Bản án số 295/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng hợp tác
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 295/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 295/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 295/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 295/2025/DS-PT ngày 30/05/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng hợp tác |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng hợp tác |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
Số hiệu: | 295/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Công ty Cổ phần Đ “Tranh chấp đòi tài sản phát sinh từ hợp đồng hợp tác kinh doanh” Võ Tấn T2 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 295/2025/DS-PT
Ngày: 30-5-2025
V/v tranh chấp đòi tài sản phát sinh từ
hợp đồng hợp tác kinh doanh
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
Các Thẩm phán: bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
bà Huỳnh Thị Phượng
- Thư ký phiên tòa: bà Nguyễn Thị Mỹ Linh – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: bà
Nguyễn Thị Kim Chung - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 92/2025/TLPT-DS ngày 10 tháng 02
năm 2025 về việc “Tranh chấp đòi tài sản phát sinh từ hợp đồng hợp tác kinh doanh”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 328/2024/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2025/QĐ-PT ngày 26 tháng 02
năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đ; địa chỉ: Số B đường Q, Phường A, quận T,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: ông Hà Vũ T (Tổng Giám đốc).
Người đại diện theo ủy quyền: ông Vương Đình T1, sinh năm 1981; địa chỉ:
Tầng D Tòa nhà L đường N, Phường E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: ông Võ Tấn T2, sinh năm 1980; địa chỉ: Số A Khu phố C, thị trấn Đ,
huyện Đ, tỉnh Long An.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Huỳnh Thị Thủy T3, sinh năm 1981; địa chỉ: Số A Khu phố C, thị trấn
Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T3: ông Nguyễn Tiểu L, sinh năm 1980;
địa chỉ: Số B Ô khu B, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An (văn bản ủy quyền ngày
18/4/2025).
2. Ông Nguyễn Tất T4, sinh năm 1990; địa chỉ: Số B đường B, Phường A,
Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Bà Lê Thị H, sinh năm 1977; địa chỉ: 4 Khu phố D, phường H, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Công ty TNHH B; địa chỉ trụ sở: Số A Khu phố C, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh
Long An.
Người đại diện theo pháp luật: ông Võ Tấn T2 (Giám đốc).
- Người kháng cáo: nguyên đơn, Công ty Cổ phần Đ.
(Ông Vương Đình T1, ông Nguyễn Tiểu L có mặt; các đương sự còn lại vắng
mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 09/5/2023, đơn khởi kiện bổ sung ghi ngày
03/7/2024 và trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn Công ty
Cổ phần Đ (viết tắt là Công ty Đ) do ông Vương Đình T1 trình bày như sau:
Do quen biết, ông Hà Vũ T cùng với ông Võ Tấn T2 đã thỏa thuận hợp tác kinh
doanh, với nội dung: ông T2 chịu trách nhiệm thực hiện các thủ tục pháp lý thành
lập dự án khu dân cư đất nền tại thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An và hoàn tất các
thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từng nền trong 12 tháng kể từ
ngày ký hợp đồng; ông T đại diện theo pháp luật của Công ty Đ chịu trách nhiệm
tiếp thị quảng cáo, bán các lô nền. Ông T phải chuyển cho ông T2 10.000.000.000
đồng (mười tỷ đồng) ký quỹ để cam kết thực hiện hợp đồng.
Ngày 04/8/2018, ông Hà Vũ T nhờ ông Nguyễn Tất T4 chuyển khoản cho ông
T2 5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) vào tài khoản cá nhân ông T2 số
070004611517 – Ngân hàng S để ký quỹ, với nội dung “HA VU THANG CT QUY
DAT DUC HOA”.
Ngày 12/10/2018, Công ty Đ do ông Hà Vũ T đại diện và Công ty TNHH B do
ông Võ Tấn T2 đại diện đã ký hợp đồng hợp tác và phân phối sản phẩm đất nền số
06/2018/HĐDV, với nội dung: ông T2 cam kết có khu đất tại thị trấn Đ, tỉnh Long
An gồm: 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (quyền sử dụng đất viết tắt là
QSDĐ) do bà Lê Thị H (chị ruột ông T2) đứng tên thửa đất số 463 tờ bản đồ số 11
diện tích 3.072m
2
; 03 giấy chứng nhận QSDĐ do bà Huỳnh Thị Thủy T3 (vợ ông
T2) đứng tên các thửa đất số 983 tờ bản đồ số 11 diện tích 1.724m
2
, thửa đất số
365 diện tích 9.980m
2
và thửa 236 diện tích 9.580m
2
cùng tờ bản đồ số 10; 01 giấy
tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả số 8272018270023185/TNHS ngày 29/8/2018 do
Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh Long An phát hành. Ông T2 cam kết trong
tháng 10/2018, ông T2 phải có văn bản chấp thuận chủ trương của UBND huyện Đ
hoặc UBND tỉnh L phê duyệt dự án. Nếu trong 02 tháng kể từ ngày ký hợp đồng,
bên A là ông T2 chưa có văn bản chấp thuận chủ trương của cơ quan có thẩm quyền
thì phải trả lại toàn bộ tiền ký quỹ cho bên B là Công ty Đ. Thời gian chuyển trả tiền
là trong hạn 03 ngày.
Sau hơn 02 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, ông T2 đã không thực hiện đúng
như cam kết. Ngày 31/8/2019, ông Vũ T đại diện cho Công ty Đ và ông Võ Tấn T2
ký thỏa thuận với nội dung: tháng 10/2018, Công ty Đ có chuyển cho ông T2 số tiền
5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) để phân phối dự án tại Đ - Long An. Tuy nhiên
cho tới nay dự án không có, vì vậy theo hợp đồng thì ông T2 phải thanh toán lại
5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) cho Công ty Đ đã ký quỹ trước đó. Việc trả tiền
cho Công ty Đ được chia làm 02 lần: lần 1, ông T2 sẽ trả trước cho Công ty Đ số
tiền 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng) vào ngày 15/9/2019; lần 2, ông T2 chi trả số
tiền còn lại cho Công ty Đ vào ngày 31/9/2019. Do tài chính ông T2 tại thời điểm
này chưa có, nên ông T2 có giao cho Công ty Đ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số BX 116409 thửa đất 566 tờ bản đồ 44 diện tích 12.172,6m
2
tại xã P, huyện
C, Thành phố Hồ Chí Minh (do bà Huỳnh Thị Thủy T3 là vợ của ông T2 đứng tên)
để thể hiện thiện chí trả tiền cho Công ty Đ. Hai bên thỏa thuận, nếu đến ngày
16/9/2019 ông T2 không trả tiền như đã hẹn thì ông T2 đồng ý công chứng chuyển
nhượng thửa đất số 566 cho Công ty Đ.
Đến nay, ông T2 vẫn chưa trả lại tiền cho Công ty Đ. Nay Công ty Đ khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T2 phải trả cho Công ty Đ số tiền 5.000.000.000
đồng và tiền lãi chậm trả từ ngày 01/10/2019 đến khi xét xử sơ thẩm với mức lãi
suất 10%/năm. Khi nào ông T2 trả xong tiền thì ông Vũ T đại diện Công ty Đ sẽ trả
lại bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ ông T2. Ngoài ra, ông T1
đại diện ông Vũ T đề nghị Hội đồng xét xử ban hành quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời “Cấm xuất cảnh” với ông Võ Tấn T2 để đảm bảo thi hành án.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bị đơn ông Võ Tấn T2 do ông
Trần Nhật V đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông T2 thống nhất lời trình bày của người đại diện của Công ty Đ về nội dung
thỏa thuận hợp tác giữa ông Vũ T đại diện Công ty Đ với ông Võ Tấn T2, thống
nhất số tiền mà ông Vũ T đã chuyển khoản cho ông T2 và nội dung giấy thỏa thuận
ngày 31/8/2019.
Theo nội dung thỏa thuận ngày 31/8/2019, thì đến hết tháng 9/2019, ông T2
không trả tiền 5.000.000.000 đồng cho Công ty Đ thì ông T2 sẽ chuyển nhượng thửa
đất số 566 cho Công ty Đ để trừ nợ, thể hiện qua việc ông T2 đã giao bản chính giấy
chứng nhận QSDĐ thửa đất số 566 cho ông Vũ T giữ. Từ tháng 10 năm 2019 đến
nay, Công ty Đ không có ý kiến gì. Nay Công ty Đ lại yêu cầu ông T2 trả số tiền
5.000.000.000 đồng và tính lãi suất chậm trả, thì ông T2 chỉ đồng ý trả lại số tiền
5.000.000.000 đồng (năm tỷ đồng) mà Công ty Đ đã ký quỹ trước đó, không đồng
ý tính lãi. Ông T2 yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu khởi kiện đòi
tiền lãi của Công ty Đ.
Trong trường hợp Công ty Đ yêu cầu vợ chồng ông T2 chuyển nhượng QSDĐ
đối với thửa 566 thì vợ chồng ông T2 cũng đồng ý. Đối với bản chính giấy chứng
nhận QSDĐ thửa số 566, ông T2 không có yêu cầu đòi lại.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Thủy T3 (vợ ông Võ
Tấn T2) do ông Trần Nhật V đại diện trình bày: bà T3 thống nhất với lời trình bày
và ý kiến của ông T2.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bà Lê Thị H và Công ty TNHH B:
Tòa án cấp sơ thẩm đã triệu tập hợp lệ bà Lê Thị H và người đại diện theo pháp luật
của Công ty B là Võ Tấn T2, nhưng đương sự vắng mặt và không có ý kiến gì về
việc giải quyết vụ án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Tất T4 vắng mặt và có
văn bản trình bày: ngày 04/10/2018 ông có chuyển khoản 5.000.000.000 đồng vào
tài khoản cá nhân của ông Võ Tấn T2 có số 070004611517. Nội dung chuyển tiền:
Hà Vũ T CT ký quỹ đất Đ. Ông chỉ chuyển dùm tiền thay cho ông Hà Vũ T đại diện
Công ty Đ, nên ông thống nhất đồng ý cho Công ty Đ khởi kiện ông Võ Tấn T2 số
tiền này. Ông xác định không có ý kiến tranh chấp gì trong vụ án này và xin xét xử
vắng mặt.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 328/2024/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã xử (tóm tắt):
“1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Đ về việc tranh
chấp “Đòi tài sản phát sinh từ hợp đồng hợp tác kinh doanh” với ông Võ Tấn T2.
Buộc ông Võ Tấn T2 liên đới cùng bà Huỳnh Thị Thủy T3 trả cho Công ty cổ
phần Đ số tiền 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng).
Không chấp nhận yêu cầu của Công ty cổ phần Đ về việc đòi tiền lãi theo mức
10%/năm/ 5.000.000.000 đồng đối với ông Võ Tấn T2 từ ngày 01/10/2019 đến khi
xét xử sơ thẩm. Số lãi cần bác yêu cầu là 2.455.416.666 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền và thời
hạn kháng cáo, việc thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/9/2024, nguyên đơn, Công ty Đ kháng cáo một phần bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện của Công ty Đ là ông Vương Đình T1 trình bày: nội dung Biên
bản làm việc ngày 31/8/2019 thể hiện rõ ông T2 có nghĩa vụ trả cho Công ty Đ số
tiền 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) vào ngày 15/9/2019 và trả số tiền còn là
3.000.000.000đ (ba tỷ đồng) vào ngày 31/9/2019. Đến ngày 16/9/2019, ông T2
không trả số tiền như đã hẹn thì ông T2 đồng ý công chứng chuyển nhượng thửa đất
566 cho Công ty Đ. Tuy nhiên, đến nay ông T2 vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả
tiền, cũng không thông báo cho Công ty Đ về việc chậm thực hiện nghĩa vụ, là đã vi
phạm quy định tại Điều 353 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hơn nữa, nội dung biên bản
làm việc ngày 31/8/2019, giữa ông Hà Vũ T với ông Võ Tấn T2 không xác định giá
trị QSDĐ thửa 566 là 5.000.000.000đ (năm tỷ đồng) và cũng không có thỏa thuận
ông T2 giao cho Công ty Đ giấy chứng nhận QSDĐ để trừ nợ. Tòa án cấp sơ thẩm
không chấp nhận yêu cầu của Công ty Đ về việc đòi tiền lãi chậm trả là không đúng
quy định tại Điều 353, 357, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và cũng không công
bằng đối với Công ty Đ, vì ông T2 đã chiếm giữ của Công ty số tiền 5.000.000.000đ
(năm tỷ đồng) trong một thời gian dài. Từ năm 2019 đến nay, ông T2 đã trốn tránh,
nên Công ty không liên lạc được với ông T2. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét
sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Huỳnh Thị Thủy T3 là ông Nguyễn Tiểu L trình bày: bà T3 không đồng ý kháng cáo
của Công ty Đ, vì biên bản ngày 31/8/2019 các bên không có thỏa thuận tính lãi và
kể từ ngày 31/8/2019 cho đến nay, thì thời hiệu khởi kiện đòi tiền lãi cũng đã hết.
Đề nghị Hội đồng xét xử xác định hợp đồng hợp tác giữa Công ty Đ và Công ty B
chấm dứt kể từ ngày 31/8/2019.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm và các đương sự chấp hành đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kháng cáo của nguyên đơn, Công ty Đ đủ điều kiện để
xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo: tại biên bản làm việc ngày 31/8/2019 Công ty Đ và ông
T2 thỏa thuận: ông T2 có nghĩa vụ trả cho Công ty Đ số tiền 2.000.000.000đ (hai tỷ
đồng) vào ngày 15/9/2019, trả số tiền còn lại là 3.000.000.000đ (ba tỷ đồng) vào
ngày 31/9/2019. Đến ngày 16/9/2019, ông T2 không trả số tiền như đã hẹn thì ông
T2 đồng ý công chứng chuyển nhượng 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BX 116409, thửa đất 566 tờ bản đồ số 44, diện tích 12172,6m
2
tại xã P, huyện C,
Thành phố Hồ Chí Minh sang cho Công ty Đ. Như vậy, kể từ khi ký biên bản ngày
31/8/2019, thì xem như 02 công ty đã thanh lý hợp đồng. Công ty B và ông T2 đều
có địa chỉ rõ ràng, nên nếu Công ty Đ muốn khởi kiện thì vẫn thực hiện được. Công
ty Đ không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì để chứng minh rằng Công ty đòi tiền
ông T2 hoặc đã yêu cầu ông T2 chuyển quyền đất nhưng ông T2 không đồng ý hoặc
các đương sự có thỏa thuận khác. Từ ngày 01/10/2019 cho đến ngày Công ty Đ khởi
kiện là đã hết thời hiệu để Công ty Đ đòi tiền lãi. Bị đơn có yêu cầu áp dụng thời
hiệu. Do đó, đề nghị bác kháng cáo của Công ty Đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn, Công ty Đ thực hiện đúng theo quy định
tại Điều 271, Điều 272, Điều 273 và Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên
đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không tự
thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Vụ án được xét xử theo thủ tục
phúc thẩm.
[2] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Tòa án cấp sơ thẩm xác định vụ án tranh chấp đòi tài sản phát sinh từ hợp đồng hợp
tác kinh doanh và thụ lý giải quyết, là đúng quy định tại khoản 2 Điều 26, điểm a
khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về sự vắng mặt của đương sự: người đại diện theo pháp luật của Công ty Đ
và bà Huỳnh Thị Thủy T3 vắng mặt, nhưng có người đại diện theo ủy quyền có mặt;
ông Nguyễn Tất T4, ông Võ Tấn T2 vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; bà Lê
Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, thuộc trường hợp quy định
tại Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nên Tòa án vẫn xét xử phúc thẩm vụ án.
[4] Về phạm vi xét xử phúc thẩm: các đương sự còn lại trong vụ án không
kháng cáo. Nguyên đơn chỉ kháng cáo một phần bản án dân sự sơ thẩm về tiền lãi
do chậm trả. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ
xem xét lại phần nội dung có kháng cáo của bản án sơ thẩm.
[5] Hồ sơ vụ án thể hiện, tại biên bản làm việc ngày 31/8/2019, giữa Công ty Đ
do ông Hà Vũ T đại diện và ông Võ Tấn T2 đã thỏa thuận: ông T2 phải thanh toán
lại cho Công ty Đ số tiền đã ký quỹ 5.000.000.000đ (năm tỷ đồng); việc trả tiền được
chia làm 02 lần: “Lần 1: Đến ngày 15/9/2019 ông T2 sẽ trả trước cho Công ty Đ số
tiền 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng). Lần 2: Ngày 31/9/2019 ông T2 chi trả số tiền
còn lại cho Công ty Đ. Nếu đến ngày 16/9/2019 ông T2 không chi trả số tiền như đã
hẹn thì ông T2 đồng ý công chứng chuyển nhượng 01 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BX 116409 – thửa đất 566 – tờ bản đồ số 44 – diện tích 12.172,6m2 –
địa chỉ thửa đất tại xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, sang cho Công ty Đ.”
(các bút lục số 75-79, 82).
[6] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện nguyên đơn xác định, khi Công ty Đ và
Công ty TNHH B ký hợp đồng hợp tác và phân phối sản phẩm đất nền số
06/2018/HĐDV ký ngày 12/10/2018, thì số tiền 5 tỷ đồng mà ông T2 đã nhận trước
đó ngày 04/8/2018 chính là tiền Công ty Đ thực hiện ký quỹ theo nội dung thỏa
thuận giữa 02 công ty trong hợp đồng hợp tác. Do dự án phân phối sản phẩm đất nền
tại Đ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác ngày 12/10/2018 không có,
nên các bên đã có thỏa thuận ngày 31/8/2019 về việc ông T2 phải trả lại tiền ký quỹ
cho Công ty Đ. Như vậy, kể từ ngày 31/8/2019, hợp đồng hợp tác và phân phối sản
phẩm đất nền số 06/2018/HĐDV ký ngày 12/10/2018 giữa Công ty Đ do ông Hà Vũ
T đại diện và Công ty TNHH B do ông Võ Tấn T2 đại diện đã được các bên thay
đổi nội dung thỏa thuận.
Xét kháng cáo của Công ty Đ về việc yêu cầu ông Võ Tấn T2 trả tiền lãi do
chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền:
[7] Các đương sự thừa nhận, thực hiện thỏa thuận ngày 31/8/2019, ông T2 đã
giao cho Công ty Đ giữ bản chính của giấy chứng nhận QSDĐ của thửa 566 nhưng
đến nay, các bên không thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa
566 (bút lục số 272). Tại đoạn [2.1] phần nhận định của bản án sơ thẩm, Hội đồng
xét xử sơ thẩm đã đánh giá rằng “từ ngày 01/10/2019 đến nay Công ty Đ vẫn không
yêu cầu phía ông T2 ra công chứng chuyển quyền thì không thể buộc ông T2 trả lãi
chậm trả. Ngoài ra Công ty Đ cũng không có chứng cứ gì chứng minh rằng đã yêu
cầu ông T2 chuyển quyền đất nhưng ông T2 không chịu chuyển quyền hoặc các
đương sự có thỏa thuận khác ngoài biên bản ngày 31/8/2019 về tính lãi chậm trả”,
từ đó, bác yêu cầu đòi tiền lãi của Công ty Đ. Nhận định này của Hội đồng xét xử
sơ thẩm là có căn cứ, phù hợp với nội dung thỏa thuận và diễn biến quá trình thực
hiện thỏa thuận ngày 31/8/2019 giữa các bên đương sự.
[8] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm còn nhận thấy rằng, theo thỏa thuận
ngày 31/8/2019, thì thời hạn để ông T2 trả lại số tiền 05 tỷ đồng cho Công ty Đ được
thực hiện vào ngày 16/9/2019 và ngày 31/09/2019. Mặc dù các bên có thỏa thuận,
“nếu đến ngày 16/9/2019 ông T2 không chi trả số tiền như đã hẹn thì ông T2 đồng
ý công chứng chuyển nhượng 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 116409
– thửa đất 566 – tờ bản đồ số 44 – diện tích 12.172,6m2 – địa chỉ thửa đất tại xã P,
huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, sang cho Công ty Đ.”, nhưng nội dung thỏa thuận
này không đề cập đến việc thay thế cho nghĩa vụ của ông T2 trả lại số tiền 03 tỷ
đồng vào ngày 31/9/2019. Như vậy, phải được hiểu rằng, khi ông T2 không trả tiền
cho Công ty Đ vào ngày 16/9/2019 và ngày 31/9/2019, thì tính kể từ ngày
01/10/2019 – thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng, là thời điểm quyền và
lợi ích hợp pháp của Công ty Đ bị xâm phạm.
[9] Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện về
hợp đồng như sau: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp
hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền
và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.”
[10] Theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với
số tiền 05 tỷ đồng mà Công ty Đ đã chuyển khoản ký quỹ cho ông T2 theo thỏa
thuận trong hợp đồng hợp tác, nay Công ty Đ đòi ông T2 và bà Thủy T3 liên đới trả
lại, thì đây là tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu thông
qua giao dịch dân sự, nên không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Ông T2 và bà Thủy
T3 cũng đồng ý trả tiền, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử buộc ông T2 và bà Thủy
T3 liên đới trả cho Công ty Đ số tiền 5.000.000.000đ (năm tỷ đồng), là có căn cứ.
Các đương sự cũng không ai kháng cáo về phần quyết định này của bản án sơ thẩm.
[11] Tuy nhiên, đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền lãi, thì tại cấp sơ thẩm,
ông Trần Nhật V là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Võ Tấn T2 đã yêu
cầu áp dụng thời hiệu đối với phần yêu cầu tiền lãi của Công ty Đ (bút lục số 272).
Tại bảng tường trình ghi ngày 16/4/2025 gửi Tòa án cấp phúc thẩm, ông T2 vẫn giữ
nguyên yêu cầu áp dụng thời hiệu đối với phần tiền lãi mà Công ty Đ tranh chấp yêu
cầu. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện của nguyên đơn cũng thừa nhận ngoài biên
bản ngày 31/8/2019 thì các bên không có thỏa thuận gì khác. Do đó, căn cứ khoản 3
Điều 150, khoản 1 Điều 154, Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Tòa án không
giải quyết yêu cầu tính lãi của Công ty Đ, hủy một phần bản án sơ thẩm và đình chỉ
giải quyết vụ án đối với yêu cầu tính lãi của Công ty Đ, vì đã hết thời hiệu khởi kiện.
Công ty Đ không phải chịu án phí liên quan đến yêu cầu này.
[12] Đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp
luật nên được chấp nhận.
[13] Bản án sơ thẩm ghi nhầm năm của biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0006787, nên cần sửa cho chính xác.
[14] Về án phí dân sự phúc thẩm: do hủy một phần bản án sơ thẩm liên quan
đến yêu cầu kháng cáo, nên Công ty Đ không phải chịu án phí phúc thẩm.
[15] Các phần nội dung khác trong phần quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm
số 328/2024/DS-ST ngày 10 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đức
Hòa, tỉnh Long An không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ Điều 147, Điều 148, khoản 2 và khoản 4 Điều 308, khoản 1 Điều
309, Điều 311 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 150, khoản 1 Điều 154,
Điều 429, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 và Điều 29 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
2. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, Công ty Cổ phần Đ về yêu cầu
tiền lãi.
3. Hủy một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 328/2024/DS-ST ngày 10 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An và đình chỉ giải quyết
vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đ đòi ông Võ Tấn T2 và bà
Huỳnh Thị Thủy T3 phải liên đới trả lãi số tiền 2.455.416.666đ (hai tỷ bốn trăm năm
mươi lăm triệu bốn trăm mười sáu ngàn sáu trăm sáu mươi sáu đồng), do chậm thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả tài sản là số tiền 5.000.000.000đ (năm tỷ đồng) phát sinh từ
hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết ngày 12/10/2018 giữa Công ty Cổ phần
Đ và Công ty TNHH B.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty Cổ phần Đ không phải chịu và được hoàn
trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp tổng cộng là 58.560.000đ (năm mươi tám triệu năm
trăm sáu mươi ngàn đồng) theo các biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án
số 0006787 ngày 31/10/2023 và 0005006 ngày 03/7/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Công ty Cổ phần Đ không phải chịu và được
hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên
lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005672 ngày 23/9/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
6. Các phần khác của bản án sơ thẩm về nghĩa vụ hoàn trả tài sản và chịu án
phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ chịu tiền lãi nếu chậm thi hành án của ông Võ Tấn T2
và bà Huỳnh Thị Thủy T3 không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
7. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo
quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải
thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
8. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Đức Hòa;
- Chi cục THADS huyện Đức Hòa;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, án văn./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Ngọc Hoàng Đình Thục
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm