Bản án số 99/2025/DS-PT ngày 13/05/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 99/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 99/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 99/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 99/2025/DS-PT ngày 13/05/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng hợp tác |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 99/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hoàng Minh Đ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
——————————
Bản án số: 99/2025/DS-PT
Ngày: 13/5/2025
V/v “Yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ trả tiền”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
——————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Ngọc Anh
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Thanh Mai
Bà Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Bá Huy - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng tham gia phiên tòa:
Ông Lê Anh Pha - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử phúc thẩm công khai
vụ án thụ lý số 09/2025/TLPT-DS ngày 05/02/2025, về việc
“Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 162/2024/DS-ST ngày 29/11/2024 của Tòa án
nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 128/2025/QĐPT-DS ngày
04/4/2025; Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 203/2025/QĐ-PT ngày
17/4/2025 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Hoàng Minh Đ, sinh năm: 1987 và bà Doãn Thị V, sinh
năm: 1986; Cùng địa chỉ: Số … đường ĐMK, phường H, quận L, thành phố Đ.
- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngọc H, sinh
năm: 2001; Địa chỉ: Tổ …, phường HK, quận L, thành phố Đ; Địa chỉ liên hệ: …
đường TPT, phường K, quận C, thành phố Đ. (Theo Giấy ủy quyền ngày
17/11/2023). Có mặt
2
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thu
H, sinh năm: 1993 – Văn phòng Luật sư P thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đ. Địa chỉ:
Số … đường TPT, phường K, quận C, thành phố Đ. Có mặt
* Bị đơn: Ông Lê Vũ Minh T, sinh năm: 1982 và bà Trần Thị Thu H, sinh
năm: 1987; Địa chỉ: Số… đường B, phường Th, quận H, thành phố Đ. Ông T có
mặt, bà H vắng mặt
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Trần Thị Thanh L,
sinh năm: 1993 và ông Trần Th, sinh năm: 1964 - Văn phòng Luật sư L thuộc Đoàn
Luật sư thành phố H. Địa chỉ: … đường NB, phường …, quận T, thành phố H. Bà L,
ông Th đều có mặt
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Hoàng Minh Đ. (bà Lê Thị Ngọc H đại
diện theo ủy quyền có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án dân sự sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
* Nguyên đơn ông Hoàng Minh Đ, bà Doãn Thị V trình bày:
Năm 2018, vợ chồng ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H có nói chuyện
với Ông Hoàng Minh Đ và Bà Doãn Thị V về viêc ông T, bà H được quyền ưu tiên
mua 60.000 cổ phần, tương ứng với 3% vốn điều lệ của Công ty cổ phần ĐX ĐN
(nay đổi tên là Công ty cổ phần Đô Thị TM VN). Trên cơ sở trao đổi trò chuyện thì
vợ chồng ông T, bà H nói với ông Đ, bà V tài chính chỉ đủ mua 40.000 cổ phần và
muốn ông Đ, bà V góp tiền mua 20.000 cổ phần tương ứng với 1% vốn điều lệ của
Công ty.
Do vậy, ngày 29/11/2018, bà Doãn Thị V đã chuyển khoản thành công số tiền
200.000.000 (Hai trăm triệu đồng) cho vợ chồng ông T, bà H thông qua số tài khoản
của bà H.
Ngày 02/12/2018, hai bên ký kết với nhau Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
số 01/2018/HĐCNCP-DXDN để ghi nhận các nội dung thỏa thuận và công việc
thực hiện. Tuy nhiên đến tháng 07/2020, cổ phiếu Công ty đã đủ điều kiện để được
tự do chuyển nhượng theo quy định của Điều lệ Công ty nhưng vợ chồng ông T, bà
H đã không tiến hành các thủ tục trình báo đến Công ty để ghi nhận, xác lập tư cách
cổ đông tại Công ty theo như cam kết đã thỏa thuận trong Hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần số 01/2018/HĐCNCP-DXDN ngày 02/12/2018.
Trong khi Hợp đồng vẫn đang còn hiệu lực ngày 26/08/2021, ông T đã
chuyển nhượng toàn bộ số cổ phần tương ứng với 3% vốn điều lệ Công ty cho ông
Trần Ngọc Th – Cổ đông tại Công ty với tổng giá trị là 2.642.640.000 đồng (Hai tỷ,
sáu trăm bốn mươi hai triệu, sáu trăm bốn mươi ngàn đồng).
3
Sau đó, ông T đã liên hệ với ông Đ, bà V để thanh toán 640.000.000 đồng
(Sáu trăm bốn mươi triệu đồng), là giá trị mà ông T xác định trả cho ông Đ, bà V
đối với phần cổ phần mà ông Đ, bà V mua chung với ông T. Tuy nhiên, ông Đ bà V
không đồng ý với yêu cầu nêu trên và yêu cầu ông T, bà H thanh toán đủ số tiền
880.000.000 đồng (Tám trăm tám mươi triệu đồng). Ngày 25/09/2021, bà H thông
qua tài khoản ngân hàng, chuyển lại cho ông Đ, bà V số tiền là 200.000.000 đồng
(Hai trăm triệu đồng).
Sau nhiều lần hai bên liên hệ với nhau, ông T, bà H chỉ đưa ra số tiền là
640.000.000 đồng (Sáu trăm bốn mươi triệu đồng) - số tiền hoàn trả lại cho ông Đ,
bà V từ giao dịch ông T, bà H và ông Th. Ông Đ, bà V đã không đồng ý với yêu cầu
nêu trên. Gần đây sau khi được Luật sư tư vấn, ông Đ, bà V đã chủ động liên hệ để
hòa giải giữa các bên và chấp nhận số tiền 640.000.000 đồng (Sáu trăm bốn mươi
triệu đồng). Nhưng ông T và bà H chỉ chấp nhận trả lại cho ông Đ, bà V
340.000.000 đồng (Ba trăm bốn mươi triệu đồng), sau khi trừ các chi phí thiệt hại,
phí thuê Luật sư và các chi phí khác là 100.000.000 đồng.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm ông Hoàng Minh Đ, sinh
năm: 1987 và bà Doãn Thị V yêu cầu Tòa án buộc ông Lê Vũ Minh T và bà Trần
Thị Thu H trả lại số tiền 440.000.000 đồng (Bốn trăm bốn mươi triệu đồng) Theo
thỏa thuận tại Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số 01/2018/HĐCNCP – DXDN
ngày 02/12/2018.
Bác yêu cầu phản tố vợ chồng ông Lê Vũ Minh T và bà Trần Thị Thu H về
việc yêu cầu nguyên đơn thanh toán số tiền 50% số tiền lợi nhuận chung
440.000.000 đồng (Bốn trăm bốn mươi triệu đồng).
* Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H
trình bày:
Ông Lê Vũ Minh T trình bày: Vào thời điểm cuối năm 2018, khi tôi (Lê Vũ
Minh T) đang là Kế toán trưởng tại Công ty Cổ Phần ĐX ĐN, mã số thuế
0401844762 (nay là Công ty Cổ Phần Đô Thị TM VN, sau đây gọi tắt là Công ty),
tôi được quyền ưu tiên mua 03% cổ phần của Công ty. Trong khi đó, vợ chồng ông
Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V cũng là nhân viên làm việc tại Công ty nhưng
không được quyền ưu mua cổ phần của Công ty (Công ty không cho vợ chồng ông
Đông – bà Vân mua, mà chỉ cho tôi mua).
Sau đó, với lý do muốn kiếm tiền lời nuôi con, vợ chồng ông Đ – bà V đã năn
nỉ tôi cho góp 01% cổ phần trong số 03% cổ phần tôi được quyền ưu tiên mua từ
Công ty, và ông Đ – bà V để tôi đứng tên hộ 01% cổ phần đó (trị giá 01% cổ phần là
200.000.0000 đồng). Thấy gia đình vợ chồng ông Đông - bà Vân là chỗ đồng
nghiệp, lại cùng quê với vợ chồng tôi, nhằm tạo điều kiện cho ông Đ – bà V kiếm
tiền lời nuôi con, tôi mới đứng tên dùm 01% cổ phần này. Tôi cũng mặc nhiên nghĩ
rằng đứng tên hộ thì được trả tiền công.

4
Vì tôi đứng tên hộ 01% cổ phần trên cho vợ chồng ông Đ – bà V nên danh sách
cổ đông của Công ty không có tên của vợ chồng ông Đ – bà V. Về mặt pháp lý, tôi
mới là cổ đông của Công ty, ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V không có tư cách
cổ đông gì trong Công ty.
Đến thời điểm tôi rời khỏi Công ty thì tôi đã báo với ông Đ – bà V yêu cầu ông
Đ – bà V chuyển 01% cổ phần mà tôi đứng tên hộ sang cho người khác hoặc là để
tôi đứng tên bán lấy tiền. Sau đó, vợ chồng ông Đ – bà V để tôi đứng tên bán 01%
số cổ phần mà tôi đã đứng tên hộ.
Sau khi tôi đứng ra giao dịch bán xong cổ phần thì vợ tôi (bà Nguyễn Thị Thu
H) đã chuyển khoản vào tài khoản của bà Doãn Thị V trả lại 200.000.000 đồng (Hai
trăm triệu đồng) tiền gốc mua cổ phần lúc ban đầu. Số tiền 440.000.000 đồng (Bốn
trăm bốn mươi triệu đồng) tiền lợi nhuận chung phát sinh từ việc tôi đứng tên mua
bán 01% cổ phần của Công ty thì tôi có nhã ý tặng cho vợ chồng ông Đ – bà V,
không tính tiền công mà tôi đứng tên hộ (thương thảo, đàm phán mua - bán cổ phần,
làm tăng giá trị cổ phần). Tuy nhiên, trong quá trình đang xem xét việc đòi tiền công
đứng tên hộ hay là tặng cho vợ chồng ông Đ – bà V thì vợ chồng ông Đ – bà V khởi
kiện vợ chồng chúng tôi ra Toà cho nên vợ chồng chúng tôi không tặng cho vợ
chồng ông Đ – bà V tiền công đứng tên hộ nữa.
Từ những nội dung đã trình bày ở trên, nay vợ chồng chúng tôi có yêu cầu phản
tố như sau:
- Yêu cầu vợ chồng ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V thanh toán cho vợ
chồng chúng tôi 50% số tiền lợi nhuận chung 440.000.000 đồng (Bốn trăm bốn
mươi triệu đồng) phát sinh từ việc mua bán cổ phần do ông Lê Vũ Minh T là người
đứng tên hộ cổ phần cho vợ chồng ông Đ, bà V, tương đương số tiền 220.000.000
đồng (Hai trăm hai mươi triệu đồng)
* Với nội dung nêu trên tại Bản án dân sự số 162/2024/DS-ST ngày
29/11/2024 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã xử và
quyết định:
- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 165; 166; 275; 513; 519 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30.12.2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm, quản lý sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc: ―Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
trả tiền‖ của ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V đối với ông Lê Vũ Minh T, bà
Trần Thị Thu H.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H
đối với ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V
5
Án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V phải chịu án phí dân sự sơ
thẩm do không được chấp nhận yêu cầu là 21.600.000 đồng
Ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V đã nộp tạm ứng án phí dân sự
10.800.000 đồng tại biên lai thu số 0007721 ngày 03/8/2023 tại Chi cục Thi hành án
dân sự quận Hải Châu, TP Đà Nẵng. Ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V tiếp tục
nộp số tiền án phí là 10.800.000 đồng.
Bị đơn Lê Vũ Minh T và bà Trần Thị Thu H phải chịu phải chịu án phí dân sự
sơ thẩm do không được chấp nhận yêu cầu là: 11.000.000đ
Ông Lê Vũ Minh T và bà Trần Thị Thu H đã nộp tạm ứng án phí dân sự
6.250.000 đồng tại biên lai thu số 0000158 ngày 8/4/2024 tại Chi cục Thi hành án
dân sự quận Hải Châu, TP Đà Nẵng. ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V tiếp tục
nộp số tiền án phí là 4.750.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành
án.
* Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/12/2024 ông Hoàng Minh Đ kháng cáo với
nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm theo
hướng chấp thuận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Minh Đ, bà Doãn Thị V buộc
ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H thanh toán cho nguyên đơn theo các thỏa
thuận giữa hai bên số tiền là 440.000.000 đồng, đồng thời bác yêu cầu phản tố của bị
đơn.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng phát
biểu về quan điểm giải quyết vụ án như sau:
+ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
ở giai đoạn phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về quan điểm giải quyết: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Hoàng Minh Đ. Sửa một phần Bản án
dân sự số 162/2024/DS-ST ngày 29/11/2024 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng. Buộc ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H phải trả cho ông
Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V số tiền 440.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn là bà Trần Thị Thu H
vắng mặt. Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét
xử vắng mặt đương sự trên.
6
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của Hoàng Minh Đ về việc buộc ông Lê Vũ
Minh T và bà Trần Thị Thu H phải thanh toán cho ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn
Thị V số tiền 440.000.000 đồng, thì thấy:
Giữa ông Hoàng Minh Đ, bà Doãn Thị V và ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị
Thu H có ký Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số 01/2018/HĐCNCP-DXDN ngày
02/12/2018, theo thỏa thuận ông Đ, bà V đã chuyển cho ông T, bà H số tiền
200.000.000 đồng để sở hữu số lượng cổ phần 20.000 cổ phần tương đương 1% cổ
phần của Công ty Cổ phần ĐX.
Ngày 15/3/2019, ông Lê Vũ Minh T và ông Trần Ngọc Th kí kết Hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần số 01/2019/HĐCNCP–DXDN. Theo đó ông Trần Ngọc Th
đã chuyển nhượng cho ông T 3% cổ phần Công ty ĐX.
Ngày 26/8/2021 ông Lê Vũ Minh T ký hợp đồng với ông Trần Ngọc Th về
việc chuyển nhượng 3% cổ phần của ông T cho ông Th tương đương số tiền
2.642.640.000 đồng.
Ngày 25/9/2021, bà H chuyển trả cho vợ chồng bà V, ông Đ số tiền gốc
200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng). Do không thống nhất số tiền lợi nhuận chia
từ việc mua 1% cổ phần nên vợ chồng bà V, ông Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc
vợ chồng ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H trả lại cho vợ chồng bà V, ông Đ
số tiền 440.000.000 đồng (Bốn trăm bốn mươi triệu đồng) căn cứ vào thỏa thuận tại
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số 01/2018/HĐCNCP – DXDN ngày 02/12/2018.
Tại Bản án sơ thẩm số 162/2024/DS-ST ngày 29/11/2024 của Tòa án nhân
dân quận Hải Châu cho rằng: Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số
01/2018/HĐCNCP-DXDN được kí kết ngày 02/12/2018 giữa hai bên, HĐXX xét
thấy: Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/8/2023 tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu,
ông Đ xác định khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận Hải Châu là để yêu cầu vợ
chồng ông T, bà H thực hiện nghĩa vụ trả tiền, không yêu cầu giải quyết tranh chấp
đối với hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số 01/2018/HĐCNCP-DXDN được kí kết
ngày 02/12/2018. Đây là văn bản thỏa thuận giữa hai bên, tại thời điểm này vợ
chồng ông T, bà H chưa được mua 3% cổ phần của Công ty ĐX. Giấy chứng nhận
sở hữu cổ phần Công ty Cổ phần ĐX ĐN chứng nhận cho ông Lê Vũ Minh T với tỉ
lệ 3% được cấp vào ngày 31/8/2019. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số
01/2018/HĐCNCP-DXDN được kí kết ngày 02/12/2018 giữa vợ chồng ông T, bà H
với ông Đ, bà V khi ông T chưa có số cổ phần trên và chưa có quyền chuyển
nhượng cổ phần đối với số cổ phần 3% được mua từ Công ty ĐX. Do đó hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần số 01/2018/HĐCNCP-DXDN được kí kết ngày 02/12/2018
không phát sinh hiệu lực pháp luật, nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V.
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Bản chất giao dịch hợp đồng số
01/2018/HĐCNCP-DXDN được kí kết ngày 02/12/2018 giữa vợ chồng ông T, bà H
với ông Đ, bà V là góp vốn mua cổ phần, điều này đã được thể hiện ở nội dung trình
7
bày của ông T tại Biên bản làm việc ngày 28/9/2021 ―…Lý do ký kết hợp đồng này
là vì tại thời điểm 2018 tôi không đủ tiềm lực tài chính mua 3% cổ phần này, theo
đó, tôi đã cam kết bán 1% cổ phần của Công ty cho vợ chồng ông Đ khi cổ phần đủ
điều kiện chuyển nhượng. Tôi đã nhận được 200.000.000 đồng tiền mua cổ phần từ
vợ chồng ông Đ thông qua tài khoản ngân hàng vào ngày 29/11/2018‖; Nội dung tin
nhắn của bà Trần Thị Thu H tại Vi bằng số 453/VB-TPLTT ngày 13/10/2023 cũng
thể hiện có việc góp tiền giữa ông Đ, bà V với ông T, bà H. Ngoài ra ông T cũng đã
thừa nhận tại Biên bản hòa giải ngày 24/6/2024 của Tòa án nhân dân quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng đã nhận được số tiền thanh toán nhận chuyển nhượng cổ
phần 3% tương đương 2.642.640.000 đồng mà ông đã chuyển nhượng cho ông Trần
Ngọc Th. Tại phiên tòa ông T cũng thừa nhận sau khi chuyển nhượng 3% cổ phần
cho ông Th, thì ông cũng có thỏa thuận chia tỷ lệ lợi nhuận từ chuyển nhượng cổ
phần 1%, nhưng do ông Đ, bà V tố cáo ông lừa đảo và khởi kiện ra Tòa án nên ông
không đồng ý thanh toán. Với những tình tiết nêu trên, đã có đủ cở sở để xác định
Hợp đồng số 01/2018/HĐCNCP-DXDN ngày 02/12/2018 giữa ông T, bà H với ông
Đ, bà V về bản chất là việc góp vốn để mua cổ phần, nội dung hợp đồng hoàn toàn
thỏa mãn với các điều kiện được quy định tại điều 117, 224, 385 và 401 Bộ luật dân
sự, do đó cần chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Minh Đ.
[2] Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử
chấp nhận Đơn kháng cáo của ông Hoàng Minh Đ. Sửa một phần Bản án dân sự số
162/2024/DS-ST ngày 29/11/2024 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố
Đà Nẵng theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
tại phiên tòa: Buộc ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H phải trả cho ông Hoàng
Minh Đ, bà Doãn Thị V số tiền 440.000.000 đồng là có cơ sở, đúng quy định của
pháp luật.
Kể từ ngày ông Hoàng Minh Đ, bà Doãn Thị V có đơn yêu cầu thi hành án mà
ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H không thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì hàng
tháng ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự.
Án phí dân sự sơ thẩm 21.600.000 đồng, do HĐXX chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của ông Hoàng Minh Đ nên ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H phải chịu.
Ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn Thị V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.800.000 đồng tại biên lai
thu số 0007721 ngày 03/8/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, TP
Đà Nẵng.
Các nội dung khác tại phần quyết định của Bản án số 162/2024/DS-ST ngày
29/11/2024 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng không bị
kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

8
[3] Bị đơn Lê Vũ Minh T và bà Trần Thị Thu H phải chịu phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm do không được chấp nhận yêu cầu phản tố là: 11.000.000đ, nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp 6.250.000 đồng tại biên lai thu số
0000158 ngày 8/4/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, TP Đà Nẵng.
ông Lê Vũ Minh T và bà Trần Thị Thu H tiếp tục nộp số tiền án phí là 4.750.000
đồng.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Do được chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên ông
Hoàng Minh Đ không phải chịu. Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho
ông Hoàng Minh Đ tại Biên lai thu số 0005087 ngày 02/01/2025của Chi cục Thi
hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: khoản 2 Điều 308, các Điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; các
Điều 177, 224, 385, 401 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Minh Đ;
Sửa một phần Bản án dân sự số 162/2024/DS-ST ngày 29/11/2024 của Tòa án
nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Minh Đ, bà Doãn Thị V đối với
ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H về việc “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh
toán”.
1. Buộc ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H phải thanh toán cho ông
Hoàng Minh Đ, bà Doãn Thị V số tiền 440.000.000 đồng (Bốn trăm bốn mươi triệu
đồng).
Kể từ ngày ông Hoàng Minh Đ, bà Doãn Thị V có đơn yêu cầu thi hành án mà
ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H không thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì hàng
tháng ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Lê Vũ Minh T, bà Trần Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số
tiền 21.600.000 đồng (do Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông
Hoàng Minh Đ).
Hoàn trả cho ông Hoàng Minh Đ và bà Doãn thị V số tiền tạm ứng án phí đã
nộp là 10.800.000 đồng tại biên lai thu số 0007721 ngày 03/8/2023 tại Chi cục Thi
hành án dân sự quận Hải Châu, TP Đà Nẵng.
9
- Ông Lê Vũ Minh T và bà Trần Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
do không được chấp nhận yêu cầu phản tố là: 11.000.000đ, nhưng được trừ vào số
tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp 6.250.000 đồng tại biên lai thu số 0000158 ngày
8/4/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, TP Đà Nẵng. ông Lê Vũ
Minh T và bà Trần Thị Thu H tiếp tục nộp số tiền án phí là 4.750.000 đồng.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hoàng Minh Đ không phải chịu. Hoàn trả
lại số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho ông Hoàng Minh Đ tại Biên lai thu số
0005087 ngày 02/01/2025của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, thành phố
Đà Nẵng.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án
dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo định tại điều 30 luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP Đà Nẵng;
- TAND quận Hải Châu;
- Chi cục THADS quận Hải Châu;
- Cục THADS TP Đà Nẵng;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Tổ nghiệp vụ;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Ngọc Anh
10
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Các thẩm phán Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Hữu Thị Hảo Hảo Trần Thị Thanh Mai Nguyễn Ngọc Anh
11
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm