là Nghị định số 10/2023/NĐ-CP, có hiệu lực ngày 20/5/2023). Theo đó
tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 10/2023/NĐ-CP quy định:
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai
5. Sửa đổi, bổ sung Điều 37 như sau:
“…1. Đối với địa phương đã thành lập Văn phòng đăng ký đất đai theo quy
định tại khoản 1 Điều 5 của Nghị định này thì việc cấp Giấy chứng nhận, xác nhận
thay đổi vào Giấy chứng nhận đã cấp thực hiện như sau:
c) Văn phòng đăng ký đất đai, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai được
sử dụng con dấu của mình để thực hiện cấp Giấy chứng nhận, xác nhận thay đổi
vào Giấy chứng nhận đã cấp.”
Đối chiếu quy định tại khoản 26 Điều 1 Nghị định 148/2020 và điểm c
9
khoản 5 Điều 1 Nghị định 10/2023/NĐ-CP thì Văn Phòng đăng ký đất đai có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (tại thời điểm thu hồi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ) nên cũng có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Do đó, Văn phòng đăng ký đất đai ban hành quyết định số 442/QĐ-
VPĐK ngày 21/11/2023 về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
anh Đinh Văn S là đúng thẩm quyền.
[2.2] Về trình tự, thủ tục và nội dung quyết định hành chính bị kiện:
Phần đất thuộc thửa 27, tờ bản đồ số 10, xã A, huyện T, được UBND huyện
T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho bà Nguyễn Thị D vào năm 2016, diện
tích 44,398,5m
2
loại đất nuôi trồng thủy sản, tọa lạc xã an nhơn, huyện thạnh P1.
Ngày 28/12/2017, bà D lập Hợp đồng tặng cho anh Đinh Văn S quyền sử dụng
thửa đất số 27 nói trên, hợp đồng được chứng thực tại UBND cấp xã. Đến ngày
17/01/2018, anh S được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thửa số 27, tờ bản đồ số 10, diện tích 44,398,5m
2
loại đất nuôi
trồng thủy sản, tọa lạc xã A, huyện T.
Người bị kiện cho rằng theo nội dung Công văn số 2070/UBND-NC ngày
14/7/2023 của UBND huyện T về việc kiến nghị thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng của anh S. Nội dung: UBND huyện T chuyển đơn đề nghị của 14 hộ liên
quan đến vụ hụi của bà Nguyễn Thị D, yêu cầu xem xét hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông Đinh Văn S; Và qua kiểm tra hồ sơ lưu trữ và báo cáo
của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện T nhận thấy Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa bà D và ông S có sai sót như sau:
- Tại Điều 1: “phần diện tích 44.398,5m
2
(bằng chữ: “năm mươi hai phẩy
một mét vuông”).
- Lời chứng thực Hợp đồng, giao dịch “Tại Ủy ban nhân dân thị trấn T, tôi
Dương Văn H1, Chủ tịch/Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh
Bến Tre”.
Xét thấy:
* Về nội dung sai sót trong hợp đồng: Tại Điều 1 “phần diện tích
44.398,5m
2
(bằng chữ: “năm mươi hai phẩy một mét vuông”).
Thấy rằng: Việc ghi chú diện tích đất tặng cho bằng chữ tuy không trùng
khớp với diện tích ghi bằng số là lỗi do sai sót khi soạn thảo văn bản nhưng không
ảnh hưởng quyền lợi ích của người tặng cho (bà D) và người nhận tặng cho (anh S)
và các bên cũng không có khiếu nại về nội dung này.
- Về sai sót về cơ quan có thẩm quyền chứng thực: Theo quy định tại Khoản
6, Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP: "Việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch
liên quan đến quyền của người sử dụng đất được thực hiện tại UBND cấp xã nơi có
10
đất. Việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến nhà ở được thực hiện
tại UBND cấp xã nơi có nhà".
Đối chiếu quy định trên thì phần đất thuộc thửa 27, tờ bản đồ số 10 tọa lạc
tại xã A, huyện T. Tại phần lời chứng thực hợp đồng, giao dịch, thể hiện hợp đồng
được chứng thực tại Ủy ban nhân dân thị trấn T được ông Dương Văn H1 (không
rõ chức vụ Chủ tịch hay Phó chủ tịch UBND thị trấn) ký tên nhưng đóng dấu của
UBND xã A.
Theo nội dung Văn bản số 1087/VPĐK-TĐCG ngày 29/5/2024 của
VP.ĐKĐĐ tỉnh thì ông Dương Văn H1 là Chủ tịch UBND thị trấn nhưng chứng
thực giao dịch tặng cho mà đối tượng của Hợp đồng tặng cho là thửa đất số 27 tọa
lạc xã A, phần ký tên, đóng dấu thì ông H1 ký tên nhưng lại đóng đấu UBND xã A
là không đúng quy định tại khoản 6, Điều 5 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về công
chứng, chứng thực đã viện dẫn trên.
Thấy rằng: Theo quy định tại khoản 2 Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015 thì hợp
đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản
không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời
điểm chuyển giao tài sản. Tại khoản 3 Điều 188 Luật đất đai 2013 cũng quy định:
“…3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,
thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ
quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.”
Quá trình thực hiện hợp đồng tặng cho, mặc dù việc ghi nhận cơ quan
chứng thực là UBND thị trấn (không đúng nơi có bất động sản) nhưng phần xác
nhận có đóng dấu của UBND xã A và không có ai tranh chấp, khiếu nại; anh S
cũng đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nên hợp đồng tặng cho đã phát sinh
hiệu lực và anh S cũng được Sở Tài nguyên và Môi trường qua thẩm tra hồ sơ đã
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 17/01/2018.
Tại Báo cáo số 1071 ngày 26/7/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đ cũng thể
hiện nội dung: “Năm 2018, khi tiếp nhận hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất, chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai không phát hiện các sai sót trong hợp đồng… Từ
những sai sót trên, Chi nhánh đề xuất UBND xã A điều chỉnh những sai sót trong
hợp đồng do lỗi đánh máy”. Điều đó chứng minh khi chứng thực hợp đồng tặng
cho bất động sản cũng như thực hiện thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất các cơ quan có thẩm quyền không xem xét toàn bộ nội dung của Hợp
đồng nên có sai sót cũng có trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
* Đối với ý kiến trình bày của N bị kiện cho rằng: Căn cứ Công văn số
2070/UBND-NC ngày 14/7/2023 đất của UBND huyện T về việc kiến nghị thu hồi
giấy chứng nhận quyền sử dụng của anh S. Nội dung: UBND huyện T chuyển đơn
11
đề nghị của 14 hộ liên quan đến vụ hụi của bà Nguyễn Thị D, yêu cầu xem xét hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đinh Văn S.
Thấy rằng: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà D với anh S được
thực hiện vào năm 2017, có UBND xã chứng thực. Đến năm 2018 thì anh S được
Sở T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời điểm này chưa phát sinh tranh
chấp hụi giữa bà D và các hụi viên. Đến năm 2023 thì việc tranh chấp hụi mới
được Tòa án huyện T giải quyết bằng các Quyết định Công nhận sự thỏa thuận.
Ngoài ra, việc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông S không nêu các căn cứ dựa trên khiếu nại của những người
chơi hụi với bà D.
* Đối với ý kiến của Văn phòng Đ cho rằng phần đất thửa 27 là tài sản
chung vợ chồng nhưng khi tặng cho không có ý kiến của ông P (chồng bà D). Xét
thấy: theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện thửa đất số 27 được cấp cho
cá nhân bà Nguyễn Thị D. Ngoài ra, tại văn bản trình bày ý kiến của đại diện ủy
quyền của ông Đinh Văn P thì thửa đất 27 là tài sản của cá nhân bà D, việc bà D
tặng cho anh S thì ông P đồng ý và không có tranh chấp hay khiếu nại gì. Do đó,
việc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T cho rằng thửa 27 là tài sản
trong thời kỳ hôn nhân nhưng chỉ có bà D đứng tên tặng cho là không đủ điều kiện
được cấp từ đó kiến nghị Văn Phòng đăng ký đất đai tỉnh ban hành Quyết định
442/QĐ-VPĐK ngày 21/11/2023 về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của anh S là không phù hợp với các quy định pháp luật.
Từ những phân tích trên xét thấy anh S khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định
442/QĐ-VPĐK ngày 21/11/2023 của Văn phòng đăng ký đất đai về việc thu hồi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S là có cơ sở chấp nhận.
[3]. Xét các quyết định hành chính liên quan:
[3.1] Xét quyết định hành chính liên quan là Quyết định 518/QĐ-VPĐK
ngày 11/12/2023 của Văn phòng đăng ký đất đai về việc hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của anh S:
Ngày 19/10/2023 Văn phòng đăng ký đất đai ban hành Thông báo số
1906/TB-VPĐK về việc giao nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho
anh S (gọi tắt là Thông báo 1906), theo Thông báo số 1906 nêu trên thì trong thời
gian 30 ngày kể từ ngày gửi Thông báo mà người sử dụng đất không nộp lại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì Văn phòng đăng ký đất đai sẽ giải quyết hồ sơ
theo quy định;
Ngày 19/10/2023 và ngày 17/11/2023 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai
tiến hành lập biên bản làm việc về việc trao Thông báo giao nộp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, theo nội dung biên bản thì Đại diện chi nhánh và UBND xã G
12
không gặp được anh S (nhà đóng cửa) nên lập biên bản để làm cơ sở.
Theo Tờ trình số 2819 ngày 06/12/2023 của Chi nhánh văn phòng Đ cũng
thể hiện: Chi nhánh và UB xã A có đến nhà anh S nhưng không gặp. Ngày
30/11/2023, UBND xã có giấy mời liên quan đến việc thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của anh S. Ngày 04/12/2023, ông Đinh Văn P (cha ruột anh S)
có đến UBND xã nhận Quyết định 442 ngày 21/11/2023 về việc thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S nhưng không đồng ý giao giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất(BL102). Đến ngày 11/12/2023, trên cơ sở tờ trình của Chi
nhánh văn phòng Đ thì Văn phòng đăng ký đất đai đã ban hành Quyết định
518/QĐ-VPĐK về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S.
Xét thấy: Quyết định 518/QĐ-VPĐK 11/12/2023 của Văn phòng Đăng ký
đất về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S tuy không bị khởi
kiện nhưng là quyết định hành chính có liên quan nên cần xem xét trong cùng vụ
án.
Theo anh S trình bày tại Đơn khiếu nại ngày 05/12/2013 thì ngày
06/11/2023 anh S có nhận được Thông báo số 391/TB-UBND của UBND xã G về
việc giao nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo nội dung Thông báo thì
anh S được quyền khiếu nại trong thời hạn 30 ngày (tức là đến ngày 06/12/2023).
Ngày 05/12/2023, anh S có Đơn khiếu nại Quyết định 442 ngày 21/11/2023 về
việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi Chi nhánh văn phòng đăng ký
đất đai huyện T và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh (theo dấu công văn đến của
Văn phòng đăng ký đai đã nhận đơn ngày 06/12/2023).
Theo quy định của Luật khiếu nại thì sau khi nhận Đơn khiếu nại của anh S,
Văn phòng Đ phải xem xét về điều kiện thụ lý (hoặc không thụ lý) sau đó tiến hành
các trình tự, thủ tục xem xét, giải quyết theo quy định. Tuy nhiên, Văn phòng Đ lại
chuyển cho Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện để tham mưu (không có
quyết định giao nhiệm vụ xác minh, báo cáo kết quả xác minh đơn khiếu nại…) và
đến ngày 11/12/2023 thì Văn phòng Đăng ký đất đai ban hành Quyết định
518/QĐ-VPĐK về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S là
không đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật. Ngoài ra, như đã phân
tích trên, việc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B ra Quyết định số 442 ngày
21/11/2023 về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng quy
định nên Quyết định 518/QĐ-VPĐK về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của anh S cũng không đúng quy định.
[3.2] Xét quyết định hành chính liên quan là giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất do Sở T cấp cho bà D vào năm 2024:
Xét thấy: Như đã phân tích trên, việc Văn phòng đăng ký đất đai ban hành
13
Quyết định 442 ngày 21/11/2023 về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và Quyết định 518/QĐ-VPĐK về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
của anh S là không đảm bảo các quy định của pháp luật. Quá trình thực hiện việc
thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì anh S có đơn khiếu nại nhưng Văn
phòng Đ không giải quyết chuyển Chi nhánh văn phòng Đ (không có văn bản ,
quyết định giao nhiệm vụ), đến ngày 12/01/2024 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất
đai huyện T mới ban hành Công văn số 81/CNTP phúc đáp (theo quy định thì cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải ban hành Quyết định giải quyết
khiếu nại) cho anh S và ông P, bà D. Theo nội dung Công văn 81 nêu trên có nêu
các sai sót của UBND xã A trong thủ tục chứng thực, đồng thời hướng dẫn anh S,
bà D và ông P liên hệ UBND xã để chỉnh sửa, bổ sung lại hợp đồng tặng cho.
Ngoài ra, tại Báo cáo số 1071 ngày 26/7/2023 của Chi nhánh văn phòng Đ
cũng thể hiện nội dung: “Năm 2018, khi tiếp nhận hồ sơ tặng cho quyền sử dụng
đất, chi nhánh V đăng ký đất đai không phát hiện các sai sót trong hợp đồng… Từ
những sai sót trên, Chi nhánh đề xuất UBND xã A điều chỉnh những sai sót trong
hợp đồng do lỗi đánh máy”. Điều đó cho thấy cơ quan thẩm quyền địa phương
cũng cho rằng những sai sót trong Hợp đồng tặng cho là do lỗi đánh máy, có thể
điều chỉnh nên có cơ sở cho rằng những sai sót này không ảnh hưởng nghiêm trọng
đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh S. Do đó, việc Văn
phòng đăng ký đất đai ban hành Quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và Quyết định hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S không
đảm bảo các quy định của pháp luật sau đó thực hiện việc cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho bà D vào ngày 02/02/2024 là không phù hợp.
Từ những phân tích trên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh S về
việc yêu cầu: hủy Quyết định số 442/QĐ-VPĐK ngày 21/11/2023 của Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh B - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B về việc thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở tài sản khác gắn liền với đất
số CL 813945, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS03078 do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 17/01/2018 cho Đinh Văn S thửa số
27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc xã A, huyện T, tỉnh Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Đối với các quyết định hành chính có liên quan là Quyết định 518/QĐ-
VPĐK về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S và giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp cho bà D vào ngày
02/02/2024 được ban hành không đảm bảo các quy định pháp luật phải hủy nên
cũng cần hủy các quyết định liên quan nêu trên.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với các tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được
chấp nhận.
14
[5] Về chi phí tố tụng: Ông Đinh Văn S tự nguyện chịu số tiền 3.000.000
đồng và đã quyết toán xong.
[6] Về án phí hành chính sơ thẩm:
Do yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện được chấp nhận nên người bị kiện
phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 158, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 358, điểm a
khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015;
Căn cứ khoản 2 Điều 106 Luật đất đai 2013;
Căn cứ Điều 37 Nghị định 43/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều,
khoản của Luật Đất đai;
Căn cứ khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi Nghị
định số 10/2023/NĐ-CP;
Căn cứ khoản 26 Điều 1 Nghị định 148/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm
2020 sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy đinh chi tiết thi hành luật đất đai;
Căn cứ khoản 5, Điều 1 Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 Nghị
định số 10/2023/NĐ-CP;
Nghị quyết số 326/2016/UNTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí tòa án;
Tuyên xử:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Văn S. Cụ thể:
Hủy Quyết định số 442/QĐ-VPĐK ngày 21/11/2023 của Văn phòng đăng ký
đất đai - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B về việc thu hồi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở tài sản khác gắn liền với đất số CL
813945, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS03078 ngày
17/01/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho Đinh Văn S thửa số
27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc lạc xã A, huyện T, tỉnh Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Huỷ Quyết định số 518/QĐ-VPĐK ngày 11/12/2023 của Văn phòng Đăng
ký đất đai tỉnh B về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh S và giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp cho bà D vào
ngày 02/02/2024.
Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DO331097, số vào số cấp giấy
chứng nhận số VP04596 ngày 20/02/2024 do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B
cấp cho bà Nguyễn Thị D đối với thửa số 27, tờ bản đồ số 10, tọa lạc xã A, huyện
T, tỉnh Bến Tre.
15
2. Về án phí hành chính sơ thẩm:
Hoàn trả cho ông Đinh Văn S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba
trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003247 ngày
08/03/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre.
Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng)
án phí sơ thẩm.
Về chi phí tố tụng: Ông Đinh Văn S tự nguyện chịu số tiền 3.000.000 đồng
và đã quyết toán xong.
Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các
đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo; các đương sự không
có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản
án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- Cục THADS tỉnh Bến Tre;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV&THAHS tỉnh
Bến Tre;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Văn Phận
Tải về
Bản án số 30/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 30/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm