Bản án số 295/2025/DS-PT ngày 07/08/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 295/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 295/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 295/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 295/2025/DS-PT ngày 07/08/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 295/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/08/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông H khởi kiện yêu cầu buộc Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình phải bồi thường thiệt hại cho ông theo giá trị thẩm định giá gồm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 295/2025/DS-PT
Ngày 07 – 8 – 2025
V/v yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài
sản bị xâm phạm
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Đặng Minh Trung
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Bùi Trung Biển - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 8 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 209/2025/TLPT-DS ngày 24 tháng 6
năm 2025 về việc: Yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 47/2025/DS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 211/2025/QĐ-PT ngày 14
tháng 7 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tấn H, sinh năm 1956 (Vắng mặt);
Căn cước công dân số: 089056010049; cấp ngày: 12/9/2022; nơi cấp: Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội.
Địa chỉ cư trú: Ấp B, thị trấn N, huyện T, tỉnh An Giang, nay là: Ấp B, xã T,
tỉnh An Giang.
Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của ông Nguyễn Tấn H: Ông Hà
Văn S, sinh năm 1958; địa chỉ cư trú: Ấp T, xã L, thành phố C, Cà Mau. Nay là ấp
T, phường L, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
- Bị đơn: Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (nay là
Phòng thi hành án dân sự khu vực 2 – Cà Mau);
Địa chỉ: Khóm 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh C.
Nay là: Khóm 1, xã Thới Bình, tỉnh Cà Mau
Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền: Ông Phan Trần Nguyên H1, chức
vụ: Phó Trưởng Phòng thi hành án dân sự khu vực 2 – Cà Mau (Có mặt).
2
- Người kháng cáo: Ông Hà Văn S, là người đại diện hợp pháp của ông
Nguyễn Tấn H, là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong quá trình tố tụng người đại diện theo uỷ quyền của Nguyên đơn ông
Hà Văn S trình bày:
Ông H có phần đất tổng diện tích 18.070 m
2
(trong đó: Đất lập vườn 12.730
m
2
thuộc thửa 0113, 0115 và 5.360 m
2
đất trồng lúa thuộc thửa số 0114, tờ bản đồ
số 01) tại ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau, được Ủy ban nhân dân huyện T cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DO 899765 theo Quyết định số 117/QĐ-UB
ngày 31/03/1994. Đất ông H giáp ranh hướng tây của đất ông Nguyễn Tấn L, ông
L được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 20.040 m
2
. Quá
trình sử dụng đất giữa ông H và ông L không có tranh chấp ranh đất với nhau, mục
đích sử dụng đất của ông H và ông L đều làm vuông nuôi tôm có bờ bao riêng.
Ông L là người phải thi hành án, khi cưỡng chế Chi cục thi hành án dân sự huyện
Thới Bình kê biên diện tích 24.483 m
2
, lấn chiếm qua đất của ông H là 4.443 m
2
rồi bán đấu giá không thành, tiếp tục giao cho bên thi hành án đã chuyển quyền
qua nhiều người, việc thay đổi thông tin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông Nguyễn Tấn L cho Ngân hàng thương mại cổ phần P, ông S, ông V1 là dựa
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông L với diện tích là 20.040m
2
. Ông
H bị mất diện tích đất 4.443 m
2
loại đất lập vườn, ông H đã khởi kiện người đang
trực tiếp quản lý sử dụng là ông V1 để đòi đất nhưng bị Toà án hai cấp tỉnh Cà
Mau bác yêu cầu khởi kiện. Tòa xác định người đang trực tiếp sử dụng đất là ngay
tình, đất này được Chi cục thi hành án dân sự giao. Như vậy, lỗi này thuộc về Chi
cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình. Do đó, ông H khởi kiện yêu cầu buộc Chi
cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình phải bồi thường thiệt hại cho ông theo giá
trị thẩm định giá gồm: Diện tích đất vườn 4.443m
2
x 90.000 đồng = 399.870.000
đồng; dừa 15 cây = 11.520.000 đồng; chi phí thẩm định giá 8.470.000 đồng; chi
phí đo đạc 59.907.400 đồng. Tổng cộng số tiền là: 479.767.400 đồng.
- Đại diện Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình trình bày:
Căn cứ Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số
36/2013/QĐST-DS ngày 26/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình giữa
nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần P với bị đơn ông Nguyễn Tấn L, bà
Dương Ngọc H2, cơ quan Thi hành án dân sự huyện T có tiến hành kê biên quyền
sử dụng đất của ông Nguyễn Tấn L diện tích 20.040m
2
cấp cho ông L ngày
16/6/1995 để thi hành Quyết định nêu trên. Khi Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện T đo đạc thực tế quyền sử dụng đất của ông L để kê biên thì phần đất
của ông L có diện tích 24.483m
2
, dư 4.443 m
2
so với quyền sử dụng đất, khi đo đạc
có mặt ông L và các kế cận giáp ranh, trừ ông H. Do có sự chênh lệch diện tích,
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình có trao đổi với Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện T tiến hành niêm yết công khai thủ tục và xuất bản vẽ. Cơ
quan Thi hành án dân sự huyện T căn cứ theo thủ tục này để kê biên đất của ông L
cho Ngân hàng thương mại cổ phần P. Sau khi bán đấu giá không có người mua,
thì Ngân hàng thương mại cổ phần P đồng ý nhận tài sản để trừ nghĩa vụ thi hành
3
án của ông L. Ngân hàng được chỉnh lý đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ngày 29/01/2019; sau đó Ngân hàng chuyển nhượng lại cho ông Lê Hoàng S1,
ông S1 được chỉnh lý đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
15/12/2020; ông S1 tiếp tục chuyển nhượng phần đất lại cho ông Châu Ngọc V,
ông V1 đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/10/2021. Ông H có
khởi kiện ông Châu Ngọc V1 để đòi lại đất, Tòa án nhân dân huyện Thới Bình và
Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
H. Từ những lý do trên, Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông H.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 47/2025/DS-ST ngày 12 tháng 5 năm 2025 của Tòa
án nhân dân huyện Thới Bình quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tấn H về việc yêu cầu
Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm
phạm.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 26/5/2025, ông Hà Văn S là người đại diện của ông Nguyễn Tấn H có
đơn kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
H.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Hà Văn S giữ nguyên kháng cáo.
Phần tranh luận tại phiên toà:
Ông S phát biểu: Đất ông L và đất ông H giáp ranh với nhau, khi đo đạc
phần đất của ông L để kê biên không có mặt ông H, không có ông H ký giáp ranh;
phần đất đo đạc của ông Lộc D so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn
phần đất ông H bị thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cơ quan thi
hành án có lỗi là khi đo đạc không thông báo cho người giáp ranh hay để xác định
ranh, chưa làm rõ phần đất đo đạc dư là đất của ai. Toà án cấp sơ thẩm xác định cơ
quan thi hành án không có lỗi là chưa đúng. Do đó, yêu cầu Hội đồng xét xử chấp
nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
H.
Ông H1 không có ý kiến tranh luận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
không chấp nhận kháng cáo của ông Hà Văn S là người đại diện của ông Nguyễn
Tấn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của ông Hà Văn S là người đại diện của ông Nguyễn Tấn H,
Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Ngày 08/9/2015, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình lập biên
bản kê biên xử lý tài sản là quyền sử dụng đất có diện tích 24.483m
2
và tài sản có
trên đất của ông Nguyễn Tấn L và bà Dương Ngọc H2 tại ấp T, xã B huyện T, tỉnh
Cà Mau để thi hành án cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần P. Sau 04 lần phát
mãi bán đấu giá không có người mua, ngày 13/3/2017 Chi cục Thi hành án dân sự
4
huyện Thới Bình có lập biên bản giải quyết việc thi hành án, nội dung ông L và bà
H2 tự nguyện giao diện tích theo đo đạc 24.483 m
2
cùng cây trồng trên đất và hệ
thống đê bao vuông tôm đã bị kê biên theo Quyết định 381/QĐ-CCTHADS ngày
26/8/2015 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình cho Ngân hàng Thương
mại Cổ phần P để đối trừ số tiền phải thi hành án. Ngày 02/6/2017, Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Thới Bình có biên bản giao quyền sử dụng đất và tài sản có
trên đất cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần P diện tích 24.483 m
2
theo Mãnh
trích đo địa chính ngày 15/11/2016. Ngày 29/01/2019, Ngân hàng Thương mại Cổ
phần P được chỉnh lý đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, Ngân
hàng Thương mại Cổ phần P chuyển nhượng quyền sử dụng đất lại cho vợ chồng
ông Lê Hoàng S1 và bà Mã Thị Anh T, ông S1 và bà T được chỉnh lý đứng tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/12/2020. Ông S1 và bà T tiếp tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lại cho ông Châu Ngọc V1, ông V1 được chỉnh
lý đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 14/10/2021, ông V1 quản lý
sử dụng đất đến nay.
[2] Việc Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình cưỡng chế, kê biên
quyền sử dụng đất của ông L và bà H2 có sự tham gia đo đạc của cơ quan chuyên
môn là Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T. Phần đất diện tích 4.443m
2
ông H cho rằng Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình đo đạc kê biên lấn
chiếm qua đất của ông H là một phần trong phần đất của L và bà H2 bị cưỡng chế
kê biên nói trên.
[3] Tại thời điểm đo đạc phần đất của ông L và bà H2 để cưỡng chế kê biên
thi hành án thì phần đất ông L, bà H2 và phần đất của ông H đang sử dụng mục
đích nuôi tôm, đất đã có bờ bao riêng. Phần đất của ông L và bà H2 đã có bờ bao
chu vi, tách biệt riêng với phần đất của ông H và các phần đất của các hộ giáp ranh
khác. Quá trình quản lý sử dụng đất từ trước đến nay, giữa ông H với ông L và bà
H2 cũng không xảy ra tranh chấp với nhau về ranh đất. Mặc dù diện tích đất đo đạc
có dư so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông L và bà H3
4.443m
2
, nhưng phần diện tích này vẫn nằm trong phạm vi ranh giới của phần đất
ông L và bà H2 đang sử dụng. Kết quả đo đạc cũng được Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện T niêm yết công khai theo quy định, nhưng cũng không có
ai có ý kiến gì về kết quả đo đạc đã được niêm yết. Mặc dù theo đo đạc thực tế
phần đất của ông L và bà H2 có diện tích 24.483m
2
, diện tích dư 4.443m
2
so với
diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng ông L và bà H2
cũng tự nguyện giao toàn bộ diện tích đất theo đo đạc 24.483m
2
cho Ngân hàng
Thương mại Cổ phần P để đối trừ nghĩa vụ phải thi hành án.
[4] Tại phiên toà, ông S1 cho rằng theo đo đạc diện tích đất của ông L và bà
H2 dư so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, diện tích đất ông H
thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, để làm căn cứ xác định
phần đất diện tích 4.443m
2
nêu trên là của ông H, ngoài căn cứ này ông S1 cũng
không có căn cứ nào khác. Xét căn cứ như ông S1 đặt là chưa có cơ sở; do đó Toà
án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ.
5
[5] Từ nhận định trên, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo ông Hà
Văn S là người đại diện của ông Nguyễn Tấn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù
hợp.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Tấn H được miễn chịu án phí.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt
ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Hà Văn S là người đại diện của ông
Nguyễn Tấn H.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 47/2025/DS-ST ngày 12 tháng 5 năm
2025 của Toà án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Nay là Toà án nhân dân
khu vực 2 – Cà Mau.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tấn H về việc yêu
cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình bồi thường thiệt hại do tài sản bị
xâm phạm với số tiền là 479.767.400 đồng.
- Án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm: Ông Nguyễn Tấn H được miễn chịu án
phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân khu vực 2- Cà Mau;
- Phòng THADS khu vực 2- Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm