Bản án số 121/2025/DS-PT ngày 23/07/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 121/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 121/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 121/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 121/2025/DS-PT ngày 23/07/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng hợp tác |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng hợp tác |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lâm Đồng |
Số hiệu: | 121/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/07/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Văn C tranh chấp hợp đồng hợp tác Nguyễn Thị K |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 121/2025/DS-PT
Ngày: 23-7-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng hợp
tác”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Thanh
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Ngọc Huyền – Thư ký, Toà án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Bà Nguyễn Thị Thu
Hà – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 23 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 81/2025/TLPT-DS ngày 22 tháng 5 năm
2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2025/DS-ST ngày 13 tháng 02 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 187/2025/QĐ-PT ngày
02 tháng 6 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 136/2025/QĐ-
PT ngày 24 tháng 6 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1974; địa chỉ: thôn T, xã K,
huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (nay là thôn T, xã K, tỉnh Lâm Đồng).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Luật sư Dương Văn V – Văn phòng
Luật sư Dương Văn V thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1971, ông Hoàng Văn V1, sinh năm
1968; địa chỉ: Số B, đường T, tổ dân phố N, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng
(nay là số B, đường T, tổ dân phố N, xã Đ, tỉnh Lâm Đồng).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Luật sư Dương Thanh T – Văn
phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L.
2
Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị K, ông Hoàng Văn V1 – Bị đơn.
(Ông C, ông V1, bà K, luật sư V và luật sư T có mặt tại phiên tòa, các
đương sự còn lại vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn ông
Nguyễn Văn C trình bày: Từ ngày 20/9/2022 giữa bị đơn và nguyên đơn thống
nhất hợp tác làm ăn sản xuất và thu mua nông sản các mặt hàng rau củ quả để
kiếm lời. Ông C đầu tư tiền giống, phân bón, công chăm sóc với các loại cây
hành, cây ngò từ nhà vườn. Bị đơn có trách nhiệm thu hoạch, đóng thùng các
loại rau và gửi vào các chợ N để bán. Lợi nhuận có được sẽ chia đôi và lỗ cũng
chia đôi. Đến ngày 24/5/2023 hai bên thống nhất không hợp tác làm ăn chung
nữa nên giữa ông C và bị đơn đối chiếu số sách thì ông V1 không có ở nhà, ông
C gọi cho ông V1 thì ông V1 nói không ghi sổ sách mà do bà K ghi chép nên
ông C đã đối chiếu số sách với bà K. Sau khi đối chiếu thì bà K ghi lại số tiền
còn nợ ông C sau khi trừ đi chi phí, lợi nhuận và tổng số tiền bà K và ông V1
còn nợ của ông C là 904.000.000đ và bà K đã ký xác nhận vào văn bản đối
chiếu công nợ này. Kể từ ngày 24/5/2023 đến nay, ông C nhiều lần yêu cầu ông
V1 và bà K trả nợ nhưng ông bà vẫn chưa trả nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả
số tiền 904.000.000đ và 90.000.000đ tiền lãi chậm trả nợ.
Bị đơn ông Hoàng Văn V1 và bà Nguyễn Thị K trình bày: Ông bà thừa
nhận bà K có ghi vào tờ giấy ngày 24/5/2023 và có ký xác nhận bên dưới nhưng
giấy này do ông C đọc cho bà K ghi. Thời điểm ghi giấy thì bà K không nghĩ gì
vì vẫn đang làm ăn chung tin tưởng ông C nên bà K vẫn ghi theo như ý kiến của
ông C còn trên thực tế thì ông bà không có nợ của ông C. Khi làm ăn chung,
tổng số tiền ông bà chi hết là 1.483.478.000đ, ông C chi 202.260.000đ. Tổng chi
là 1.685.738.000đ, tổng thu là 1.431.865.000đ nên lỗ hết 253.873.000đ. Việc
hợp tác làm ăn giữa ông bà và ông C có lúc lời, có lúc lỗ nhưng trong trường
hợp này hoàn toàn bị lỗ nên cho đến nay ông bà không có nợ ông C bất kỳ
khoản tiền nào nữa nên ông bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông C.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2025/DS-ST ngày 13 tháng 02 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng hợp tác” giữa nguyên
đơn ông Nguyễn Văn C đối với bị đơn bà Nguyễn Thị K và ông Hoàng Văn V1.
Buộc bà Nguyễn Thị K và ông Hoàng Văn V1 có nghĩa vụ thanh toán cho ông
Nguyễn Văn C số tiền 904.000.000đ và 90.000.000đ tiền lãi.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và trách nhiệm thi
hành án của các bên đương sự.
3
Ngày 19/02/2025 bị đơn bà Nguyễn Thị K, ông Hoàng Văn V1 có đơn
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án.
Tại phiên tòa hôm nay: Bà K, ông V1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Nguyên đơn ông C không đồng ý với kháng cáo của bị đơn, đề nghị giải
quyết như án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử
và các đương sự, tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp
hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng
xét xử ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn, chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền
800.000.000đ. Chấp nhận một phần kháng cáo của bà K, ông V1. Căn cứ theo
quy định tại khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 sửa bản án sơ
thẩm. Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 800.000.000đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp: Mặc dù giữa nguyên đơn và bị đơn không lập
hợp đồng hợp tác bằng văn bản theo quy định tại Điều 504 Bộ luật Dân sự
nhưng các bên đều thừa nhận có hợp tác sản xuất và thu mua hàng nông sản để
bán kiếm lời, lợi nhuận chia đôi, lỗ cũng chia đôi. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm
xác định quan hệ tranh chấp “Tranh chấp hợp đồng hợp tác” là đúng quy định
của pháp luật.
Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị K, ông Hoàng Văn V1; người kháng
cáo, thủ tục kháng cáo được thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 271, 272,
273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn bà K, ông V1 thì thấy rằng:
Nguyên đơn cung cấp bản chính giấy xác nhận công nợ do bà K viết và ký
tên. Theo đó, ngày 24/5/2023 hai bên chốt lại quá trình hợp tác làm ăn. “Tổng
thu 1.604.368.000đ, tổng chi 1.000.000.000đ, lời 604.000.000đ”. Đồng thời xác
nhận nguyên đơn đã chi 704.000.000đ, tiền lời hành là 604.000.000đ nên chia
cho nguyên đơn 200.000.000đ. Bị đơn xác nhận còn nợ ‘gốc và lời” tiền hành
của nguyên đơn là 904.000.000đ. Bị đơn cho rằng giấy chốt nợ là do nguyên
đơn đọc, bị đơn ghi nên không đồng ý trả nợ.
Xét thấy, bà K có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên phải chịu trách
nhiệm với nội dung đã xác nhận. Tại thời điểm xác nhận nợ chỉ có ông C và bà
K, không có ông V1. Tuy nhiên, ông V1 thừa nhận là ông C có điện thoại báo
cho ông V1 nhưng do ông V1 đang đi bơm thuốc nên nói với ông C sổ sách bà
K ghi chép, theo dõi. Như vậy, ông V1 biết việc chốt nợ giữa ông C với bà K
4
nhưng cả bà K và ông V1 không có ý kiến gì, chỉ đến khi ông C khởi kiện thì bị
đơn mới cho rằng bị lừa đối khi xác nhận nợ.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn cung cấp cho Tòa án bản giải trình (BL
số 32) thể hiện nguyên đơn chi 202.260.000đ, tổng số tiền cả hai bên chi là
1.685.738.000đ, tổng thu là 1.431.865.000đ, như vậy việc hợp tác bị lỗ nên bị
đơn không nợ nguyên đơn. Nguyên đơn cung cấp tài liệu (BL số 77), thể hiện
“tổng chi vườn và cho mượn” 1.159.600.000đ, tổng thu là 2.824.000.000đ
nhưng tại biên bản đối chất lại cho rằng tổng số tiền đầu tư cho nhà vườn và đầu
tư cho bị đơn 1.082.600.000đ. Như vậy trình bày của nguyên đơn và bị đơn là
mâu thuẫn. Trong thời gian hợp tác từ ngày 20/9/2022 đến ngày chốt nợ
24/5/2023 nguyên đơn, bị đơn cùng đầu tư và thu tiền bán nông sản ở nhiều
vườn, nguyên đơn thuê vườn, mua phân bón và giống còn bị đơn thu hoạch và
bán nông sản cho chợ đầu mối, nhưng không cử người theo dõi sổ sách, không
đối chiếu công nợ. Bị đơn tự ghi chép sổ sách nhưng lại không tách bạch được
phần nào là nông sản của gia đình và phần nào là hợp tác với nguyên đơn. Như
vậy, trình bày của nguyên đơn và bị đơn về thu chi trong quá trình hợp tác
không được sự xác nhận của phía bên kia. Các đương sự cũng không đưa ra
được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Hơn nữa, bị đơn cho
rằng đầu tư bị lỗ nên có căn cứ xác định bị đơn chưa thanh toán tiền cho nguyên
đơn.
Từ những phân tích trên cho thấy quan hệ hợp tác làm ăn giữa ông C với
vợ chồng ông V1, bà K đã chấm dứt sau ngày 24/5/2023. Sau khi kết thúc hợp
tác đầu tư thì vợ chồng ông V1, bà K còn giữ của ông C số tiền vốn
704.000.000đ và tiền lời là 200.000.000đ. Do đó, án sơ thẩm đã tuyên buộc ông
V1, bà K phải có nghĩa vụ thanh toán lại cho ông C số tiền 904.000.000đ và tiền
lãi 90.000.000đ là phù hợp quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền
800.000.000đ nên ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả
cho nguyên đơn số tiền 800.000.000đ.
Từ những phân tích trên, cần chấp nhận một phần kháng cáo của bà K, ông
V1, sửa bản án sơ thẩm theo hướng đã nhận định.
[3] Về án phí:
Buộc nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
Do yêu cầu kháng cáo được chấp nhận một phần nên bà K, ông V1 không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
5
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị K, ông Hoàng
Văn V1, sửa bản án sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện“Tranh chấp hợp đồng hợp tác”
của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C đối với bị đơn bà Nguyễn Thị K và ông
Hoàng Văn V1.
Buộc bà Nguyễn Thị K và ông Hoàng Văn V1 có nghĩa vụ thanh toán cho
ông Nguyễn Văn C số tiền 800.000.000đ (Tám trăm triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí:
Buộc ông Nguyễn Văn C phải chịu 9.700.000đ án phí dân sự sơ thẩm
nhưng được trừ vào số tiền 20.910.000.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai
thu số 0002464 ngày 05/4/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đơn
Dương, tỉnh Lâm Đồng (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 2 – Lâm
Đồng). Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn C số tiền 11.210.000đ án phí còn dư.
Buộc bà Nguyễn Thị K, ông Hoàng Văn V1 phải chịu 36.000.000đ án phí
dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 600.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm
đã nộp theo Biên lai thu số 0002895 ngày 05/3/2025 của Chi cục thi hành án dân
sự huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng(nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực
2 – Lâm Đồng). Bà K, ông V1 còn phải nộp số tiền 35.400.000đ án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
6
Nguyễn Văn Thanh
Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
Vũ Thị Nguyệt
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng GĐ, KT, TT&THA (01);
- TAND khu vực 2 – Lâm Đồng (01);
- Phòng THADS khu vực 2 – Lâm Đồng
(01);
- Đương sự (02);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm