Bản án số 134/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 134/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 134/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 134/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 134/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 134/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
Bản án số: 134/2025/DS-PT
Ngày: 27-02-2025
V/v tranh chấp: “Đòi tài sản; bồi
thường thiệt hại về tài sản; yêu cầu
hủy kết quả mua bán đấu giá tài sản ”.
- -
NHÂN DANH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà
Các Thẩm phán: Ông .
Bà .
- Thư ký phiên tòa: Ông - Thư ký Toà án nhân dân
tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Ông - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 02 năm 2025, tại Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 507/2024/TLPT-DS ngày 14 tháng 11 năm
2024 về việc tranh chấp “ Đòi tài sản; Bồi thường thiệt hại về tài sản; Yêu cầu
hủy kết quả mua bán đấu giá tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 323/2024/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 576/2024/QĐ-PT ngày
21 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1937;
Địa chỉ: Hẻm B, N, Phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn M, sinh năm 1944 (có mặt);
Địa chỉ: Số I, đường N, Phường A, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
2. B
2.1. Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang;
Địa chỉ: Khu C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T - Chức vụ: Chi cục trưởng.
2
Người đại diện theo ủy quyền của ông T: Anh Mai Thanh B - Chức vụ:
Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang (có mặt).
2.2. Công an huyện C, tỉnh Tiền Giang;
Địa chỉ: Khu A, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Văn T1 - Chức vụ: Trưởng công
an (có đơn đề nghị vắng mặt).
3.
3.1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1972;
Địa chỉ: Ấp B, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn M, sinh năm 1944 (có mặt);
Địa chỉ: Số I, đường N, Phường A, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
3.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn D (Nay là công ty Đ – vắng mặt); Địa
chỉ: Số I, Tổ F, ấp M, xã M, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
3.3. Anh Phạm Văn P, sinh năm 1974 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp M, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3.4. Ông Lê Văn S, sinh năm 1962 (xin vắng mặt);
3.5. Bà Trần Thị H1, sinh năm 1961 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp D, xã A, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Nguyên đơn Huỳnh Văn H.
* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 20/4/2018 và đơn khởi kiện bổ sung ngày
17/10/2018 nguyên đơn ông Huỳnh Văn H và các lời khai của người đại diện ủy
quyền trong quá trình giải quyết vụ án trình bày:
Ông Huỳnh Văn H là người mua trúng tài sản bán đấu giá của Chi Cục thi
hành án dân sự huyện C (Chi Cục thi hành án Dân sự huyện C được viết tắt là
Chi Cục THA) bán là phần đất diện tích 1.116,0m
2
thuộc thửa đất số 1509, tờ
bản đồ ATTC2 với số tiền là 184.000.000 đồng vào ngày 06/4/2011. Sau khi
mua trúng đấu giá ông đã nộp đủ số tiền 184.000.000 đồng cho Chi cục THA
nhưng đến nay Chi Cục THA không giao tài sản theo hợp đồng.
Nay ông H yêu cầu Chi Cục THA và Công an huyện C liên đới trả lại số
tiền mua tài sản 184.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại là tiền lãi theo mức lãi
suất 20%/năm được tính từ ngày 06/4/2011 đến ngày xét xử với số tiền là
487.473.973 đồng, tổng cộng tiền mua tài sản và tiền lãi là 671.473.973 đồng.
* Theo văn bản ý kiến đề ngày 02/7/2018 bị đơn Chi Cục THA cũng như lời
khai trong quá trình giải quyết vụ án đại diện ủy quyền trình bày:
3
Chi Cục THA có thi hành bản án số 123/2007/DS-PT ngày 22/3/2007 của
Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, theo quyết định bản án buộc bà Trần Thị H1
trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền 8.000.000 đồng và 84 chỉ vàng 24k.
Chi Cục THA đã ra quyết định thi hành án số 944/THA-TĐYC ngày
17/4/2007, quá trình thi hành án do bà H1 có điều kiện nhưng không tự nguyện
thi hành nên C1 đã ra quyết định kê biên số 30/QĐ-THA ngày 27/8/2007 kê
biên tài sản của bà H1 ( BL149). Ngày 12/9/2007 lập biên bản kê biên thửa đất
số 1285, diện tích 1.116,0m
2
( BL147) và tiến hành các thủ tục bán đấu giá tài
sản. Qua nhiều lần bán đấu giá đến ngày 06/4/2011 bán đấu giá thành, ông H
(ông H là chồng bà L là người được thi hành án) là người mua trúng đấu giá với
số tiền là 184.000.000 đồng. Quá trình thi hành án giao tài sản không thực hiện
được do ông H thường vắng mặt tại địa phương, hơn nữa sau khi kê biên, ông S
chồng bà H1 trước đây là Công an xã được đồng đội cho tiền xây dựng 01 căn
nhà trên phần đất nên không giao tài sản được cho ông H và ông H không nộp
tiền mua tài sản mà khấu trừ vào tiền bà L được thi hành án.
Nay Chi Cục THA không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông H.
* Theo công văn số 491/CAH-HTTP ngày 20/10/2019 bị đơn Công an
huyện C trình bày:
Quá trình thực hiện công tác phối hợp trong công tác cưỡng chế thi hành
án, tháng 6/2018 Công an có nhận được kế hoạch cưỡng chế thi hành án số
287/KH-CCTHADS ngày 08/6/2019 của Chi Cục thi hành án. Do vụ việc có
tính chất phức tạp, đương sự chống đối. Ngày 28/02/2019 Công an huyện C có
Công văn số 360/CV-CAH-HTTP về việc trao đổi việc phối hợp việc cưỡng
chế. Đến tháng 9/2019 các ban ngành huyện, Viện kiểm sát đề nghị xem lại hồ
sơ cưỡng chế nhưng đến nay Công an huyện C chưa nhận được kế hoạch cưỡng
chế.
* Theo bản khai ý kiến đề ngày 05/11/2018 người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị L cũng như lời khai của đại diện ủy quyền trong quá
trình giải quyết vụ án trình bày:
Bà L là vợ của ông Huỳnh Văn H và là người được thi hành án theo bản án
số 123/2007/DS-PT ngày 22/3/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang, theo
quyết định bản án buộc bà Trần Thị H1 trả cho bà số tiền 8.000.000 đồng và 84
chỉ vàng 24k, nhưng bà H1 không thi hành.
Chi Cục THA đã tiến hành kê biên tài sản bà H1 và bán đấu giá phần đất
diện tích 1.116,9m
2
, ông H là chồng bà là người mua trúng đấu giá số tiền
184.000.000 đồng vào ngày 06/4/2011, đồng thời ông H đã giao đủ số tiền trên
cho bà và bà đã tự nguyện nộp chi phí thi hành án, nên phần đất trên thuộc
quyền sử dụng đất của ông H, nhưng đến nay ông H chưa nhận được phần đất
mua trúng đấu giá làm thiệt thòi quyền lợi ông H, nên đề nghị Tòa án chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông H.
4
* Theo văn bản ý kiến đề ngày 30/03/2023 và đơn khởi kiện yêu cầu độc
lập ngày 27/11/2023 cũng như lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn P trình bày:
Trước đây anh là chấp hành viên Chi Cục THA dân sự huyện C được phân
công trực tiếp thi hành bản án số 123/2007/DS-PT ngày 22/3/2007 của Tòa án
nhân dân tỉnh Tiền Giang, theo quyết định bản án buộc bà Trần Thị H1 trả cho
bà Nguyễn Thị L số tiền 8.000.000 đồng và 84 chỉ vàng 24k. Do bà H1 không tự
nguyện thi hành nên C1 đã ra quyết định kê biên bán đấu giá tài sản của bà H1
là phần đất diện tích 1.116,9m
2
, anh là chấp hành viên đại diện Chi Cục THA ký
hợp đồng mua bán đấu giá, ông H là người mua trúng đấu giá với số tiền là
184.000.000 đồng, nhưng không giao được tài sản cho ông H. Nguyên nhân do
sau khi kê biên ông S là chồng bà H1 được đồng đội cất 01 căn nhà trên đất,
đồng thời do sai sót trong đánh văn bản thửa đất kê biên thửa số 1285 và thửa
đất bán đấu giá thửa 1509 là 02 thửa khác nhau, đồng thời ông H cũng không có
nộp tiền mua trúng đấu giá tài sản mà xin khấu trừ vào số tiền bà L được thi
hành án.
Nay anh yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản theo hợp đồng mua bán số
16/2011/HĐMBTS.BĐG ngày 06/4/2011 giữa Chi Cục THA với ông Huỳnh
Văn H và yêu cầu bà L trả lại tiền đã nhận được từ thi hành án và tiền lãi phát
sinh để khôi phục lại việc thi hành bản án.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn D; Nay là công ty Đ (Công ty trách nhiệm
hữu hạn D; Nay là công ty Đ được viết tắt là ( Công ty D)) là cơ quan, tổ chức
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không cung cấp ý kiến cũng như lời khai đối với
việc kiện.
* Ông Lê Văn S và bà Trần Thị H1 là người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan không cung cấp ý kiến cũng như lời khai đối với việc kiện.
* Tại phiên tòa sơ thẩm: Đại diện ủy quyền nguyên đơn rút yêu cầu khởi
kiện Công an huyện C, tỉnh Tiền Giang về việc cùng với Chi C THA trả tiền.
Anh P rút yêu cầu bà L trả lại số tiền được thi hành án 184.000.000 đồng và tiền
lãi phát sinh. Còn lại các bên vẫn giữ ý kiến và yêu cầu như trên.
323/2024/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
- Căn cứ vào Điều 123, Điều 131, Điều 166, Điều 408, Điều 430, Điều 584
và Điều 589 của Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ vào Điều 71, Điều 102 của Luật Thi hành án Dân sự;
- Căn cứ vào Điều 72, Điều 73, Điều 74 của Luật Đấu giá tài sản 2016;
- Căn cứ khoản 3, 6 và 13 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39, Điều 70, Điều 72, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 244 và Điều
273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự;
5
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội.
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về việc yêu
cầu Chi Cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang trả số tiền 671.473.973
đồng (Tiền mua tài sản đấu giá là 184.000.000 đồng, tiền lãi phát sinh là
487.473.973 đồng).
Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn H về việc yêu cầu
Công an huyện C, tỉnh Tiền Giang cùng Chi Cục thi hành án dân sự huyện C,
tỉnh Tiền Giang trả tiền.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của anh Phạm Văn P:
- Hủy kết quả bán đấu giá theo hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số
16/2011/HĐMBTS.BĐG ngày 06/4/2011 được Văn phòng C2 công chứng số
246, quyển số 01 giữa Chi Cục thi hành án Dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang với
ông Huỳnh Văn H, thửa đất số 1509, tờ bản đồ số ATTC2, diện tích 1.116m
2
.
- Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện độc lập của anh Phạm Văn P về việc
yêu cầu bà Nguyễn Thị L trả số tiền được thi hành án 184.000.000 đồng và tiền
lãi phát sinh.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí và quyền
kháng cáo của đương sự.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024, nguyên đơn Huỳnh Văn H kháng cáo bản án sơ
thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử theo hướng sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận
yêu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Văn P vẫn giữ nguyên yêu cầu độc
lập về yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá theo hợp đồng mua bán tài sản bán đấu
giá số 16/2011/HĐMBTS.BĐG ngày 06/4/2011; các đương sự không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm
đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đối với yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, Đại diện Viện kiểm sát nhận
định: Cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng cứ, hồ sơ bán đấu giá để làm rõ khi ký
kếp hợp đồng ủy quyền bán đấu giá thì Chi cục Thi hành án dân sự huyện C đã
cung cấp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn D quyết định kê biên (có thể hiện
thửa đất 1285) và Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo hiện trạng
sử dụng để đưa vào hồ sơ đấu giá và cung cấp cho các bên đấu giá; việc bán đấu
giá tài sản vào ngày 31/3/2011 nên phải áp dụng trình tự thủ tục và giải quyết
6
kết quả đấu giá theo quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010
của Chính phủ chứ không thể áp dụng Luật Đấu giá tài sản năm 2016 để giải
quyết. Tuy nhiên, ông P không yêu cầu tuyên bố hợp đồng ủy quyền bán đấu giá
tài sản giữa Chi cục THADS huyện C ký với Công ty trách nhiệm hữu hạn D và
Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá ngày 06/4/2011 giữa Công ty trách nhiệm
hữu hạn D với ông Huỳnh Văn H vô hiệu nên không có cơ sở xem xét hủy kết
quả bán đấu giá tài sản theo quy định. Mặc khác, kết quả bán đấu giá tài sản trên
cũng không bị hủy theo quy định tại Điều 72 của Luật Đấu giá tài sản năm 2016.
Nên Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện độc lập của ông P là không
đúng quy định của pháp luật. Từ đó nhận thấy Cấp sơ thẩm chưa thu thập chứng
cứ đầy đủ, quyết định của bản án sơ thẩm có vi phạm pháp luật nghiêm trọng,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mà cấp phúc thẩm
không thể khắc phục được nên đề nghị HĐXX phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ
thẩm, do đề nghị hủy án sơ thẩm nên chưa xem xét đến kháng cáo của đương sự.
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, ý
kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Xét đơn kháng cáo do nguyên đơn nộp còn trong thời hạn và hợp lệ, đúng
quy định được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định quan hệ tranh chấp đúng quy định và đúng
thẩm quyền giải quyết.
Về sự tham gia của các đương sự: Đại diện Công ty TNHH D, bà Trần Thị
H1 được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, ông Lê Văn S có
đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự
tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt họ.
[2] Về yêu cầu của các đương sự:
[2.1] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Văn H:
- Yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện C trả số tiền 184.000.000 đồng
và tiền lãi từ ngày 06/4/2011 với mức lãi suất là 1,125% tháng (bút lục 06).
- Ngày 17/10/2018 nguyên đơn yêu cầu khởi kiện bổ sung: Yêu cầu Công
an huyện C có nghĩa vụ liên đới với Chi cục thi hành án dân sự huyện C trả số
tiền 184.000.000 đồng và tiền lãi nêu trên.
[2.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Văn P có yêu cầu độc
lập (bút lục 382-385):
- Hủy kết quả bán đấu giá số 16/2011/HĐMBTS.ĐG ngày 06/4/2011 giữa
Công ty TNHH D và ông Huỳnh Văn H để Chi cục thi hành án dân sự huyện C
khôi phục lại việc thi hành bản án số 123/2007/DSPT ngày 22/3/2007.
7
- Yêu cầu bà Nguyễn Thị L phải trả lại tiền đã nhận và tiền lãi theo quy
định từ việc tổ chức thi hành bản án số 123/2007/DSPT ngày 22/3/2007 của
TAND tỉnh Tiền Giang hoặc yêu cầu Tòa án cấn trừ số tiền này.
- Không đồng ý yêu cầu bồi thường của ông H vì khi hủy kết quả bán đấu
giá, khôi phục lại việc thi hành án thì bà L đã cấn trừ tiền cho ông H, thực chất
ông H không có bỏ tiền ra để mua tài sản đấu giá.
[2.3] Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện ủy quyền nguyên đơn rút yêu cầu khởi
kiện Công an huyện C, tỉnh Tiền Giang về việc liên đới với Chi Cục THA trả
tiền. Anh P rút yêu cầu bà L trả lại số tiền được thi hành án 184.000.000 đồng và
tiền lãi phát sinh.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nội dung sau:
Để thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 123/2007/DS-PT ngày 22/3/2007,
Trưởng Thi hành án - Chi cục thi hành án huyện C ban hành Quyết định thi hành
án số 944/THA-TĐYC ngày 17/4/2007, nội dung thi hành: “Buộc chị Trần Thị
H1 trả cho chị Nguyễn Thị L 84 chỉ vàng 24k và 8.000.000 đồng (tiền Việt
Nam)” (bút lục 155). Và phân công cho Chấp hành viên Phạm Văn P thi hành.
Quá trình thi hành án, bà H1 không tự nguyện thi hành án, qua xác minh thì ông
Lê Văn S (chồng của bà H1) có đại diện hộ gia đình đứng tên quyền sử dụng đất
của 03 thửa gồm: Thửa 1285 diện tích 1261m
2
- đất CLN; thửa 1279 diện tích
2066m
2
- đất LUA; thửa 1509 diện tích 2180m
2
- đất CLN (bút lục 150). Do bà
H1 là thành viên hộ gia đình nên Chấp hành viên tổ chức định giá và làm thủ tục
đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất có diện tích 1.116m
2
, địa chỉ: ấp D - xã A -
huyện C - tỉnh Tiền Giang. Và ông Huỳnh Văn H (chồng bà Nguyễn Thị L) là
người trúng đấu giá tài sản trên.
Nhận thấy, Bản án sơ thẩm đã nhận định đánh giá tính hợp pháp của việc
bán đấu giá và ký hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá giữa Chi Cục thi hành
án huyện C với ông H theo hợp đồng số 16/2011/HĐMBTS.BĐG là vô hiệu do
trái quy định pháp luật và có đối tượng không thể thực hiện được theo quy định
tại Điều 123 và Điều 408 Bộ luật dân sự quy định; và xử lý hậu quả của hợp
đồng vô hiệu.
Hồ sơ vụ án thể hiện:
- Quyết định kê biên tài sản số 30/QĐ-THA ngày 27/8/2007 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện C (bút lục 149) kê biên tài sản của Trần Thị H1, tài
sản kê biên là 1.300m
2
đất vườn trồng cam nhãn.
- Biên bản kê biên tài sản ngày 12/9/2007 (bút lục 147) theo Quyết định số
30/QĐ-THA đã kê biên tài sản của Trần Thị H1 gồm: “Đất vườn 1.116,9m
2
đất
trồng cam, nhãn, bưởi (thửa 1285, tờ bản đồ ATTC2, giấy chứng nhận
H01920)”.
- Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng
(không ghi ngày tháng), xác định ranh giới thửa đất của hộ Trần Thị H1 (bút lục
8
146) tiếp giáp các cạnh: Cạnh đông: Giáp hộ Lê Văn K; Cạnh tây: giáp kênh;
Cạnh nam: giáp hộ Lê Văn K; Cạnh bắc: giáp Nguyễn Thị H2.
- Quyết định thành lập Hội đồng định giá số 10/QĐ-THA ngày 31/7/2008
Biên bản định giá tài sản theo Quyết định kê biên tài sản số 30/QĐ-THA ngày
27/8/2007 đối với tài sản định giá là phần đất 1.116,2m
2
có tứ cận như mô tả tại
Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng.
Như vậy, tài sản kê biên để thi hành bản án số 123/2007/DS-PT ngày
22/3/2007 cơ quan Thi hành án dân sự huyện C xác định là quyền sử dụng
1.116,9m
2
đất vườn thuộc , tờ bản đồ ATTC2 theo giấy chứng nhận
H01920.
Xét thấy, quá trình thực hiện kê biên tài sản và bán đấu giá tài sản của bà
Trần Thị H1 có những vi phạm như sau:
- Quyền sử dụng 1.116,9m
2
đất vườn thuộc , tờ bản đồ ATTC2
theo giấy chứng nhận H01920 được cấp cho Hộ ông Lê Văn S (là chồng bà H1)
theo Công văn số 45/CV-VPĐKQSDĐ ngày 10/12/2008 của Văn phòng đăng
ký đất đai huyện C (bút lục 150); Và Hộ gia đình ông S gồm: ông Lê Văn S (chủ
hộ), Trần Thị H1, Lê Thị Thanh T2 - sinh năm 1983, Lê Thị Thanh T3 – sinh
năm 1985, Lê Thị Thanh T4 – sinh năm 1990, và mẹ già mất sức lao động (bút
lục 139). Nhưng hồ sơ không thể hiện căn cứ để xác định quyền sử dụng
1.116,9m
2
đất vườn thuộc thửa 1285 được cấp cho hộ ông Lê Văn S là tài sản
thuộc quyền sử dụng của bà H1, đồng thời cũng không có tài liệu chứng cứ thể
hiện sự đồng ý của các thành viên của hộ, cũng như có việc tống đạt hợp lệ các
văn bản liên quan đến việc kê biên cho các thành viên trong hộ.
- Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản số 241/HĐUQ ngày 15/12/2008
(bút lục 136-138), số 71/HĐUQ ngày 21/5/2009 (bút lục 130–131), giữa Chấp
hành viên và Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tỉnh T; Hợp đồng ủy quyền bán đấu
giá tài sản số 52/2011/HĐUQ.BĐGTS ngày 14/02/2011 (do Ông P nộp tại phiên
tòa phúc thẩm) giữa chấp hành viên và Công ty TNHH D lại xác định tài sản bán
đấu giá là “Đất vườn tọa lạc tại ấp D xã A huyện C tỉnh Tiền Giang ... do anh Lê
Văn S (chồng chị Trần Thị H1) đại diện hộ đứng tên”. Bản án sơ thẩm nhận
định, theo kết quả bán đấu giá ngày 31/3/2011 và Hợp đồng mua bán tài sản đấu
giá số 16/2011/HĐMBTS.BĐG ngày 06/4/2011 (bút lục 254) giữa ông H và
Công ty TNHH D là nên không thể thực hiện cưỡng chế giao tài sản
cho ông H theo hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá số
16/2011/HĐMBTS.BĐG ngày 06/4/2011 nhưng chưa làm rõ lỗi dẫn đến việc
bán đấu giá thửa 1509 thay vì thửa 1285 là do: Chấp hành viên Thi hành án,
Công ty TNHH D (nay là Công ty Đ) từ đó mới xác định được chính xác nghĩa
vụ bồi thường khi Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số
16/2011/HĐMBTS.BĐG ngày 06/4/2011 vô hiệu, vấn đề này còn liên quan đến
việc xử lý hậu quả của Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số
16/2011/HĐMBTS.BĐG ngày 06/4/2011 vô hiệu. Vì vậy, cấp sơ thẩm nhận
định, tài sản kê biên thực hiện thủ tục bán đấu giá là 1.116,9m
2
đất vườn thuộc
nhưng quá trình bán đấu giá lại thực hiện bán đấu giá nên
9
Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số 16/2011/HĐMBTS.BĐG ngày 06/4/2011
vô hiệu, lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu là do Chi cục Thi hành án mà chưa làm rõ
trách nhiệm của các đơn vị tham gia đấu giá như nhận định trên là chưa toàn
diện và khách quan.
Cấp sơ thẩm nhận định “... mặc dù lỗi dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu do Chi
Cục THA làm thiệt thòi quyền lợi ông H, nhưng sau khi mua trúng đấu giá ông
H không nộp tiền mà chỉ làm thủ tục khấu trừ vào số tiền bà L được thi hành án,
đồng thời tại phiên tòa đại diện ủy quyền ông H, bà L cũng xác định ông H cũng
không có giao tiền cho bà L, như vậy thực tế ông H không có nộp số tiền
184.000.000 đồng cho Chi Cục THA, nên việc ông yêu cầu Chi C THA trả lại số
tiền 184.000.000 đồng và tính tiền lãi phát sinh do thiệt hại là không có căn cứ”
là chưa chính xác, bởi lẽ việc cấn trừ số tiền được thi hành án của bà L (vợ ông
H) vào số tiền trúng đấu giá là được sự đồng ý của bà L, đây là thỏa thuận tự
nguyện giữa ông H và bà L, như vậy việc thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số
123/2007/DS-PT ngày 22/3/2007 đã thực hiện, điều này phù hợp với lời trình
bày của ông P tại phiên tòa phúc thẩm là số tiền 184.000.000 đồng nêu trên đã
thi hành 01 phần nghĩa vụ của bà H1 theo quyết định của Bản án số
123/2007/DS-PT. Mặc khác, sau khi ông H và bà L cấn trừ nếu ông H không
giao tiền lại cho bà L thì bà L được quyền khởi kiện bằng vụ án khác, cấp sơ
thẩm nhận định ông H không có giao tiền lại cho bà L là không có nộp số tiền
184.000.000 đồng cho Chi cục Thi hành án nên không chấp nhận yêu cầu Chi
cục Thi hành án trả lại số tiền 184.000.000 đồng là không phù hợp.
Vi phạm về nội dung trên, Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục
được do vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử. Do đó, cần hủy Bản án sơ thẩm số
323/2024/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh
Tiền Giang, giao hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung.
[4] Về án phí: Do hủy án sơ thẩm, chưa xét yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, mặc khác
nguyên đơn là người cao tuổi nên cấp sơ thẩm xét cho nguyên đơn miễn nộp tạm
ứng án phí kháng cáo.
[5] Xét ý kiến và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền
Giang là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 313; Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
:
Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 323/2024/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Giao hồ sơ vụ án về cho Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang giải
quyết lại theo thẩm quyền.
10
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện C;
- CC THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
-
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm