Bản án số 24/2025/DS-PT ngày 20/08/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 24/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 24/2025/DS-PT ngày 20/08/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Quan hệ pháp luật: Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 24/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông C yêu cầu cá nhân ông T bồi thường thiệt hại về tài sản bằng tổng số tiền 268.000.000 đồng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẠC LIÊU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 24/2025/DS-PT
Ngày 17 02 2025
V/v tranh chấp bồi thường
thiệt hại về tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Thanh Dũng
Các Thẩm phán: Bà Giang Thị Cẩm Thuý
Bà Tăng Trần Quỳnh Phương
- Thư ký phiên tòa: Hoàng Thị Nhung Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bc Liêu tham gia phiên tòa:
Trần Thị Ngọc Quyền - Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thsố: 155/2024/TLPT-DS, ngày 11
tháng 11 năm 2024, về việc tranh chấp bồi thường thiệt hại về tài sản.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 109/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024,
của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số: 162/2024/QĐ-PT ngày
25 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1955. Địa chỉ: p B, V,
huyện P, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Đồng T, sinh năm 1964. Địa chỉ: ấp L, thị trấn P,
huyện P, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông Nguyễn Đồng T: Ông Lê Hoàng N,
sinh năm 1970. Đ chỉ: Khóm A, Phường A, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn C là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện tham gia ttụng, nguyên đơn ông Nguyễn Văn C
trình bày: Khoản 9 giờ 00 phút ngày 26/6/2023, ông Nguyễn Đồng T thuê máy
bay xịt (phun) thuốc cỏ khai hoang rừng trên phần đất của ông T giáp với đất của
2
ông, thuốc c khai bay qua gây thiệt hại tài sản của ông gm: Ông C yêu cầu ông
Nguyễn Đồng T bồi thường thiệt hại làm chết cây trồng của ông C gồm: 645 cây
chuối đang cho trái x 120.000 đồng/ 1 cây = 77.400.000 đồng. Bông súng 2.500
m
2
(2000 bụi), đang thu hoạch, bông súng chết hoàn toàn, thu nhập 110 kg/ 1
ngày, bán 60 kg x 6.000 đồng/ 1 kg = 360.000 đồng; 30 kg x 10.000 đồng/ 1 kg
= 360.000 đồng; bán lẽ 20 kg x 15.000 đồng/ 1kg = 300.000 đồng, tổng cộng mỗi
ngày thu nhập 960.000 đồng, do đó bị thiệt hại nên mất thu nhập 03 tháng kể từ
ngày 26/6/2023 bằng tổng số tiền 86.400.000 đồng. Cây dừa chết 96 cây giá
450.000 đồng/ 1 cây x 96 cây = 43.200.000 đồng. Cây bầu 344 gốc, dây mướp
175 gốc mướp đang thu hoạch lá, đọt, đã chết hoàn toàn, thu hoạch hàng ngày:
cân sĩ 20 kg x 30.000 đồng/ 1kg = 600.000 đồng; cân lẽ 10 kg x 40.000 đồng/ 1kg
= 400.000 đồng, thu nhập mỗi ngày 1.000.000 đồng, như vậy ông bị mất thu nhập
02 tháng bằng số tiền 60.000.000 đồng. 01 cây cốc, 05 cây mít và 01 cây vú sửa
chuẫn bị cho trái và một số cây trồng khác bị xuống lá đề nghị bồi thường 01 bao
phân giá 1.000.000 đồng. Tổng thiệt hại số tiền 268.000.000 đồng. Nay nhân
ông C yêu cầu nhân ông T bồi thường thiệt hại về tài sản bằng tổng số tiền
268.000.000 đồng.
Bị đơn ông Nguyễn Đồng T trình bày: Ông xịt thuốc c khai hoang trên đất
của ông nhưng cỏ trên đất của ông còn không chết, những cây chuối của ông C ve
qua đất của ông nên chết khoản 20 cây chuối, còn lại các cây trồng khác không
chết, nên ông T không đồng ý bồi thường thiệt hại cho ông C stiền 268.000.000
đồng. Bản tự khai ngày 27/6/2024 ông T thừa nhận xịt thuốc cỏ làm ảnh hưởng
đến cây trồng, hoa màu của ông C xuống lá, cây trái hoa màu bị mất sức các cây
trồng của ông C nên ông T đồng ý hổ trợ ông C số tiền 10.000.000 đồng để mua
phân bón, thuê nhân công chăm sóc cây trồng.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự thẩm số: 109/2024/DS-ST ngày 19
tháng 9 năm 2024, của Tòa án nhân n huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu đã
quyết định:
Áp dụng các Điều 26, 35, 39, 91, 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Các Điều 584, 585, 589, 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số
02/2022/NQ-TP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự vtrách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C đòi ông
Nguyễn Đồng T bồi thường thiệt hại về tài sản tổng số tiền 268.000.000 đồng.
Buộc ông Nguyễn Đồng T nghĩa vụ bồi thường về tài sản cho ông
Nguyễn Văn C bằng số tiền 20.000.000 đồng.
3
Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số
chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ
luật dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C đòi ông Nguyễn
Đồng T bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền 248.000.000 đồng.
3. Về chi phí định giá tài sản: Ông Nguyễn Văn C đã tạm ứng số tin
2.000.000 đồng, đã chi phí hết số tiền 600.000 đồng. Buộc ông C phải chịu số tiền
300.000 đồng. Buộc ông Nguyễn Đồng T nghĩa vụ nộp lại số tiền 300.000 đồng
để hoàn lại cho ông C, ông C đã được hoàn lại số tiền còn chi phí còn thừa số tiền
1.400.000 đồng xong.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 02 tháng 10 năm 2024, ông Nguyễn Văn C kháng cáo yêu cầu chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông. Tại phiên toà phúc thẩm, ông C gi
nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ vụ án đến khi xét xử
phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự thực hiện đúng
các quy định ca Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự, huỷ Bản án thẩm số: 109/2024/DS-ST ngày 19
tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu, giao
hồ sơ cho Toà án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu thụ lý giải quyết lại
vụ án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ lưu trong hvụ
án đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến trình bày của các đương sự ý kiến phát
biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, sau khi thảo luận, nghị
án, Hội đồng xét xử nhận định:
[2 Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn C, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Ông Nguyễn Văn C xác định ngày 26/6/2023 ông Nguyễn Đồng T
thuê máy bay xịt (phun) thuốc cỏ khai hoang rừng trên phần đất của ông T giáp
phần đất ông C, nên thuốc bay qua phần đất của ông gây thiệt hại làm chết nhiều
loại cây trồng của ông C với tổng thiệt hại 268.000.000 đồng, cụ thể như sau: 645
cây chuối đang cho trái x 120.000 đồng/1 cây = 77.400.000 đồng. Bông súng
2.500 m
2
(2000 bụi), đang thu hoạch, bông súng chết hoàn toàn, thu nhập 110
kg/1 ngày, bán sĩ 60 kg x 6.000 đồng/1kg = 360.000 đồng; 30 kg x 10.000 đồng/1
kg = 360.000 đồng; bán lẽ 20 kg x 15.000 đồng/1kg = 300.000 đồng, tổng cộng
mỗi ngày thu nhập 960.000 đồng, do đó b thiệt hạin mất thu nhập 03 tháng kể
từ ngày 26/6/2023 bằng tổng số tiền 86.400.000 đồng. Cây dừa chết 96 cây giá
4
450.000 đồng/1 cây x 96 cây = 43.200.000 đồng. Dây bầu 344 gốc, dây mướp 175
gốc ớp đang thu hoạch lá, đọt, thu hoạch hàng ngày: cân 20 kg x 30.000
đồng/1kg = 600.000 đồng; cân lẽ 10 kg x 40.000 đồng/1kg = 400.000 đồng, thu
nhập mỗi ngày 1.000.000 đồng, như vậy ông bị mất thu nhập 02 tháng bằng số
tiền 60.000.000 đồng. 01 cây cốc, 05 cây mít 01 cây sửa chuẫn bị cho trái
một số y trồng khác b xuống đề nghị bồi thường 01 bao phân giá
1.000.000 đồng.
Ông Nguyễn Đồng T xác định ông thuê ông Cao Trung H phun thuốc
diệt cỏ khai hoang trên phần đất của ông, cỏ trên đất của ông còn chưa chết, nên
cây trồng của ông C không chết, tuy nhiên ông T thừa nhận việc ông phun thuốc
diệt cỏ khai hoang có ảnh hưởng đến cây trồng, hoa màu của ông C, nên đồng ý
bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 30.000.000 đồng.
Tại biên bản xác minh ngày 13/01/2025, ông Cao Trung H người ông T
thuê phun thuốc cỏ khai hoang xác định: Ông làm dịch vụ phun thuốc, năm
2023 ông T có thuê ông phun thuốc trên đất ông T một lần, chỉ thoả thuận miệng,
không lập văn bản, nhãn thuốc cỏ là gì không nhớ, nhân viên phun thuốc cho ông
T1 ông cũng không nhớ do ông đội ngũ nhân viên chuyên lái máy bay phun
thuốc và nhân viên vào làm và xin nghỉ liên tục.
[2.2] Khi sự việc xảy ra ông C có báo với chính quyền địa phương, nên Ủy
ban nhân dân xã V có phân công cán bộ xã cùng với chính quyền ấp B tiến hành
lập biên bản vào ngày 03/7/2023, có xác định số lượng cây trng bị thiệt hại từng
loại cụ thể. Tuy nhiên, qua xác minh những người lập biên bản này vào ngày
05/8/2024 gồm: Ông Sử Thành Đ1 - Cán bộ pháp V, ông Đặng Văn C1 -
Trưởng ấp B ông Ngô Diệu K thì họ xác định khi đến nơi họ ra xem thấy
cây trồng của ông C bị vàng lá, một số cây chết nhưng do diện tích đất rộng,
số lượng nhiều nên tiến hành lập biên bản ngày 03/7/2023 về số lượng cây bị thiệt
hại theo kê khai của ông C. Tuy nhiên, sau đó ông C1 lại thay đổi lời khai, cụ thể
lời khai ngày 28/8/2024 kiểm tra cây trồng của ông C bị thiệt hại thực tế,
cung cấp số lượng cho ông Đ1 ghi biên bản. Nvậy, lời trình bày của những
người tiến hành lập biên bản trước sau không thống nhất, nên không căn cứ
chấp nhận.
[2.3] Xét thấy, ông C khởi kiện ông T yêu cầu bồi thường thiệt hại về cây
trồng, hoa màu, nhưng ông C không cung cấp được cứng cứ chứng minh thiệt hại
về cây trồng, hoa màu của ông do nguyên nhân từ ông T phun thuốc diệt cỏ
khai hoang làm chết, cũng không kết luận của quan chuyên môn Nhà xác
định cây trồng, hoa màu của ông C chết là do thuốc diệt cỏ khai hoang của ông T
bay qua làm chết cây. Lời trình bày của ông C đại diện chính quyền địa phương
cũng không có cơ sở pháp lý để xác định nguyên nhân ông T phun thuốc làm chết
cây trồng, hoa màu của ông C. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của
ông C về việc yêu cầu ông T bồi thường thiệt hại về tài sản.
[3] Tại phiên toà sơ thẩm, ông T đồng ý bồi thường cho ông C 20.000.000
đồng, đây sự tự nguyện của ông T, nên Tán cấp thẩm ghi nhận buộc
5
ông T bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông C số tiền 20.000.000 đồng phù
hợp. Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của ông T đồng ý bồi
thường thêm 10.000.000 đồng, tổng cộng là 30.000.000 đồng. Xét thấy, đây là sự
tự nguyện của bị đơn, sự tnguyện này không trái quy định của pháp luật nên
được chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận stự nguyện của bị
đơn, buộc ông T bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông C tổng số tiền
30.000.000 đồng.
[4] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên đề nghị huỷ án sơ thẩm để đưa
người phun thuốc vào tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của
Kiểm sát viên không cần thiết, bởi lẽ nguyên đơn ông C chỉ khởi kiện ông T,
đồng thời nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ nguyên nhân gây thiệt hại
làm chết cây trồng, hoa màu của ông hiện nay cũng không thể giám định
nguyên nhân làm chết cây trồng, hoa màu của ông C, do thời gian đã lâu, ông C
đã trồng lại nhiều loại cây trồng, hoa màu khác.
[5] Từ nhận định trên, Hội đồng t xử căn cứ chấp nhận một phần kháng
cáo của ông Nguyễn Văn C; không có căn cứ chấp nhận ý kiến phát biểu của đại
diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc đề huỷ Bản án dân sự sơ thẩm
số: 109/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Phước
Long, tỉnh Bạc Liêu, giao hồ cho Toà án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc
Liêu thụ lý, giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm, ông Nguyễn Văn C không phải nộp.
[7] Các phần quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị đã hiệu lực pháp luật; nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét,
giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Đều 308 B luật Tố tng dân sự năm 2015.
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn C; Sửa một phần Bản
Bản án dân sự sơ thẩm số: 109/2024/DS-ST ngày 19 tháng 9 năm 2024, của Tòa
án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu.
Áp dụng các Điều 26, 35, 39, 91, 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Các Điều 584, 585, 589, 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết s
02/2022/NQ-TP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự vtrách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng áp phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
6
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C vviệc
yêu cầu ông Nguyễn Đồng T bồi thường thiệt hại về tài sản.
Ghi nhận sự tnguyện của ông Nguyễn Đồng T vviệc tự nguyện bồi
thường thiệt hại cho ông Nguyễn Văn C tổng số tiền 30.000.000 đồng.
Buộc ông Nguyễn Đồng T có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại vtài sản cho
ông Nguyễn Văn C tổng số tiền 30.000.000 đồng.
Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số
tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều
357 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C về việc yêu
cầu ông Nguyễn Đồng T bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền 238.000.000 đồng.
3. Chi phí định giá tài sản: Đã chi phí số tiền 600.000 đồng, ông C ông
T mỗi người phải chịu 300.000 đồng. Ông C đã tạm ứng số tiền 600.000 đồng,
nên buộc ông T có nghĩa vụ hoàn lại cho ông C 300.000 đồng.
4. Về án phí:
Án p dân sự thẩm: Buc ông Nguyễn Đồng T phải nộp số tiền
1.500.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phước Long. Ông Nguyễn
Văn C được miễm tiền án phí.
Án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Văn C không phải nộp.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án Dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a Điều 9 của
Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh; PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- TAND huyện Phước Long;
- CCTHADS huyện Phước Long;
- Đương sự;
- Lưu, Tổ HCTP.
Trương Thanh Dũng
Tải về
Bản án số 24/2025/DS-PT Bản án số 24/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 24/2025/DS-PT Bản án số 24/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất