Bản án số 255/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 255/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 255/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Kiên Giang
Số hiệu: 255/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Vũ Thị T - Hồ Văn Q - Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 255/2024/DS-PT
Ngày: 30-9-2024
Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Bá Kha
Các Thẩm phán: Ông Lê Quang Tấn
Nguyễn Thị Nhiên
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Mai - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa:
Ông Phan Tân - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 174/2024/TLPT-DS ngày 05 tháng 8 năm
2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất”.
Do bản án dân sự thẩm số 85/2024/DS-ST ngày 31/5/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 205/2024/QĐ-PT ngày
20 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
*Nguyên đơn:Vũ Thị T, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Ấp C, xã C, thành phố P, Kiên Giang
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Minh T1, sinh
năm 1983. Địa chỉ: Ấp C, xã C, thành phố P, Kiên Giang.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật Thái
Hoàng L Công ty L1. Địa chỉ: D H, phường V, thành phố R, Kiên Giang.
*Bị đơn: Ông Hồ Văn Q, sinh năm 1965.
Địa chỉ: ấp C, xã C, thành phố P, Kiên Giang
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Ngô Văn H, sinh năm 1994. Địa
chỉ: số B đường N, khu phố A, phường D, thành phố P, Kiên Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật sư Đào Quốc V
Công ty L1. Địa chỉ: P, tầng trệt, số F đường L, phường A, quận T, Tp Hồ Chí
Minh.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Minh T1, sinh năm 1983.
Địa chỉ: ấp Cây Thông Trong, xã Cửa Dương, thành phố Phú Quốc, Kiên
Giang
2. Bà Lê Thị R, sinh năm 1967.
2
Địa chỉ: ấp C, xã C, thành phố P, Kiên Giang
(Ông Lê Minh T1, Luật sư Thái Hoàng L, ông Ngô Văn H, Luật sư Đào Quốc V
có mặt, còn lại vắng mặt)
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Vũ Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Theo đơn khởi kiện ngày 12/01/2023, nguyên đơn là bà Vũ Thị T trình
bày:
Vào ngày 12/02/2018 Thị T (Bên A) hợp đồng đặt cọc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Hồ Văn Q (Bên B) có các điều khoản
cụ thể:
Điều 1: Tài sản đặt cọc: Bên A đặt cọc cho Bên B số tiền 5.000.000.000
đồng.
Điều 2: Thời gian đặt cọc: Từ ngày 12/02/2018 đến ngày 31/3/2018 để
Bên B hoàn tất thủ tục pháp lý, hai bên cùng ra phòng ng chứng làm hợp
đồng chuyển nhượng; ngày 12/3/2018 Bên B giao đất cho Bên A và Bên A
quyền sử dụng, khai thác trên phần đất mua bán;
Điều 3 mục đích đặt cọc:
1. Bên B chuyển nhượng cho Bên A phần đất 12.000,4m
2
; thửa 531; tờ
bản đồ 29 nằm trong tổng diện tích 25.265m
2
; thửa 36, tờ bản đồ 29 tại ấp C,
C, thành phố P, tỉnh Kiên Giang với giá 1.600.000.000 đồng/1.000m
2
; tổng giá
trị hợp đồng 12.000,4m
2
x 1.600.000.000 đồng/công = 19.200.640.000 đồng.
2. Bên B nghĩa vụ giao toàn bộ nọc tiêu trên phần đất 12.000,4m
2
cho
Bên A trước ngày 12/3/2018.
Điều 4 nghĩa vụ và quyền của Bên A:
1. Nghĩa vụ:
- Giao 5.000.000.000 đồng cho Bên B theo đúng thoả thuận;
- Nếu Bên A từ chối nhận chuyển nhượng 12.000,4m
2
tmất tiền đặt cọc
5.000.000.000 đồng.
2. Quyền:
- Nếu hợp đồng chuyển nhượng được thực hiện Bên A có thể nhận lại tiền
đặt cọc rồi thanh toán toàn bộ giá trị hợp đồng hoặc được trừ vào giá trị hợp
đồng và thanh toán số tiền còn lại.
- Nếu Bên B từ chối chuyển nhượng cho Bên A thì Bên B phải trả lại tiền
đặt cọc cho Bên A còn phải bồi thường gấp 03 (Ba) lần stiền Bên A đã đặt
cọc.
Điều 5 nghĩa vụ và quyền của Bên B:
1. Nghĩa vụ:
- Trả lại tài sản đặt cọc hoặc trừ vào số tiền Bên A thanh toán hợp đồng.
- Trả lại 5.000.000.000 đồng tiền đặt cọc bồi thường thêm khoản tiền
5.000.000.000 đồng tổng cộng 10.000.000.000 đồng, nếu Bên B tchối thực
hiện hợp đồng.
2. Quyền: Sở hữu tài sản đặt cọc nếu Bên A từ chối thực hiện hợp đồng.
Các điều khoản còn lại quy định về phương thức tranh chấp; cam đoan
của các bên và điều khoản cuối cùng.
3
Sau khi ký kết hợp đồng Bên A đã chuyển cho Bên B 5.000.000.000 đồng
theo thoả thuận ngày 12/3/2018 Bên B đã bàn giao toàn bộ nọc tiêu
12.000,4m
2
đất cho Bên A quản lý sử dụng, Bên A đã chở toàn bộ nọc tiêu đi và
thuê xe giới tiến hành san lắp toàn bộ mặt bằng. Nhưng đến ngày 30/3/2018
Bên B vẫn chưa làm xong thủ tục, để đủ cơ sở pháp sang tên cho Bên A, nên
các bên tiếp tục chờ.
Mãi đến ngày 14/11/2022 ông Hồ Văn Q mới được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số sêri DH 525836, số vào sổ CS 219906 diện tích
12.000,4m
2
; thửa 531; t bản đồ 29; tại ấp C, C, thành phố P, tỉnh Kiên
Giang. Sau khi được cấp giấy ông Q không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Vì vậy, tôi làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết:
- Công nhận hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày
12/02/2018 giữa tôi với ông Hồ Văn Q là hợp pháp.
- Buộc vchồng ông Hồ Văn Q phải nghĩa vụ chuyển nhượng cho tôi
diện tích đất 12.000,4m
2
; thửa đất số 531; tbản đồ số 29; tại ấp C, C, thành
phố P, Kiên Giang; theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DH 525836 do
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp ngày 14/11/2022.
- Nếu ông Hồ Văn Q không đồng ý chuyển nhượng tphải trả lại cho tôi
số tiền đặt cọc 05 tỷ đồng bồi thường thêm 05 tđồng, tổng cộng 10 tỷ
đồng.
Tại đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 06/3/2024 bà Vũ Thị T yêu cầu:
- Công nhận hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
12/02/2018 giữa bà Vũ Thị T với ông Hồ Văn Q là hợp pháp.
- Buộc vợ chồng ông Hồ Văn Q phải trả lại cho Thị T số tiền đặt
cọc 05 tỷ đồng và bồi thường thêm 05 tỷ đồng, tổng cộng 10 tỷ đồng.
Tại phiên toà, người đại diện theo uỷ quyền của Thị T ông
Minh T1 trình bày: Thị T rút lại đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày
06/3/2024, nay bà T yêu cầu giải quyết như sau:
- Công nhận hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sdụng đất ngày
12/02/2018 giữa bà Vũ Thị T với ông Hồ Văn Q là hợp pháp.
- Buộc vợ chồng ông Hồ Văn Q phải nghĩa vụ chuyển nhượng cho
T diện tích đất 12.000,4m
2
; thửa đất số 531; tờ bản đồ số 29; tại ấp C, C,
thành phố P, Kiên Giang; theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DH
525836 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp ngày 14/11/2022.
- Nếu ông Hồ Văn Q không đồng ý chuyển nhượng đất thì phải trả lại cho
Thị T số tiền đặt cọc 05 tỷ đồng và lãi suất 13,5%/năm tính từ ngày
12/02/2018 đến ngày Toà án xét xử vụ án.
- Bà T rút lại yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu ông Q bồi thường hợp
đồng đặt cọc với số tiền là 05 tỷ đồng.
*Tại bản tự khai ngày 24/10/2023, đơn phản tố ngày 03/4/2023 ông Hồ
Văn Q trình bày:
Khoảng đầu năm 2018, do biết tôi nhu cầu chuyển nhượng đất nên
T liên hệ để nhận chuyển nhượng đất của tôi diện ch 25.265m
2
thuộc
thửa đất số 36, tờ bản đồ số 29 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN
835201 do UBND huyện P cấp ngày 27/10/2009 đứng tên Hồ Văn Q toạ lạc tại
4
C, thành phố P, tỉnh Kiên Giang. Sau khi thoả thuận, T đồng ý nhận
chuyển nhượng 12.000,4m
2
đất trong tổng diện tích 25.265m
2
tôi được
quyền sử dụng yêu cầu tôi thực hiện thủ tục tách thửa diện ch đất này. Do
đó, tôi đã đến Chi nhánh văn phòng Đ thực hiện thủ tục tách thửa vào ngày
06/02/2018. Theo đó, tôi đã nộp đầy đủ thủ tục tách thửa nên đã được Chi nhánh
văn phòng đăng đất đai thành phố Đ đồng ý tiếp nhận thực hiện thủ tục
hành chính theo Giấy tiếp nhận hồ hẹn trả kết quả, mã hồ TT18000005
ngày 06/02/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ.
Trong khi đợi kết quả thực hiện thủ tục tách thửa thì T đề nghị tôi
kết Hợp đồng đặt cọc đối với phần diện tích đang thực hiện thủ tục tách thửa nêu
trên, tôi đồng ý. Ngày 12/02/2018 tôi bà T kết Hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất diện tích 12.000,4m
2
trong tổng
diện tích 25.265m
2
. Nay phần diện tích đất 12.000,4m
2
thuộc thửa số 531, tờ bản
đồ s29; toạ lạc lại ấp C, C, thành phố P theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DH 525836 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp ngày
14/11/2022 đứng tên Hồ Văn Q.
Theo Hợp đồng, bà T đặt cọc cho tôi số tiền 5.000.000.000 đồng, thời hạn
đặt cọc tính từ ngày hợp đồng ngày 12/02/2018 đến ngày 30/3/2018, mục
đích đặt cọc để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần diện tích
đất trên. Hai bên thoả thuận ngày 30/3/2018 sẽ đến Văn phòng công chứng
kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đồng thời T sẽ thanh toán
cho tôi số tiền còn lại 14.200.640.000 đồng, còn tôi sgiao đất cho phía T
quản lý, sử dụng. Tuy nhiên, sau đó tôi liên hệ yêu cầu T tiếp tục thực hiện
Hợp đồng nhưng T nhiều lần tránh né, kéo dài thời gian để không tiếp tục
thực hiện Hợp đồng.
Sau nhiều lần liên hệ với T thì ngày 13/12/2022 tôi nhận được đề nghị
của T về việc s tiếp tục thanh toán số tiền còn lại vào trước ngày
26/12/2022 và tôi đã gửi thông báo cho bà T về việc tôi đồng ý gia hạn thời gian
thanh toán số tiền còn lại và ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
như thời hạn nêu trên. Nhưng đến nay T vẫn không thực hiện nghĩa vụ như
đã cam kết trong khi tôi đã thiện chí gia hạn thời gian thực hiện nghĩa vụ thanh
toán cho bà, hành vi cố tình trốn tránh, kéo dài thời gian thanh toán của T đã
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của tôi được pháp luật bảo vệ.
Do T đã vi phạm hợp đồng đặt cọc hiện nay gia đình tôi cũng rất
khó khăn, vợ tôi phải nhập viện cần số tiền lớn để điều trị, nhưng phía T
không có thiện ctiếp tục thực hiện hợp đồng lại cố nh kéo dài thời hạn
bằng cách khởi kiện tôi ra Toà nhằm để không bị mất số tiền đặt cọc theo Hợp
đồng đặt cọc đã ký kết với tôi.
Nay tôi yêu cầu Toà án giải quyết:
- Tuyên huỷ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng QSDĐ lập ngày
12/02/2018 giữa ông Hồ Văn Q với bà Vũ Thị T.
- Tuyên cho ông Hồ Văn Q được toàn quyền sở hữu toàn bộ số tiền 05 tỷ
đồng do bà Vũ Thị T đã đặt cọc cho ông Q theo hợp đồng đặt cọc ngày
12/02/2018.
5
*Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Minh T1 trình bày:
Tôi thống nhất đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của vợ tôi Thị T,
tôi không có ý kiến và yêu cầu gì khác.
*Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị R trình bày: Tôi
đồng ý với tất cả ý kiến của chồng tôi là ông Hồ Văn Q. Mọi quyết định, ý kiến
của ông Q trong vụ việc này tôi đều đồng ý không ý kiến hay yêu cầu
thêm. Trước khi chồng tôi kết hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng đất với T
thì trao đổi, bàn bạc với tôi, vợ chồng tôi cùng đồng ý nên chồng tôi đứng ra
ký kết hợp đồng đặt cọc với T.
* Tại bản án dân sự thẩm số 85/2024/DS-ST ngày 31/5/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Thị T: Công nhận
hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/02/2018 giữa
Vũ Thị T với ông Hồ Văn Q là hợp pháp.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của Thị T về: Yêu cầu vợ chồng ông Hồ
Văn Q phải có nghĩa vụ chuyển nhượng cho bà T diện tích đất 12.000,4m
2
; thửa
đất số 531; tbản đồ số 29; tại ấp C, C, thành phố P, Kiên Giang; theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DH 525836 do Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh K cấp ngày 14/11/2022.
3. Bác yêu cầu khởi kiện của Thị T về: Yêu cầu ông Hồ Văn Q trả
lại số tiền đặt cọc là 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng) lãi suất
4.254.375.000 đồng (Bốn tỷ, hai trăm năm mươi bốn triệu, ba trăm bảy mươi
lăm đồng).
4. Đình chỉ xét xử yêu cầu của Thị T về: Yêu cầu ông Hồ Văn Q
bồi thường 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng) theo hợp đồng đặt cọc ngày
12/02/2018 giữa bà Vũ Thị T và ông Hồ Văn Q.
5. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hồ Văn Q.
- Huỷ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền s dụng đất ngày
12/02/2018 giữa bà Vũ Thị T với ông Hồ Văn Q.
- Ông Hồ Văn Q được quyền sở hữu số tiền 5.000.000.000 đồng (Năm t
đồng) Thị T đã đặt cọc cho ông Q theo hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/02/2018 giữa Thị T với ông Hồ Văn
Q.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và báo quyền kháng cáo theo
luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 03/6/2024, nguyên đơn Thị T đơn kháng cáo yêu cầu bác
yêu cầu của ông Hồ Văn Q được quyền sở hữu số tiền 5.000.000.000 đồng theo
đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/02/2018 giữa bà Vũ Thị T
ông Hồ Văn Q. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị T về việc buộc vợ
chồng ông Hồ Văn Q phải nghĩa vụ chuyển nhượng cho Thị T diện
tích 12.000,4m
2
, thửa 531, tờ bản đồ số 29 tại ấp C, xã C, thành phố P, tỉnh Kiên
Giang theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số ri DH525836, svào sổ:
CS 219906 do Sở Tài nguyên môi trường tỉnh K cấp ngày 14/11/2022. Nếu
vợ chồng ông Hồ Văn Q không đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì
6
phải trả cho Vũ Thị T số tiền đặt cọc 5.000.000.000 đồng và lãi suất theo quy
định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn Vũ Thị T người đại diện là ông
Minh T1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của bà T.
Bị đơn ông Hồ Văn Q không có kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử giữ
nguyên bản án thẩm số 85/2024/DS-ST ngày 31/5/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang nêu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự, từ khi thụ lý vụ án
đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện chấp hành đúng theo
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận toàn bộ nội dung
kháng cáo của nguyên đơn Thị T. Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số
85/2024/DS-ST ngày 31/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh
Kiên Giang.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra và
công bố công khai tại phiên tòa căn cứ kết quả tranh luận, trên sở xem xét
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn những người tham
gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về ttụng: Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn Vũ Thị T về nội
dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo thời hạn kháng cáo đã đúng quy
định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét
xử chấp nhận xem xét giải quyết kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm ông Hồ Văn Q vắng mặt người đại diện ông
Ngô Văn H, Thị R vắng mặt đơn xin xét xử vắng mặt nên áp dụng
khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo
quy định.
[2] Về nội dung kháng cáo của bản án sơ thẩm:
Vũ Thị T kháng cáo yêu cầu bác việc ông Hồ Văn Q được quyền sở hữu
số tiền 5.000.000.000 đồng theo đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
12/02/2018 giữa Thị T ông Hồ Văn Q. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của Thị T về việc buộc vợ chồng ông Hồ Văn Q phải nghĩa vụ chuyn
nhượng cho Thị T diện ch 12.000,4m
2
, thửa 531, tờ bản đồ số 29 tại ấp
C, xã C, thành phố P, tỉnh Kiên Giang theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số ri DH525836, số vào sổ: CS 219906 do Sở Tài nguyên môi trường tỉnh
K cấp ngày 14/11/2022. Nếu vợ chồng ông Hồ Văn Q không đồng ý chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thì phải trả cho Vũ Thị T số tiền đặt cọc
5.000.000.000 đồng và lãi suất theo quy định pháp luật.
[3] Hội đồng xét xử xét thấy:
Ngày 12/02/2018, bà Vũ Thị T và ông Hồ Văn Q xác lập Hợp đồng đặt cọc
với nội dung: Bà T đặt cọc cho ông Q số tiền 5.000.000.000 đồng; thời hạn
7
đặt cọc: Kể từ ngày 12/02/2018 đến ngày 30/3/2018 thì hai bên ra phòng công
chứng chuyển nhượng đất, ngày 12/3/2018 ông Q giao đất cho bà T T
quyền sử dụng, khai thác trên phần đất đã mua bán. Mục đích đặt cọc: ông Q
đồng ý bán cho T và T đồng ý mua thửa đất đã tách thửa diện tích
12.000,4m
2
, số thửa 531. Giá bán 1.600.000.000 đồng/công, tổng số tiền
19.200.640.000 đồng. Ông Q nghĩa vụ giao toàn bộ nọc tiêu trên phần đất đã
bán cho bà T trước ngày 12/3/2018.
Ngày 14/11/2022, ông Hồ Văn Q được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp
giấy chứng nhận quyền sdụng đất số DH 525836; thửa đất số 531; tờ bản đồ
số 29; diện tích 12.000,4m
2
.
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự đều thừa nhận ông
Q đã nhận số tiền đặt cọc của T 5.000.000.000 đồng, ông Q đã bàn giao
toàn bộ nọc tiêu trên đất cho T, sau đó T tiến hành san lấp toàn bộ mặt
bằng mục đích để T chào bán lại thửa đất này cho người khác. Hiện nay ông
Q vẫn đang quản lý, sử dụng thửa đất này nên không yêu cầu đối với thửa
đất.
Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc công nhận hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất: Hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 12/02/2018 giữa Thị T với ông Hồ Văn Q được thực hiện đúng quy
định về hình thức của hợp đồng; không vi phạm điều cấm của Luật đất đai do
diện tích đất thoả thuận đặt cọc chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất khi T ông Q thoả thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thì vông Q Thị R đã biết đã đồng ý. Theo quy định tại
Điều 117, 119, 328 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 167, 168 Luật đất đai năm
2013 thì hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên hợp
pháp, không bị vô hiệu. Do đóT yêu cầu công nhận hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa T với ông Q hợp pháp phù hợp với quy
định của pháp luật nên được chấp nhận.
Thị T yêu cầu vợ chồng ông Hồ Văn Q phải thực hiện nghĩa vụ
chuyển nhượng đất cho T theo hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất; phía bị đơn ông Hồ Văn Q không đồng ý với yêu cầu của T
yêu cầu huỷ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất: Sau khi ký kết
hợp đồng đặt cọc với T thì vchồng ông Q luôn mong muốn thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng đất với T, vợ chồng ông Q đã cho vợ chồng T san
lấp mặt bằng, san i vườn tiêu, cây trồng cho vận chuyển cây nọc tiêu về sử
dụng, vợ chồng ông Q đã nhiều lần gia hạn thời gian kết hợp đồng chuyển
nhượng đất gia hạn thời gian thanh toán tiền cho T, nhưng T không
thực hiện. Cụ thể là: sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất thì
vào ngày 13/12/2022 ông Q Thông báo về việc thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất gửi T, T đã nhận thông báo của ông Q vào
ngày 18/12/2022 do Bưu chính chuyển đến (BL 51, 52). Tại phiên hoà giải ngày
04/01/2024 vợ chồng ông Q cũng đã gia hạn cho T trong thời hạn 60 ngày
phải cùng vợ chồng ông Q đến Phòng công chứng để lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và phải thanh toán hết số tiền còn lại theo thoả thuận,
nhưng T vẫn không thực hiện. Xét lời trình bày của phía nguyên đơn cho
8
rằng: do đến ngày 30/3/2018 ông Q vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nên chưa đủ sở pháp để đến phòng công chứng làm thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho T không đúng, trước khi kết
hợp đồng đặt cọc với T thì ông Q đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện P Tờ trích đo địa chính số TĐ 150-2018 tách thửa đất số 36; tờ bản đồ
số 29; diện tích 25.265m
2
thành 02 phần: thửa 530, diện tích 13.264,6m
2
và thửa
531, diện tích 12.000,4m
2
. Tại văn bản số 49/CV-CNVPĐKĐĐ ngày
08/01/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ đã xác định:
Tờ trích đo địa chính số 150-2018 ngày 31/01/2018 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện Đ đủ điều kiện để người sử dụng xác lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 531 theo quy định. Việc
tách thửa để thực hiện các quyền của người sdụng đất chỉ bị tạm dừng trong
02 giai đoạn từ ngày 15/8/2018 đến ngày 25/7/2019 từ ngày 26/6/2020 đến
ngày 25/8/2021. Như vậy việc T tchối việc giao kết hợp đồng, cụ thể
không đến phòng công chứng để xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với ông Q T đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ đã được giao kết
trong hợp đồng. Nay T yêu cầu vợ chồng ông Q phải thực hiện nghĩa vụ
chuyển nhượng đất cho T theo hợp đồng đặt cọc ngày 12/02/2018 không
phù hợp với các thoả thuận trong hợp đồng đặt cọc nên Hội đồng xét xử không
chấp nhận yêu cầu của T. Xét yêu cầu của ông Q về việc huỷ hợp đồng đặt
cọc phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 khoản 2 Điều 423; 424 của
Bộ luật dân sự năm 2015, nên Hội đồng xét xchấp nhận yêu cầu này của ông
Q.
Về phạt vi phạm bồi thường thiệt hại: Theo quy định tại điểm b Mục 2
Điều 4 của hợp đồng đặt cọc ngày 12/02/2018 thì T được nhận lại sở hữu
tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc trong trường
hợp ông Q từ chối việc giao kết hoặc thực hiện nghĩa vụ dân sự (Mục đích đặt
cọc không đạt được) thì phải bồi thường cho T số tiền gấp 03 lần số tiền đặt
cọc. Theo quy định tại Mục 2 Điều 5 của hợp đồng đặt cọc ngày 12/02/2018 thì
ông Q được quyền sở hữu tài sản đặt cọc nếu T từ chối giao kết hoặc thực
hiện nghĩa vụ dân sự (Mục đích đặt cọc không đạt được). Do các bên thoả
thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong hợp đồng đặt cọc T
người vi phạm hợp đồng nên việc T yêu cầu ông Q hoàn trả số tiền đặt cọc
5.000.000.000 đồng và lãi suất 13,5%/năm tính từ ngày 12/02/2018 đến ngày xét
xử (ngày 31/5/2024) 06 năm 03 tháng 19 ngày ((5.000.000.000 đồng x 13,5%
x 6 năm = 4.050.000.000 đồng) + (5.000.000.000 đồng x 1,125% x 03 tháng =
168.750.000 đồng) + (5.000.000.000 đồng x 0,0375% x 19 ngày = 35.625.000
đồng) = 4.254.375.000 đồng) là không đúng thoả thuận trong hợp đồng, nên Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này của T. Ông Q yêu cầu được quyền
sở hữu số tiền đặt cọc 5.000.000.000 đồng T đã đặt cọc cho ông Q
đúng thoả thuận trong hợp đồng phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 328
của Bộ luật dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Q.
Tại phiên toà thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của T trình bày:
T rút lại yêu cầu về việc yêu cầu ông Q bồi thường hợp đặt cọc với số tiền
9
5.000.000.000 đồng. Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng
xét xử đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện này của bà T là phù hợp.
[4] Từ những phân tích nhận định nêu trên, trong thảo luận nghị án,
Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát,
không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn Thị T, giữ
nguyên bản án thẩm số 85/2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 m 2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
[5] Về chi phí tố tụng:
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ theo hóa đơn giá trị gia tăng số
00002382 ngày 19/9/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố
Đ là 11.501.352 đồng (Mười một triệu năm trăm lẻ một nghìn ba trăm năm mươi
hai đồng) chí phí định giá tài sản theo hóa đơn giá trị gia tăng số 00000043
ngày 25/4/2024 26.400.000 đồng (Hai ơi sáu triệu bốn trăm nghìn đồng).
Vũ Thị T phải chịu toàn bộ chi phí này, bà T đã nộp xong.
[6] Về án phí dân sự:
[6.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá
ngạch và án phí dân sự thẩm gngạch trên số tiền 9.254.375.000 đồng
đồng, thành tiền án phí là 117.254.375 đồng.
- Ông Hồ Văn Q không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
[6.2] Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp
nhận nên Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo quy
định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn
Thị T.
- Giữ nguyên toàn bộ bản án dân sự thẩm số 85/2024/DS-ST ngày 31
tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
- Áp dụng Điều 26; 35; 39; 147; 157; 165; 228; khoản 2 Điều 244; 266;
271; 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 117; 119; 328; 423; 424 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 167; 168 Luật đất đai năm 2013;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Thị T: Công nhận
hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/02/2018 giữa
Vũ Thị T với ông Hồ Văn Q là hợp pháp.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị T về: Yêu cầu vợ
chồng ông Hồ Văn Q phải nghĩa vụ chuyển nhượng cho T diện tích đất
12.000,4m
2
; thửa đất số 531; tờ bản đsố 29; tại ấp C, C, thành phố P, Kiên
10
Giang; theo giấy chứng nhận quyền s dụng đất số DH 525836 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh K cấp ngày 14/11/2022.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị T về: Yêu cầu ông
Hồ Văn Q trả lại số tiền đặt cọc là 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng) và lãi suất
4.254.375.000 đồng (Bốn tỷ, hai trăm năm mươi bốn triệu, ba trăm bảy mươi
lăm đồng).
4. Đình chỉ xét xử yêu cầu của Thị T về: Yêu cầu ông Hồ Văn Q
bồi thường 5.000.000.000 đồng (Năm t đồng) theo hợp đồng đặt cọc ngày
12/02/2018 giữa bà Vũ Thị T ông Hồ Văn Q.
5. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hồ Văn Q về:
- Huỷ hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền s dụng đất ngày
12/02/2018 giữa bà Vũ Thị T với ông Hồ Văn Q.
- Ông Hồ Văn Q được quyền sở hữu số tiền 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ
đồng) Thị T đã đặt cọc cho ông Q theo hợp đồng đặt cọc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 12/02/2018 giữa Thị T với ông Hồ Văn
Q.
6. Về án phí dân sự:
6.1 Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá
ngạch và án phí dân sự thẩm gngạch 117.254.375 đồng, tổng cộng
117.554.375 đồng (Một trăm mười bảy triệu, năm trăm năm mươi bốn nghìn, ba
trăm bảy mươi m đồng). Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí T đã nộp
59.300.000 đồng (Năm mươi chín triệu, ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí số 0006123 ngày 13/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Phú Quốc; T còn phải nộp thêm số tiền 58.254.375 đồng
(Năm mươi tám triệu, hai trăm năm mươi bốn nghìn, ba trăm bảy mươi lăm
đồng).
- Ông Hồ Văn Q không phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho
ông Q số tiền tạm ứng án phí đã nộp 56.800.000 đồng (Năm ơi tám triệu,
tám trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006392 ngày
06/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú Quốc.
6.2 Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn bà Vũ Thị T phải chịu 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo
biên lai thu số 0000320 ngày 14 tháng 6 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân
sự thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự sửa đổi, bổ sung thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- TAND TP Phú Quốc;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
11
- THA TP Phú Quốc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án./.
Trần Bá Kha
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa
Trần Bá Kha
12
Tải về
Bản án số 255/2024/DS-PT Bản án số 255/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 255/2024/DS-PT Bản án số 255/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất