Bản án số 265A/2024/DS-ST ngày 19/09/2024 của TAND TP. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 265A/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 265A/2024/DS-ST ngày 19/09/2024 của TAND TP. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Tam Kỳ (TAND tỉnh Quảng Nam)
Số hiệu: 265A/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa ông Thi Hoàng E và bà Huỳnh Thị B, Huỳnh Ngọc Diều Tr
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ TAM KỲ
TỈNH QUẢNG NAM
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
Bản án số: 265A/2024/DS-ST
Ngày: 19-9-2024
V/v: “Tranh chấp
hợp đồng vay tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM KỲ, TỈNH QUẢNG NAM
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Trần Thị Bích Ân
Các Hội thẩm nhân dân:
+ Ông Lê Minh Hải;
+ Ông Phạm Bá Sang
Thư phiên tòa: Trịnh Thị Thu Diễm - Thư Tòa án nhân dân thành
phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
tham gia phiên tòa: Thị Phượng- Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại trụ sTòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số
107/2024/TLST- DS ngày 13 tháng 5 năm 2024, về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay
tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2024/QĐXXST-DS ngày 05
tháng 8 năm 2024 Quyết định hoãn phiên toà số 77/2024/QĐST-DS ngày
04/9/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Thi Hoàng E, sinh năm 1983; địa chỉ: Số 161 Nguyễn
Văn Linh, khối phố 2, thị trấn Núi Thành, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T; sinh
năm: 1995; địa chỉ: 161/18/2 Trưng Nữ V, phường A, hành phố T, tỉnh Q. Vắng
mặt.
- Bị đơn:
+ Bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1971. Có mặt.
+ Bà Huỳnh Ngọc Diệu Tr, sinh năm 1996. Có mặt.
Cùng địa chỉ: Khối phố Ph, phường A, thành phố T, K, tỉnh Q.
+ Huỳnh Ngọc Ph, sinh năm 1991; địa chỉ: Khối phố 5, phường A, thành
phố T, tỉnh Q. Có mt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
- Theo nội dung đơn khởi kiện tại phiên tòa, nguyên đơn ông Thi Hoàng E
trình bày:
Ngày 23/10/2018, tôi cho vợ chồng ông Huỳnh Ngọc D Huỳnh Thị
B vay stiền 600.000.000đ (Sáu trăm triệu đồng), thời hạn vay 32 ngày, với lãi
suất 2%/32 ngày, mục đích vay để kinh doanh, tài sản bảo đảm cho hợp đồng
vay Giấy CNQSD đất quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đấtsố CK
472374, thửa đất số 557, tờ bản đồ số 48, diện tích 1.475,3m² tại phường An Phú,
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Đến hạn trả nợ nhưng vợ chồng ông D, B
vẫn không trả, tôi đã nhiều lần liên lạc nhưng gia đình B trốn tránh cắt liên
lạc với tôi. Sau đó, tôi đã dùng hợp đồng uỷ quyền của ông D, bà B đã trước đó
để đại diện chuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho ông Viết Long Thi
Thị Trang (chị ruột của tôi) để nhờ đứng tên. Sau đó, ông D, B bị Thị
Thuỷ khởi kiện về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(ông D chết tháng 9/2020). Theo đơn khởi kiện của bà Thuỷ, vào năm 2008, v
chồng ông D, B chuyển nhượng cho Thuỷ 371,3m² nhưng không làm thủ
tục tách thửa. Tại bản án phúc thẩm số 89/2024/DS-PT ngày 02/4/2024 của TAND
cấp cao tại Đà Nẵng đã tuyên giữ nguyên bản án thẩm, tuyên vô hiệu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D, B (tôi người đại diện theo uỷ
quyền) với ông Lê Viết L và bà Thi Thị Tr. Nay, tôi đề nghị Toà án giải quyết buộc
Huỳnh Thị B các đồng thừa kế của ông D Huỳnh Thị B, bà Huỳnh Ngọc
Diệu Tr Huỳnh Ngọc Ph phải trả cho tôi số tiền gốc 600.000.000đ (sáu
trăm triệu đồng). Trong đơn khởi kiện, tôi yêu cầu phía bđơn phải trả cho tôi số
tiền lãi phát sinh từ ngày 23/10/2018 đến nay bao gồm tiền lãi trong hạn (10%/năm
từ ngày 23/10/2018 đến ngày 23/11/218) lãi suất quá hạn (15%/năm từ ngày
24/11/2018 đến nay). Tuy nhiên, hiện nay tôi chỉ yêu cầu phía bị đơn phải trả tiền
lãi phát sinh từ ngày 23/10/2018 đến tính đến ngày 19/9/2024 với lãi suất
10%/năm tương ứng với số tiền lãi 354.000.000đ (Ba trăm năm mươi triệu
đồng) tổng cộng là 954.000.000đ (Chín trăm năm mươi tư triệu đồng).
- Bị đơn bà Huỳnh Thị B trình bày: Tôi thừa nhận vào năm 2018, vợ chồng tôi
mượn của ông Thi Hoàng E stiền 600.000.000 đồng để giải quyết việc gia
đình nhưng không thoả thuận vmức lãi suất thời hạn trả. Vợ chồng tôi đưa
bìa đỏ cho ông Thi Hoàng E. Đến ngày 07/3/2020, tôi trả cho ông E số tiền
50.000.000 đồng. Đến giữa năm 2020, tôi liên hệ với ông E để trả số tiền trên
để lấy lại bìa đỏ. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, ông E yêu cầu vợ chồng tôi phải trả
số tiền 1.400.000.000 đồng, trong đó tiền gốc 600.000.000 đồng tiền lãi
800.000.000 đồng, do stiền ông E yêu cầu quá cao nên vợ chồng tôi không chấp
nhận. Lúc đó, tôi chỉ thống nhất trả tổng cộng số tiền gốc lãi 800.000.000
đồng nhưng ông E không đồng ý. Sau đó, chồng tôi lâm bệnh nặng qua đời.
Đến tháng 01/2021, tôi mới phát hiện bìa đỏ của gia đình tôi đã bị ông E chuyển
qua cho bà Trang ông Long đứng tên nhưng không thông qua ý kiến của vợ
chồng tôi. Tôi đã gửi đơn đến nhiều nơi nhưng ông E vẫn không ra mặt và chặn tất
cả liên lạc của gia đình tôi. Nay, với yêu cầu khởi kiện của ông Thi Hoàng E, tôi
3
chỉ thống nhất trả cho ông E stiền gốc 600.000.000 đồng. Đối với yêu cầu trả
lãi, tôi không đồng ý với do ông E đã tự ý chuyển nhượng sang tên bìa đỏ của
gia đình tôi, gây thiệt hại cho gia đình chúng tôi, vviệc kéo dài đến thời điểm
hiện nay là do lỗi của ông E.
Bị đơn bà Huỳnh Ngọc Diệu Tr Huỳnh Ngọc Ph trình bày: Tôi thống
nhất với phần trình bày của mẹ tôi Huỳnh Thị B. Tôi thừa nhận ba mẹ tôi còn
nợ ông Thi Hoàng E số tiền 600.000.000 đồng. Đối với số tiền 50.000.000 đồng tôi
đã trả cho ông E tại Văn phòng công chứng nhưng do lúc đó không giấy tờ nên
hiện nay không chứng cứ để giao nộp cho Tòa án nên chúng tôi chấp nhận mất
số tiền trên. Hiện nay, ba tôi đã mất nên chị em tôi sẽ trách nhiệm cùng với mẹ
trả số tiền trên cho ông E. Tuy nhiên, chúng tôi không thống nhất với yêu cầu trả
lãi của ông E, sự việc kéo dài đến hôm nay do lỗi của ông E. Chúng tôi chỉ
thống nhất trả cho ông E số tiền nợ gốc 600.000.000 đồng.
* Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố
tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên toà trong quá trình giải quyết
vụ án kể từ khi thụ cho đến tại phiên tòa đúng pháp luật. Các đương sự đã
chấp hành đúng về quyền nghĩa vụ khi tham gia tố tụng theo quy định của pháp
luật tố tụng.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 357, 463,
465, 466, khoản 2 Điều 468, Điều 614 Điều 615 của Bộ luật dân sự năm 2015
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn Huỳnh Thị
B, Huỳnh Ngọc Diệu Tr Huỳnh Ngọc Ph phải trả số tiền gốc lãi theo
yêu cầu của ông Thi Hoàng E.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Ông Thi Hoàng E khởi kiện yêu cầu Huỳnh Thị B, Huỳnh Ngọc Diệu
Tr, Huỳnh Ngọc Ph phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ theo hợp đồng
vay tài sản. Bị đơn có địa chỉ tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Căn cứ
điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ
án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân n thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam.
[2] Về nội dung:
Tại phiên toà, ông Thi Hoàng E yêu cầu Huỳnh Thị B, Huỳnh Ngọc Ph
Huỳnh Ngọc Diệu Tr phải trả số tiền nợ gốc là 600.000.000 đồng, nợ lãi tính
đến ngày 19/9/2024 là 354.000.000 đồng, tổng cộng là 954.000.000 đồng. Ông Thi
Hoàng E cung cấp chứng cứ 02 Hợp mượn tiền lập ngày 23/10/2018 chữ
của Huỳnh Thị B ông Huỳnh Ngọc D. B thừa nhận chữ trong Hợp
đồng mượn tiền nêu trên thống nhất với số tiền vợ chồng đã vay của ông
E 600.000.000 đồng. Tuy nhiên, B không thống nhất với yêu cầu trả lãi của
4
ông Thi Hoàng E với do ông E đã tự ý chuyển nhượng sang tên bìa đỏ của gia
đình , vụ việc kéo dài đến thời điểm hiện nay là do lỗi của ông E. Do vậy, B,
bà Ph và bà Tr chỉ thống nhất trả cho ông E số tiền gốc là 6000.000.000 đồng.
Qua xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn các chứng cứ trong hồ
sơ vụ án thì thấy:
[2.1]. Vào ngày 23/10/2018, bà Huỳnh Thị B và ông Huỳnh Ngọc D ký 02
Hợp đồng mượn tiền với ông Thi Hoàng E, thời hạn vay là từ ngày 23/10/2023 đến
ngày 23/11/2018, không thể hiện mức lãi suất, chỉ thể hiện lãi suất do hai bên
tự thoả thuận tự chịu trách nhiệm. Ông D, B đã giao Giấy CNQSD đất số
CK 472347 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Quảng Nam cấp ngày 23/9/2017
đứng tên ông D, B cho ông E để làm tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, đến ngày
18/10/2019, ông Thi Hoàng E đã dùng hợp đồng ủy quyền do ông D, bà B ký trước
đó để đại diện chuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho ông Viết L Thi
Thị Tr (vợ chồng chị ruột của ông E) đứng tên. Sau khi phát hiện sự việc, B
đã làm đơn tố cáo ông E đến các quan chức năng. Tuy nhiên, sự việc đã được
quan điều tra kết luận ông E không dấu hiệu phạm tội. Đến tháng 11/2020,
Thủy khởi kiện yêu cầu B phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Thi
Hoàng E và ông Lê Viết L, bà Thi Thị Tr vô hiệu.
Theo chứng cứ B cung cấp, vào ngày 15/01/2021 Ph đề nghị ông E
tính tiền lãi nhưng ông E yêu cầu phải trả số tiền lãi 800.000.000 đồng nên phía
bà B không thống nhất trả.
B cho rằng đã trả cho ông E số tiền 50.000.000 đồng nhưng B không
xác định là trả tiền gốc hay tiền lãi cũng không cung cấp cho Tòa án chứng cứ
chứng minh cho trình bày của mình là có căn cứ nên không có cơ sở để xác định
B đã trả cho ông E số tiền nêu trên. Do đó, HĐXX xác định, hiện nay B còn nợ
ông E số tiền gốc là 600.000.000 đồng như yêu cầu của ông E là có cơ sở, cần chấp
nhận.
[2.2]. Xét yêu cầu trả lãi của ông E thì thấy: Ông E yêu cầu bà B, Ph, Tr
phải trả lãi với số tiền 354.000.000 đồng, với mức lãi suất 10%/năm. Xét thấy,
trong hợp đồng mượn tiền, các bên không thỏa thuận cụ thể về lãi suất, chỉ thể hiện
lãi suất do hai bên thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm”. Do đó, có thể khẳng định,
việc hai bên mượn tiền thỏa thuận về lãi suất nhưng lãi suất bao nhiêu trong
hợp đồng không thể hiện rõ. Mặt khác, theo trình bày của phía bị đơn, vào ngày
15/01/2021 phía bị đơn đề nghị ông E tính lãi nhưng do ông E yêu cầu trả lãi
quá cao (800.000.000 đồng) nên phía bị đơn không chấp nhận. Điều này cho thấy
việc mượn số tiền nêu trên là có thoả thuận lãi suất nhưng hiện nay không xác định
được lãi suất do hai bên thoả thuận. Do vậy, việc ông E yêu cầu tính lãi đối với số
tiền nêu trên với mức lãi 10%/năm phợp với quy định của pháp luật nên
cần chấp nhận.
Bà B cho rằng, việc kéo dài đến thời điểm hiện nay là do lỗi của ông E, ông E
5
đã tký hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất của bà nên đã gây thiệt hại cho bà.
Tuy nhiên, vấn đề này B không yêu cầu giải quyết trong ván dân sự giữa
Thuỷ và B liên quan đến việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nêu trên hiệu. Do đó, nội dung này không thuộc phạm vi giải quyết
trong vụ án.
Từ những phân tích nêu trên, có đ sở xác định vợ chồng B vay tiền
của ông E đến thời điểm hiện nay đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Hiện nay, ông D
đã mất. Tài sản thừa kế do ông D để lại là quyền sử dụng đất đã được cấp Giấy
CNQSD đất số CK 472347 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Quảng Nam cấp
ngày 23/9/2017 đứng tên ông D, bà B chưa được chia thừa kế, giá trị di sản thừa kế
do ông D để lại lớn hơn so với nghĩa vụ ông D phải thực hiện đối với ông Thi
Hoàng E. Do đó, cần buộc B những người thừa kế của ông D B, Ph
Tr phải trách nhiệm dùng di sản thừa kế của ông D để lại trả toàn bộ
khoản nợ trên cho ông E. Do vậy, căn cứ Điều 357, 463, 465, 466, khoản 2 Điều
468, 614 Điều 615 của Bộ luật dân sự năm 2015 cần chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông Thi Hoàng E về việc buộc Huỳnh Thị B, Huỳnh Ngọc Ph
Huỳnh Ngọc Diệu Tr phải nghĩa vụ dùng di sản thừa kế của ông D trả cho ông
Thi Hoàng E số tiền 954.000.000đ (Chín trăm năm mươi tư triệu đồng).
[2.3]. Tại phiên toà, ông Thi Hoàng E đã tự nguyện rút yêu cầu tính lãi chậm
trả kể tngày ông D, B vi phạm nghĩa vụ trả nợ (từ ngày 24/11/2018 đến nay)
với lãi suất 15%/năm. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của ông E
hoàn toàn tnguyện nên Hội đồng xét xcần chấp nhận đình chỉ đối với yêu
cầu nêu trên.
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Thi Hoàng E được chấp nhận
toàn bộ nên Huỳnh Thị B, Huỳnh Ngọc Ph Huỳnh Ngọc Diệu Tr phải
chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147 và khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 357, 463, 465, 466, khoản 2 Điều 468, Điều 614 và Điều
615 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án p
và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Thi Hoàng E đối với
Huỳnh Thị B, Huỳnh Ngọc Diệu Tr và bà Huỳnh Ngọc Ph.
Buộc Huỳnh Thị B, Huỳnh Ngọc Diệu Tr Huỳnh Ngọc Ph phải
trả cho ông Thi Hoàng E số tiền 954.000.000đ (Chín trăm năm mươi triệu
đồng). Trong đó: nợ gốc là 600.000.000 đồng, tiền lãi là 354.000.000 đồng.
6
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan
thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, hằng tháng bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự.
Đình chỉ đối với yêu cầu của ông Thi Hoàng E về việc tính lãi chậm trả kể từ
ngày ông D, B vi phạm nghĩa vụ trả nợ (từ ngày 24/11/2018 đến nay) với lãi
suất 15%/năm. Ông Thi Hoàng E quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại
vụ án đối với yêu cầu này theo quy định của pháp luật.
[2] Về án phí:
Án phí dân sự thẩm 40.620.000đ (Bốn mươi triệu sáu trăm hai mươi
nghìn đồng) Huỳnh Thị B, Huỳnh Ngọc Diệu Tr Huỳnh Ngọc Ph phải
chịu. Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án pông Thi Hoàng E đã nộp 22.485.000đ
(Hai mươi hại triệu, bốn trăm tám mươi lăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí số 0001350 ngày 13/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Tam Kỳ.
[3] Về quyền kháng cáo:
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Quảng Nam;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- VKSND Tp.Tam Kỳ;
- Chi cục THADS Tp.Tam Kỳ;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu án văn.
Tải về
Bản án số 265A/2024/DS-ST Bản án số 265A/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 265A/2024/DS-ST Bản án số 265A/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất