Bản án số 04/2025/DS-PT ngày 24/04/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 04/2025/DS-PT ngày 24/04/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng hợp tác |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng hợp tác |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lâm Đồng |
Số hiệu: | 04/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Công ty cổ phần X tranh chấp hợp đồng hợp tác thi công Công ty cổ phần Đ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 04/2025/KDTM-PT
Ngày: 24-4-2025
V/v:“Tranh chấp hợp đồng thi công
xây dựng và mua bán hàng hóa”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Bích Thảo
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Ngọc Huyền – Thư ký, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Bà Chu Thị Ngọc –
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 24 tháng 4 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2025/TLPT-KDTM ngày 05 tháng 02
năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng và hợp đồng mua bán
hàng hóa”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2024/KDTM-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 61/2025/QĐ-PT ngày 26
tháng 02 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 50/2025/QĐ-PT
ngày 18 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần X; địa chỉ: số F, đường B, khu đô thị V,
phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Tấn H – Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: bà Bùi Trần Thủy T, sinh năm: 1996; bà
Nguyễn Thư T1, sinh năm: 1998; cùng cư trú tại số F, đường T, phường B, Quận
A, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Hợp đồng ủy quyền số 069/QĐ ngày
06/9/2023).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Nguyễn
2
Hoàng H1 - Công ty L2 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.
- Bị đơn: Công ty cổ phần Đ; địa chỉ: số I, đường B, Phường B, thành phố
Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Đoàn Thị Vân T2 – Chức vụ: Tổng Giám
đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Đăng H2, sinh năm 1991; ông Lê
Xuân P, sinh năm: 1962; bà Trần Thị Kim O, sinh năm: 1995; ông Nguyễn Thái
N, sinh năm: 1981; cùng cư trú tại tầng C, tòa nhà T, số H, phố H, phường Ô,
quận Đ, Thành phố Hà Nội (Văn bản ủy quyền ngày 01/4/2025).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Phạm Thị Mỹ D, sinh năm: 1961; cư trú tại số B, đường P, Phường H,
thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lại Thị L, sinh năm: 1978; cư trú tại số
G, tổ F, phường T, quận L, Thành phố Hà Nội; địa chỉ liên lạc tầng 3, tòa nhà T,
số H, phố H, phường Ô, quận Đ, Thành phố Hà Nội (Văn bản ủy quyền ngày
19/01/2024).
+ Ông Trần Văn C, sinh năm: 1978; cư trú tại số B (số mới 58/8), đường M,
Phường E, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
+ Công ty cổ phần M; địa chỉ: số A, đường số E, K, Phường A, quận G,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Mai Khắc T3 – Chức vụ: Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Chị Phạm Thị L1, sinh năm: 2001; cư trú tại
số B, đường N, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền
ngày 01/2/2024).
+ Bà Đào Thị Hồng K, sinh năm: 1953; cư trú tại số B, đường L, Phường I,
thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
+ Bà Đỗ Thị N1, sinh năm: 1971; cư trú tại tổ B, cụm A, phường T, quận T,
Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Đăng H2, sinh năm 1991; ông Lê
Xuân P, sinh năm: 1962; ông Nguyễn Đỗ V, sinh năm: 1991; cư trú tại tầng 3, tòa
nhà T, số H, phố H, phường Ô, quận Đ, Thành phố Hà Nội (Văn bản ủy quyền
ngày 01/4/2025).
Người kháng cáo: Công ty cổ phần Đ – Bị đơn; Bà Đỗ Thị N1 – Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Đà Lạt.
3
(Bà T1, bà T, ông H2, ông P và luật sư H1 có mặt tại phiên tòa; ông C, bà
K có đơn xin xét xử vắng mặt; các đương sự còn lại vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng bà T là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn trình bày: Công ty cổ phần X (gọi tắt là “Công ty X”) và
Công ty cổ phần Đ (gọi tắt là “Công ty Đ”) có ký kết các hợp đồng thi công xây
dựng và hợp đồng mua bán trang thiết bị. Theo đó, Công ty X là nhà thầu thực
hiện việc thi công xây dựng và hoàn thiện công trình khách sạn G và Công trình
nhà hàng G1 của chủ đầu tư là Công ty Đ. Thông tin các hợp đồng mà hai bên đã
ký kết và thực hiện cụ thể như sau:
Ngày 15/8/2017, Công ty X và Công ty Đ có ký kết Hợp đồng thi công xây
dựng công trình số 25/2017/HĐXD/GVL (sau đây gọi tắt là “Hợp đồng số
25/2017/HĐXD/GVL”) cho công trình khách sạn G với gói thầu thi công xây
dựng phần thô và hai bên có ký kết Phụ lục Hợp đồng số 01 của Hợp đồng số
25/2017/HĐXD/GVL vào ngày 20/11/2017. Việc thi công xây dựng phần thô cho
công trình khách sạn G đã hoàn tất và Công ty X đã bàn giao cho Công ty Đ thông
qua Biên bản nghiệm thu hoàn thành hạng mục công trình để đưa vào sử dụng
ngày 02/3/2019.
Ngày 12/3/2018, Công ty X và Công ty Đ ký kết Hợp đồng thi công xây
dựng công trình số 05/2018/HĐXD/GVL (sau đây gọi tắt là “Hợp đồng số
05/2018/HĐXD/GVL”) với gói thầu thi công xây dựng phần hoàn thiện và cơ
điện, sau đó hai bên ký kết thêm các phụ lục hợp đồng gồm phụ lục hợp đồng số
01, phụ lục hợp đồng số 02, phụ lục hợp đồng số 03 và phụ lục hợp đồng số 05.
Việc thi công xây dựng phần hoàn thiện và cơ điện cho công trình khách sạn G đã
thực hiện hoàn tất, Công ty X đã bàn giao cho Công ty Đ thông qua Biên bản
nghiệm thu hoàn thành hạng mục công trình để đưa vào sử dụng ngày 02/3/2019.
Ngày 23/03/2018, Công ty X và Công ty Đ ký kết Hợp đồng mua bán số
11/2018/HĐ/VNC-TLGOLF (sau đây gọi tắt là “Hợp đồng số 11/2018/HĐ/VNC-
TLGOLF”) và hai bên có ký kết Phụ lục hợp đồng mua bán số 01PL-
11/2018/HĐ/VNC-TLGOLF ký ngày 05/04/2018, Phụ lục hợp đồng mua bán số
02PL-11/2018/HĐ/VNC-TLGOLF ký ngày 05/6/2018.
Ngày 29/5/2018, Công ty X và Công ty Đ ký kết Hợp đồng thi công xây
dựng công trình số 25/2018/HĐXD/GVL (sau đây gọi tắt là “Hợp đồng số
25/2018/HĐXD/GVL”) với gói thầu thi công hệ thống điều hòa không khí và Phụ
lục hợp đồng số 01 của Hợp đồng số 25/2018/HĐXD/GVL ký ngày 24/9/2018.
Việc thi công hệ thống điều hòa không khí và thông gió cho công trình khách sạn
G đã thực hiện hoàn tất, Công ty X đã bàn giao cho Công ty Đ thông qua Biên
bản nghiệm thu hoàn thành hạng mục công trình để đưa vào sử dụng ngày
02/3/2019.
4
Ngày 08/6/2018, Công ty X và Công ty Đ ký kết Hợp đồng mua bán số
16/2018/HĐMB/VNC-TLGOFT (sau đây gọi tắt là “Hợp đồng số
16/2018/HĐMB/VNC-TLGOFT”).
Ngày 05/9/2018, Công ty X và Công ty Đ ký kết Hợp đồng thi công xây
dựng công trình số 32/2018/HĐXD/C1 (sau đây gọi tắt là “Hợp đồng số
32/2018/HĐXD/C1”) và Phụ lục hợp đồng số 01 của Hợp đồng số
32/2018/HĐXD/C1 ký ngày 20/6/2019, Phụ lục hợp đồng số 02 của Hợp đồng số
32/2018/HĐXD/C1 ký ngày 20/9/2019, Phụ lục hợp đồng số 03 của Hợp đồng số
32/2018/HĐXD/C1 ký ngày 15/11/2019. Việc thi công công trình nhà hàng G1
đã thực hiện hoàn tất, Công ty X đã bàn giao cho Công ty Đ thông qua Biên bản
nghiệm thu hoàn thành kết thúc bảo hành công trình số 01/NTKTBH/GVL/VNC
ngày 26/10/2020.
Ngày 03/12/2019, Công ty X và Công ty Đ ký kết Hợp đồng thi công xây
dựng công trình số 33/2019/HĐXD/GVL (sau đây gọi tắt là “Hợp đồng số
33/2019/HĐXD/GVL”) với hạng mục thi công tháo dỡ, di dời tuyến cấp điện và
tiếp địa máy phát điện. Việc thi công tháo dỡ, di dời tuyến cấp điện và tiếp địa
máy phát điện cho công trình khách sạn G đã thực hiện hoàn tất, Công ty X đã
bàn giao cho Công ty Đ thông qua Biên bản nghiệm thu hoàn thành hạng mục
công trình để đưa vào sử dụng số 001/BBNT/HTTC/ELE ngày 15/02/2020.
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng, Công ty X đã tuân thủ và thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của mình theo thoả thuận, hoàn thành đúng hạn các hạng mục
của công trình và hoàn tất các nghĩa vụ về nghiệm thu và bảo hành cho tất cả các
hạng mục của công trình khách sạn G và Công trình nhà hàng G1. Ngày
31/12/2020 là ngày ký quyết toán cho hạng mục cuối cùng mà Công ty X thực
hiện theo Hợp đồng số 33/2019/HĐXD/GVL. Hai bên cũng đã ký các biên bản
nghiệm thu công trình để đưa công trình vào khai thác sử dụng. Kể từ thời điểm
đó đến nay, Công ty X đã nhiều lần liên hệ yêu cầu thanh toán số tiền còn lại theo
các hợp đồng đã ký nhưng Công ty Đ vẫn không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ngày 03/01/2022, thông qua văn bản đối chiếu công nợ, Công ty Đ xác nhận
còn nợ Công ty X số tiền là 28.296.537.181 đồng.
Ngày 24/05/2022, Công ty Đ thanh toán cho Công ty X số tiền là
1.000.000.000 đồng và từ thời điểm đó đến nay. Mặc dù Công ty X đã nhiều lần
gửi thông báo, nhắc nhở, gọi điện thoại, email... kể cả việc đến làm việc trực tiếp
với Công ty Đ nhưng chỉ nhận được những lời hứa sẽ trả tiền từ những người có
trách nhiệm mà không có một thời hạn cụ thể nào cho việc thanh toán số tiền còn
lại là 27.296.537.181 đồng cho Công ty X. Vì vậy Công ty X buộc phải khởi kiện
để yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Cụ thể:

5
TÊN HỢP
ĐỒNG
GIÁ TRỊ HỢP
ĐỒNG (VNĐ)
GIÁ TRỊ QUYẾT
TOÁN
LẦN
THANH
TOÁN
GẦN
NHẤT
SỐ TIỀN
THANH
TOÁN GẦN
NHẤT
TỔNG ĐÃ
THANH TOÁN
CÒN LẠI
Hợp đồng:
25/2017/HĐXD/
GVL Thi công
phần thô
68,287,856,000
63,516,214,025
22/8/2017
1,000,000,000
60,263,187,200
3,253,026,825
Hợp
đồng:
05/2018/HĐXD/
GVL Thi công
hoàn thiện và
ME
78,436,766,801
64,930,141,167
04/04/2018
2,469,000,000
49,027,694,135
15,902,447,032
Hợp
đồng:
11/2018/HĐXD/
GVL Cung cấp
thiết bị vệ sinh
13,150,454,000
13,102,604,000
06/4/2018
3,495,324,900
12,150,362,813
952,241,187
Hợp
đồng:
25/2018/HĐXD/
GVL Thi công
điều hòa không
khí
16,297,223,000
15,480,241,416
12/06/2018
1,213,848,300
12,182,399,900
3,297,841,516
Hợp
đồng:
16/2018/HĐXD/
GVL Cung cấp
công tắc ổ cắm
1,031,485,400
1,070,138,111
10/7/2018
361,000,000
799,742,700
270,395,411
Hợp
đồng:
32/2018/HĐXD/C
1 Thi công xây
dựng và cơ điện
23,491,623,700
22,234,822,557
31/12/2019
500,000
17,833,923,000
4,400,899,557
Hợp
đồng:
33/2019/HĐXD/
GVL Thi công
tuyến cáp ngầm
219,685,286
219,685,286
Chưa thanh
toán
0
0
219,685,286
Tổng:
200,915,094,187
180,553,846,562
152,257,309,748
28,296,536,814
SỐ NỢ + XÁC NHẬN CÔNG NỢ 03/01/2022
28,296,536,814
Xử lý công nợ đối chiếu công nợ 31/12/2022 (+367Đ)
28,296,537,181
Ngày 24/05/2022 bị đơn thanh toán:
1,000,000,000
SỐ CÔNG NỢ HIỆN TẠI THEO ĐƠN KHỞI KIỆN
27,296,537,181
Nay nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là yêu cầu Tòa án giải
quyết bao gồm:
- Buộc Công ty Đ thanh toán đầy đủ một lần ngay khi bản án/quyết định của
Toà án có hiệu lực pháp luật số tiền nợ gốc chưa thanh toán là 27.296.537.181
đồng.
- Buộc Công ty Đ thanh toán đầy đủ một lần ngay khi bản án/quyết định của
Toà án có hiệu lực pháp luật khoản tiền phát sinh nợ quá hạn từ thời điểm ký quyết
toán cho hạng mục cuối cùng là ngày 01/01/2021 đến ngày 23/05/2022 như sau:
Khoản nợ chưa thanh toán là 28.296.537.181 đồng; Thời gian nợ quá hạn tạm tính
từ ngày phát sinh nghĩa vụ thanh toán 01/01/2021 đến ngày 23/05/2022 là 507
ngày; lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay tại thời điểm hiện nay tạm tính
6
là 12%/năm (0,033%/ngày). Tiền lãi (Nợ gốc x số ngày chậm trả x lãi suất chậm
trả) = 28.296.537.181 đồng x 507 ngày x 0,033% = 4.734.293.636 đồng.
- Buộc Công ty Đ thanh toán đầy đủ một lần ngay khi bản án/quyết định của
Toà án có hiệu lực pháp luật khoản tiền phát sinh nợ quá hạn từ ngày 25/05/2022
đến ngày dự kiến Tòa án xét xử sơ thẩm là ngày 25/05/2023 như sau: Khoản nợ
chưa thanh toán là 27.296.537.181 đồng; Thời gian nợ quá hạn tạm tính từ ngày
phát sinh nghĩa vụ thanh toán 25/05/2022 đến ngày 25/05/2023 là 365 ngày; lãi
suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay tại thời điểm hiện nay tạm tính là
12%/năm (0,033%/ngày). Tiền lãi = (Nợ gốc x số ngày chậm trả x lãi suất chậm
trả) 27.296.537.181 đồng x 365 ngày x 0,033% = 3.287.867.904 đồng.
Tổng cộng 35.318.698.720 đồng, số tiền yêu cầu trên đây được tạm tính, tại
thời điểm xét xử sơ thẩm Công ty X sẽ cung cấp chính xác số tiền mà mình yêu
cầu Công ty Đ phải trả.
Ngày 21/12/2023 thì Công ty cổ phần X có thoả thuận về việc bán nợ cho
Công ty cổ phần M.
Tuy nhiên, hai bên không thống nhất được thoả thuận nên chưa phát sinh
quyền và nghĩa vụ liên quan nên hai bên đã tiến hành thanh lý hợp đồng nêu trên
vào ngày 17/01/2024. Cụ thể, biên bản thanh lý hợp đồng và hợp đồng nguyên
đơn sẽ cung cấp cho Toà án sau.
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn luật sư H1 trình bày:
Ngày 21/12/2023 thì Công ty cổ phần X có thoả thuận về việc bán nợ cho Công
ty cổ phần M. Tuy nhiên, hai bên không thống nhất được thoả thuận do hai bên
không đủ điều kiện mua bán nợ. Đề nghị bị đơn xuất trình bản chính Giấy uỷ
quyền của ông H uỷ quyền cho ông Đặng Linh S ngày 20/12/2021 và biên bản
làm việc ngày 21/12/2021.
- Bà Đỗ Thị N1 - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Đ trình bày: Trước thời
điểm thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần có rà soát công nợ, có thông báo cho
các nhà thầu về việc Công ty C1 cổ phần và hai bên thống nhất theo nội dung biên
bản thỏa thuận ngày 27/10/2020.
Để có cơ sở thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần trong tháng
11/2020, bà là Chủ tịch hội đồng quản trị có thay mặt nhóm cổ đông nhận chuyển
nhượng ký vào Biên bản thỏa thuận, hai bên cùng thống nhất thực hiện công tác
chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng Cổ phần theo Biên bản thỏa Thuận đã ký
ngày 27/10/2020.
Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần Đ thanh toán khoản nợ
với số tiền nêu trong đơn khởi kiện là chưa đúng với biên bản xác nhận công nợ
được các bên ký đóng dấu xác nhận trong công tác chuyển nhượng cổ phần và
Biên bản làm việc với nhà thầu được bị đơn cung cấp tài liệu chứng cứ trước phiên
7
tòa. Đề nghị Tòa án thành phố Đ xem xét bảo vệ quyền và lợi ích cho bà là bên
liên quan trong vụ án và bảo vệ quyền lợi cho bị đơn Công ty cổ phần Đ .
- Bà L là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Bị đơn không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì chốt dư nợ nguyên đơn đưa ra
chưa chính xác. Theo biên bản làm việc ngày 21/12/2021 thì dư nợ gốc là
20.384.946.887 đồng; Giá trị khối lượng công trình còn phải thanh toán sau khi
trừ bảo hành 9.027.692.348 đồng, còn lại là 11.357.254.538 đồng. Liên quan đến
công trình xây dựng thì do nguyên đơn là đơn vị nhà thầu, vừa thi công vừa lắp
đặt các thiết bị nên đề nghị nguyên đơn thực hiện nghiệm thu, hoàn thành kết thúc
bảo hành công trình để làm cơ sở chốt công nợ cho chính xác.
Ngày 13/01/2024, Công ty cổ phần M đến công ty của bị đơn gây rối và bị
đơn đã trình báo công an và phía công an có lập biên bản sự việc trên. Công ty cổ
phần X và Công ty cổ phần M đã làm ảnh hưởng đến hoạt động của bị đơn, có
dấu hiệu vi phạm hình sự. Do vậy, việc nguyên đơn khởi kiện bị đơn trong vụ án
thì ngày 21/12/2023, Công ty cổ phần X có thông báo bán nợ cho Công ty cổ phần
M nên đề nghị Toà án xem xét lại tư cách nguyên đơn trong vụ án này. Đề nghị
nguyên đơn cung cấp hợp đồng mua bán nợ giữa nguyên đơn với Công ty cổ phần
M cho Toà án để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án.
Đối với giấy uỷ quyền của công ty cho chị D là chỉ uỷ quyền ký bảng lương
cho công nhân viên trong công ty chứ không uỷ quyền ký xác nhận công nợ với
các nhà thầu. Do đó, đề nghị nguyên đơn hoàn thiện các thủ tục theo quy định của
hợp đồng đã được hai bên ký kết.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông C trình bày: Trước đây ông
làm việc tại Công ty cổ phần Đ; Địa chỉ trụ sở số I B, Phường B, thành phố Đ.
Năm 2017 thì ông được bổ nhiệm làm Kế toán trưởng của công ty. Sau khi chuyển
giao chủ cũ và chủ mới của công ty thì ngày 25/12/2020 ông được chủ mới bổ
nhiệm Kế toán trưởng theo Quyết định số 137/2020/QĐ/GVH ngày 25/12/2020
của Công ty cổ phần Đ.
Trong thời gian ông làm kế toán thì có lập tổng hợp nợ phải trả gồm nợ nhà
thầu và nợ các nhà cung cấp từ kỳ 01/2019 đến kỳ 10/2020; bảng tổng hợp nợ
phải trả cho người bán ngày 28/10/2020 trong đó đúng chữ ký của ông; số liệu
chốt theo bảng ngày 28/10/2020 là dữ liệu giữa kỳ kế toán đang xử lý trên hệ
thống của công ty chứ chưa chốt số nợ cuối cùng của năm. Toàn bộ số liệu, chứng
từ kế toán đều có trên hệ thống phần mềm kế toán và có thể đối chiếu với kiểm
toán, ngân hàng cho vay hoặc cơ quan thuế (Cục thuế tỉnh L). Đến ngày
15/01/2022 thì ông đã nghỉ việc tại công ty, đã hoàn tất thủ tục chấm dứt hợp đồng
lao động. Ông đã bàn giao toàn bộ công việc và sổ sách, chứng từ và đã được nhận
Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động số 02/2022/QĐTV-GVL. Thông thường
khi các nhà thầu chuyển để xác nhận công nợ thì bộ phận Kế toán (gồm 08 người
8
phụ trách phần công nợ, kế toán thanh toán; thủ quỹ; doanh thu; thu mua; tổng
hợp, kế toán kho…) sẽ kiểm tra, đối chiếu toàn bộ chứng từ và số liệu, sổ sách
trên hệ thống phần mềm kế toán rồi mới trình lãnh đạo ký xác nhận.
Việc ngày 03/01/2022 bà Phạm Thị Mỹ D – Phó giám đốc công ty xác nhận
Công ty cổ phần Đ còn nợ Công ty cổ phần X đến ngày 31/12/2021 còn nợ
28.296.536.814 đồng là bộ phận kế toán đã kiểm tra, đối chiếu sổ sách, số liệu
trên hệ thống chốt nợ định kỳ hàng năm vào ngày 31/12 vì trước đó theo bảng báo
cáo tổng hợp nợ phải trả ngày 10/11/2020 trong đó có ghi số dư cuối kỳ của Công
ty cổ phần X số thứ tự 114 là 28.076.851.895 đồng.
Thời điểm đó bà D là phó giám đốc của công ty có ký xác nhận các công nợ
cho các nhà thầu, các công ty, nhà cung cấp…, hồ sơ đi ngân hàng, các cơ quan
chức năng. Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần X thì đề nghị
Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà Đào Thị Hồng K trình bày: Thời
điểm chuyển nhượng 09/11/2020 giữa kỳ nên không mời các Nhà thầu, do việc rà
soát đối chiếu sẽ được thực hiện định kỳ khi chốt công nợ kết thúc năm vào ngày
31/12 và được đại diện có thẩm quyền của các bên xác nhận: Khi chuyển nhượng
bà có ký bản giao chi tiết số công nợ các nhà thầu trong đó có Nhà thầu Việt
Nguyên theo bảng kê bàn giao công nợ, tại thời điểm ngày 10/11/2020 bà có ký
vào bảng Tổng hợp nợ phải trả (nợ nhà thầu) ngày 10/11/2020 để bàn giao số công
nợ nhà thầu cho bên nhận chuyển nhượng cổ phần do bà Đoàn Thị Vân T2 đại
diện ký nhận (đính kèm Bảng Tổng hợp Nợ phải trả nhà thầu ngày 10/11/2020).
Biên bản thỏa thuận ngày 27/10/2020 là biên bản làm việc ban đầu, bà có ký đại
diện Công ty với nội dung số liệu tạm thời để chờ các bộ phận chuyên môn rà
soát, đối chiếu các nội dung phát sinh (nếu có) để phục vụ bàn giao chính thức
được thống nhất vào ngày 10/11/2020 sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần.
Nay nguyên đơn khởi kiện Công ty cổ phần Đ do chậm thanh toán công nợ
thì bà không có ý kiến về việc khởi kiện này, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết
theo quy định pháp luật. Việc chuyển nhượng cổ phần đã thực hiện theo quy định
pháp luật, theo đó giá chuyển nhượng đã thống nhất giữa hai bên là giá chuyển
nhượng quyền sở hữu 100% vốn cổ phần. Cổ đông Bên chuyển nhượng chuyển
giao toàn bộ quyền và nghĩa vụ tại Công ty C2 nhận chuyển nhượng.
Bà khẳng định số liệu công nợ của các nhà thầu theo các hợp đồng thi công
đã được bàn giao giữa hai bên là theo đúng số ghi nhận trên sổ sách chứng từ kế
toán tại thời điểm bàn giao ngày 10/11/2020 và số liệu đã được kiểm toán xác
nhận, đã báo cáo quyết toán thuế hàng năm. Hạn thanh toán các khoản công nợ
(bao gồm thanh toán nợ cho các Nhà thầu) theo điều khoản cam kết tại hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần là 90 ngày từ ngày ký hợp đồng ngày 09/11/2020 (cũng
9
phù hợp với tiến độ mong muốn của các Nhà thầu). Tuy nhiên, đến nay công nợ
đã quá hạn quá lâu mà chưa thanh toán hết và chưa được gia hạn tiến độ thanh
toán dẫn đến bị khởi kiện
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2024/KDTM-ST ngày 26
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần X về việc
“Tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng và hợp đồng mua bán hàng hóa” với bị
đơn Công ty cổ phần Đ.
Buộc bị đơn Công ty cổ phần Đ phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn
Công ty cổ phần X số tiền 39.732.548.782 đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi
hành án của các bên đương sự.
Ngày 09/10/2024, bị đơn Công ty cổ phần Đ, kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm.
Ngày 11/10/2024 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị N1 kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 18/QĐ- VKS- KDTM ngày 10/10/2024
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt đề nghị căn cứ khoản
3, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, hủy bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay: Đại diện bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ông P trình bày bị đơn chỉ đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền 21.165.261.639
đồng, không đồng ý trả lãi.
Đại diện nguyên đơn không đồng ý với kháng cáo của bị đơn, kháng cáo của
bà N1 và kháng nghị của Viện kiểm sát, đề nghị giải quyết như án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, tại
giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay, đã chấp hành đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đồng thời, đề nghị HĐXX: chấp nhận kháng nghị của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt; chấp nhận một phần kháng
cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà N1. Căn cứ khoản 3,
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hủy bản án Kinh doanh thương mại
sơ thẩm, chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt xét xử lại vụ án
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
10
[1] Về quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của Công ty cổ phần Đ, bà Đỗ
Thị N1, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt;
người kháng cáo, kháng nghị và thủ tục kháng cáo, kháng nghị được thực hiện
đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273, 278 Bộ luật Tố tụng dân sự nên
đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Theo hồ sơ thể hiện, từ ngày 15/8/2017 đến ngày 03/12/2019 Công ty cổ
phần X (sau đây viết tắt là Công ty X) và Công ty cổ phần Đ (viết tắt là Công ty
Đ) có ký kết 05 hợp đồng thi công xây dựng và 02 hợp đồng mua bán trang thiết
bị. Theo đó, Công ty X là nhà thầu thực hiện việc thi công xây dựng và hoàn thiện
công trình khách sạn G, nhà hàng G1. Đến tháng 11/2020, các cổ đông của Công
ty Đ chuyển nhượng 100% vốn cổ phần cho nhóm đầu tư gồm bà Đỗ Thị N1, bà
Đoàn Thị Vân T2, bà Nguyễn Thu H3.
Công ty X cho rằng, trong quá trình thực hiện các hợp đồng, phía nguyên
đơn đã tuân thủ và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, hoàn thành đúng các hạng
mục công trình, các nghĩa vụ nghiệm thu, bảo hành cho các hạng mục công trình
khách sạn, nhà hàng G1. Ngày 31/12/2020 là ngày ký quyết toán cho hạng mục
cuối cùng mà Công ty X thực hiện theo Hợp đồng số 33/2019/HĐXD/GVL. Hai
bên cũng đã ký các biên bản nghiệm thu để đưa công trình vào khai thác, sử dụng.
Theo văn bản đối chiếu công nợ ngày 03/01/2022 Công ty Đ xác nhận còn nợ
Công ty X số tiền 28.296.537.181đ. Ngày 24/5/2022, Công ty Đ đã thanh toán
cho Công ty X số tiền 1.000.000.000 đồng. Công ty X đã nhiều lần yêu cầu Công
ty Đ thanh toán số tiền còn lại nhưng phía bị đơn chỉ hứa hẹn trả nợ. Do đó, Công
ty X khởi kiện yêu cầu Công ty Đ thanh toán số tiền nợ là 27.296.537.181 đồng
và tiền lãi 12.436.011.601 đồng.
Công ty Đ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho rằng bị
đơn chỉ còn nợ nguyên đơn số tiền 20.384.946.887 đồng theo biên bản làm việc
ngày 21/12/2021.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn, bà N1 và kháng nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, thì thấy rằng:
[3.1] Về tố tụng: Khoản 4, Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy
định “Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy
không khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác
đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”. Trong vụ án này, nguyên đơn khởi kiện yêu
cầu bị đơn thanh toán tiền nợ, theo văn bản đối chiếu công nợ đã ký giữa nguyên
đơn với bị đơn là tranh chấp giữa pháp nhân với pháp nhân. Việc chuyển nhượng
cổ phần của Công ty Đ các bên không tranh chấp. Vì vậy, các cổ đông cũ không
11
có quyền lợi, nghĩa vụ trong vụ án nên không phải đưa họ vào tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
[3.2] Về nội dung: Công ty X cung cấp tài liệu, chứng cứ là giấy xác nhận
nợ ngày 03/01/2022 và thư xác nhận dư nợ ngày 13/4/2021 của Công ty Đ do bà
Phạm Thị Mỹ D – Phó giám đốc ký xác nhận nợ với Công ty X số tiền dư nợ là
28.296.537.181 đồng. Phía bị đơn cho rằng bà D chỉ được ủy quyền kí duyệt
chứng từ chi lương cho cán bộ nhân viên tại Ngân hàng, không được đại diện cho
công ty để kí xác nhận nợ. Phía bị đơn chỉ thừa nhận còn nợ Công ty X số tiền
20.384.946.887 đồng theo Biên bản làm việc giữa nguyên đơn và bị đơn ngày
21/12/2021. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, ông C nguyên là kế toán trưởng
của Công ty Đ trình bày: Khi các nhà thầu chuyển để xác nhận công nợ thì bộ
phận Kế toán (gồm 08 người phụ trách phần công nợ, kế toán thanh toán; thủ quỹ;
doanh thu; thu mua; tổng hợp, kế toán kho…) sẽ kiểm tra, đối chiếu toàn bộ chứng
từ và số liệu, sổ sách trên hệ thống phần mềm kế toán rồi mới trình lãnh đạo ký
xác nhận. Việc ngày 03/01/2022, bà Phạm Thị Mỹ D – Phó giám đốc công ty xác
nhận Công ty Đ còn nợ Công ty cổ phần X đến ngày 31/12/2021 còn nợ
28.296.537.181 đồng là bộ phận kế toán đã kiểm tra, đối chiếu sổ sách, số liệu
trên hệ thống chốt nợ định kỳ vào ngày 31/12 hàng năm. Ngoài ra, bà Đào Thị
Hồng K nguyên Tổng giám đốc Công ty Đ cũng khẳng định số liệu công nợ của
các nhà thầu theo các hợp đồng thi công đã được bàn giao giữa hai bên là theo
đúng số ghi nhận trên sổ sách, chứng từ kế toán tại thời điểm bàn giao 10/11/2020.
Số liệu cũng đã được kiểm toán xác nhận và đã báo cáo quyết toán thuế hàng năm.
Hạn thanh toán các khoản nợ (bao gồm nợ các nhà thầu) theo điều khoản cam kết
là 90 ngày kể ngày từ ngày ký hợp đồng 09/11/2020. Mặt khác, bà Đoàn Thị Vân
T2 là cổ đông nhận chuyển nhượng cổ phần, cũng là người thân (con gái) của bà
Đỗ Thị N1 và hiện tại bà T2 là Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đ. Tại thời điểm
nhận chuyển nhượng cổ phần, bà T2 là người trực tiếp điều hành công ty, đại diện
chủ đầu tư ký toàn bộ hồ sơ bàn giao chi tiết chính thức ngày 10/11/2020 gồm:
Biên bản bàn giao quỹ tiền mặt; Bảng kiểm kê và bàn giao quỹ tiền gửi ngân hàng;
Tổng hợp nợ phải thu tạm ứng (TK141); Tổng hợp nợ phải thu (KT138); Tổng
hợp nợ phải trả đến ngày 10//11/2020; Tổng hợp nợ phải trả (TK341); Tổng hợp
nợ phải trả (TK335).
Ngày 03/01/2022 Công ty Đ xác nhận còn nợ Công ty X số tiền
28.296.537.181 đồng, đến ngày 24/05/2022 Công ty Đ đã thanh toán cho Công ty
X số tiền là 1.000.000.000 đồng. Như vậy, từ ngày xác nhận nợ đến khi trả nợ
1.000.000.000 đồng là 04 tháng 21 ngày, bị đơn và bà N1 không thắc mắc gì liên
quan đến số tiền nợ, người ký xác nhận nợ, tư cách đại diện của bà T2 mà vẫn trả
nợ một phần nợ. Chỉ đến khi nguyên đơn khởi kiện thì bị đơn mới nại ra các lý do
để trì hoãn việc trả nợ. Do đó, kháng nghị của Viện kiểm sát cho rằng Tòa án cấp
12
sơ thẩm không thu thập chứng cứ để làm rõ tư cách đại diện của bà D, ông S, bà
T2, chưa làm rõ mâu thuẫn về số tiền nợ là không có cơ sở chấp nhận.
Như đã phân tích trên, hạn thanh toán các khoản công nợ (bao gồm nợ các
nhà thầu) theo điều khoản cam kết là 90 ngày kể ngày từ ngày ký hợp đồng ngày
09/11/2020 nên thời gian bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán được tính từ ngày
10/02/2021. Đồng thời, trong quá trình thực hiện các hợp đồng, phía nguyên đơn
đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận, hoàn thành đúng các hạng
mục công trình. Hoàn tất các nghĩa vụ về nghiệm thu, bảo hành cho tất cả các
hạng mục công trình nhà hàng G1, biên bản số 01 NTKTBH/GVL/VNC, nghiệm
thu hoàn thành kết thúc bảo hành công trình nhà hàng G1 ngày 26/10/2020
(BL142), khách sạn G (Biên bản số 01/NTKTBH/GVL/VNC ngày 15/10/2020
nghiệm thu hoàn thành kết thúc bảo hành công trình khách sạn G).
Tại phiên tòa hôm nay đại diện bị đơn cung cấp bản phô tô Biên bản làm
việc ngày 20/12/2021 “V/v công tác nghiệm thu các tồn đọng và thanh toán bảo
hành công trình hợp đồng thi công khách sạn, nhà hàng G1” là sau thời điểm các
bên đã ký Biên bản nghiệm thu hoàn thành kết thúc bảo hành đã nêu ở trên. Đại
diện bị đơn ông H2 cũng xác nhận phía bị đơn đã nhận bàn giao công trình khách
sạn, nhà hàng G1 và đưa vào khai thác, sử dụng. Do đó, kháng nghị của Viện kiểm
sát cho rằng: các thư xác nhận nợ không thể hiện thời hạn cụ thể bị đơn phải thực
hiện nghĩa vụ trả nợ. Giá trị bảo hành công trình là 5% nhưng hồ sơ vụ án không
thể hiện tài liệu chứng cứ liên quan đến việc nghiệm thu hoàn tất bảo hành công
trình nên chưa có căn cứ để xác định thời điểm phía bị đơn vi phạm nghĩa vụ là
không có cơ sở.
Theo Biên bản xác nhận nợ ngày 03/01/2022 Công ty Đ còn nợ Công ty X
số tiền 28.296.537.181 đồng, các bên đều thừa nhận ngày 24/05/2022 Công ty Đ
đã thanh toán cho Công ty X số tiền 1.000.000.000 đồng. Do đó, nguyên đơn yêu
cầu bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 27.296.537.181 đồng là có căn cứ chấp
nhận.
Về tiền lãi: Tại điểm b, Điều 11 Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số
01/2020/HĐCNCP ngày 09/11/2020 (BL số 889) hạn thanh toán các khoản công
nợ (bao gồm nợ thanh toán cho các nhà thầu và công nợ liên quan vay cá nhân) là
90 ngày từ ngày ký hợp đồng 09/11/2020. Do đó, đối với khoản nợ bị đơn chưa
trả cho nguyên đơn đến ngày 10/02/2021 được xác định là chậm thanh toán.
Căn cứ quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 thì: “Quyền yêu
cầu tiền lãi do chậm thanh toán: Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh
toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì
bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó
theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương
13
ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có
quy định khác”.
Cấp sơ thẩm không xác minh mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại, áp dụng mức lãi suất 12%/năm
là không phù hợp. Theo biên bản xác minh ngày 21/4/2025 của Tòa án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng tại: Ngân hàng thương mại cổ phần N2, Ngân hàng thương mại
cổ phần C3, Ngân hàng N3 chi nhánh L3 thì mức lãi suất áp dụng đối với lãi chậm
trả không vượt quá 10%/ năm. Đối với số tiền 1.000.000.000 đồng bị đơn đã trả
trước khi nguyên đơn khởi kiện, cấp sơ thẩm tính tiền lãi từ ngày 01/01/2021 đến
ngày 23/05/2022 mức lãi suất là 12%/năm là không có cơ sở.
Tiền lãi của số nợ 27.296.537.181 đồng được tính từ ngày 10/02/2021 đến
ngày 26/9/2024 (ngày xét xử sơ thẩm) là 43 tháng 16 ngày, với mức lãi suất
10%/năm (0.83%/tháng). Cụ thể, 27.296.537.181 đồng x 0.83%/tháng x 43 tháng
16 ngày = 9.862.966.765 đồng.
Như vậy, tổng số tiền bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn là
27.296.537.181 đồng + 9.862. 966.765 đồng. = 37.159.503.946 đồng.
Đối với việc chuyển nhượng cổ phần của Công ty Đ các bên không tranh
chấp nên không đề cập.
Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của Công
ty cổ phần Đ và bà Đỗ Thị N1, không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng viện
kiểm sát nhân dân thành phố Đà lạt. Sửa bản án sơ thẩm về tiền lãi như đã nhận
định.
[4] Về án phí:
Nguyên đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đối với số tiền
yêu cầu tính lãi không được chấp nhận là 2.573.044.836 đồng. Cụ thể, [44.000.000
đồng + (0,1% x 573.044.836 đồng)] = 44.573.045 đồng.
Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm đối với số tiền phải
thanh toán cho nguyên đơn số tiền là 37.159.503.946 đồng. Cụ thể, [112.000.000
đồng + (0,1% x 33.159.503.946)] = 145.159.504 đồng.
Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị đơn và bà N1 không
phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
14
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty cổ phần Đ và bà Đỗ Thị N1,
không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân thành phố
Đà lạt, sửa bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần
X về việc “Tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng và hợp đồng mua bán hàng
hóa” với bị đơn Công ty cổ phần Đ.
Buộc bị đơn Công ty cổ phần Đ phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn
Công ty cổ phần X số tiền 37.159.503.946 đồng (Ba mươi bảy tỷ, một trăm năm
mươi chín triệu, năm trăm linh ba ngàn, chín trăm bốn sáu đồng). Trong đó, số
tiền còn lại phải thanh toán là 27.296.537.181 đồng, số tiền lãi chậm trả là
9.862.966.765 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí:
Buộc Công ty Công ty cổ phần X phải chịu 44.573.045 đồng án phí kinh
doanh thương mại sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 71.659.000 đồng tạm ứng
án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0002435 ngày 14/11/2022 của Chi cục thi hành
án dân sự thành phố Đà Lạt. Hoàn trả lại cho Công ty X số tiền 27.085.955 đồng.
Buộc Công ty cổ phần Đ phải chịu 145.159.504 đồng án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 2.000.000 đồng tạm ứng án đã
nộp theo Biên lai thu số 0001260 ngày 15/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Đà Lạt. Công ty cổ phần Đ còn phải nộp số tiền 143.159.504 đồng.
Hoàn trả cho bà Đỗ Thị N1 số tiền 2.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu số 0001259 ngày 15/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Đà Lạt.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
15
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
Nguyễn Thị Bích Thảo
Vũ Thị Nguyệt
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng TTr, KT&THA (01);
- TAND thành phố Đà Lạt (01);
- Chi cục THADS thành phố Đà Lạt (01);
- Đương sự (07);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm