Bản án số 71/2025/DS-PT ngày 05/05/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 71/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 71/2025/DS-PT ngày 05/05/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Quan hệ pháp luật: Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 71/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông U khởi kiện ông P
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 71/2025/DS-PT
Ngày : 03 - 4 - 2025
V/v Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Kim Chi
Các thẩm phán: Bà Sơn Nữ Phà Ca
Ông Nguyễn Văn Dũng
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Ngọc Vệ Thư Toà án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long: Đoàn Thị Kim
Tuyền – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 03 tháng 4 năm 2025, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 26/2025/TLPT DS ngày 14 tháng 02
năm 2025, về việc “Yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do bản án dân sự thẩm số: 75/2025/DS-ST ngày 16 tháng 12 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Mang Thít bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số: 57/2025/QĐPT-DS
ngày 14 tháng 03 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần n Ú, sinh năm 1973; địa chỉ: khóm F, thtrấn
C, huyện M, tỉnh Vĩnh Long (có mặt).
2. Bị đơn:
2.1. Ông Trần n P, sinh năm 1963 (có mặt).
2.2. Bà Đỗ Thị Kim E, sinh năm 1960 (có mặt).
Cùng địa chỉ: Khóm F, thị trấn C, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.
3. Người kháng cáo: nguyên đơn ông Trần Văn Ú
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Tại đơn khởi kiện ngày 21/5/2024 trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn ông Trần Văn Ú trình bày:
Ông chủ sử dụng thửa đất số 3, diện tích 6.960,1m2, loại đất chuyên
trồng lúa nước thửa số 8, diện tích 522,2m2, loại đất trồng cây lâu m, 02
thửa đất này liền kề với nhau, cùng tọa lạc khóm F, thị trấn C, huyện M, tỉnh
Vĩnh Long. G liền kvới thửa số 3 thửa số 8 đất của ông Trần n P bao
gồm c thửa đất 164, 143, 137.
Nguồn gốc các thửa đất trên cho cha mẹ tặng cho. Lúc sinh thời cha mẹ
mở lối dẫn nước cập đường công cộng để thuận tiện cho việc canh tác các
thửa đất. Đầu năm 2022, khi ông P chuẩn bị chuyển nhượng thửa đất số 137 cho
người khác thì ông Ú yêu cầu ông Phu C lại đường dẫn nước chiều ngang 01
mét qua các thửa đất 164, 143, 137 nng ông P không đồng ý nên ngày
24/3/2022 ông Ú nộp đơn tranh chấp lối dẫn nước qua thửa đất 137 tại UBND
thị trấn C, sau đó ông Ú tiếp tục nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện
Mang Thít tranh chấp về quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác qua thửa đất
137.
Tại thời điểm Tòa án đang giải quyết tranh chấp lối dẫn nước qua thửa 137
thì hiện trạng kênh dẫn nước qua thửa 137 vẫn còn dẫn nước bình thường đến
tháng 5/2022 phía Bị đơn (vợ chồng ông P) lấp kênh đẫn nước cặp 02 thửa đất
143 và 164, khi lấp phía bị đơnđặt ống bọng đường kính khoảng 0,3 mét đến
ngày 30/01/2024 thì phía bị đơn mới đào kênh công cộng cặp 02 thửa đất 143 và
164 trả lại hiện trạng kênh dẫn nước như ban đầu.
Thửa đất số 3 của ông Ú canh tác 01 năm trồng 03 vụ lúa hoặc 04 vụ dưa
hấu, thửa đất số 8 ông Ú trồng bưởi. Thu nhập trung bình từ thửa số 3 và thửa số
8 là 5.000.000 đồng/1000m2/năm. Trong thời gian phía bị đơn lấp kênh công
cộng chỉ đặt ống bọng đường kính 0,3 mét không dẫn đủ nước để ông Ú canh
tác 02 thửa đất số 3 và số 8, nên ông Ú phải thuê đất của người khác để canh tác.
Từ việc bị đơn lấp kênh công cộng đã gây ra thiệt hại cho ông Ú, tính từ đầu
năm 2022 đến đầu m 2024 02 năm mức thiệt hại 5.000.000
đồng/1000m2/năm x 7.482,3m2 x 02 năm = 74.823.000 đồng.
3
Do đó, ông Ú khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bị đơn ông Trần
Văn P Đỗ Thị Kim E phải trách nhiệm bồi thường cho ông Ú số tiền
thiệt hại mất thu nhập nông nghiệp là 74.823.000 đồng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Trần Văn P, ĐThị Kim
E và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
Ông P chủ sdụng các thửa đất 164, 143 137 giáp ranh với thửa đất
số 3 và thửa đất số 8 của ông Ú, các thửa đất cùng tọa lạc tại Khóm F, thị trấn C,
huyện M, tỉnh Vĩnh Long. Vào tháng 5/2022 ông Ú tranh chấp về quyền tưới
nước, tiêu nước trong canh tác với ông P và bà E qua thửa đất 137. Tại thời điểm
Tòa án đang giải quyết tranh chấp lối thoát nước qua thửa 137 thì hiện trạng
không kênh dẫn nước qua thửa 137, thửa 137 giáp với đường công cộng.
Trong thời gian đang tranh chấp (không nhớ ngày nào) E ông P lấp đất
công cộng đặt ống bọng cặp theo 02 thửa đất 143 164 để làm lối đi từ nhà
ông P ra đường công cộng, đường kính ống bọng khoảng 0,3 mét đ để dẫn
nước phục vụ cho ông Ú tưới tiêu trong canh tác. Đến ngày 30/01/2024 thực
hiện theo văn bản số 24/UBND ngày 06/11/2023 của UBND thị trấn C thì ông P
E đào phần đất công cộng cặp 02 thửa 143 164 trả lại hiện trạng như
ban đầu để ông Ú tự đặt bọng. Các thửa đất của ông P E tiếp giáp đưng
giao thông không tiếp giáp kinh (rạch) công cộng. Việc ông Ú thiếu nước sản
xuất hoặc không thoát nước được do ông Ú không tđặt bọng đdẫn nước,
không do lỗi của ông P và bà E.
Theo bản án thẩm số 80/2022/DSST, ngày 29/12/2022 của Tòa án nhân
dân huyện Mang Thít nhận định: ông Ú đường dẫn nước thoát nước khác
thuận tiện hơn, ngắn hơn, ít gây thiệt hại cho ông P bà E. Các thửa đất của
ông Ú trước đó lưu thông dẫn nước từ nhiều khu vực khác để sử dụng canh tác
chứ không riêng qua các thửa đất của ông P, lối dẫn nước qua các thửa đất
của ông P không phải lối dẫn nước chính để ông Ú canh tác, việc ông Ú
không canh tác các thửa đất của ông Ú không phải do thiếu nước. Do đó, ông Ú
không có thiệt hại gì. Qua yêu cầu khởi kiện của ông Ú thì E ông P không
đồng ý bồi thường.
* Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 75/2024/DS-ST ngày 16 tháng 12 năm
2024 của Toà án nhân dân huyện Mang Thít đã xử: Không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn Ú về việc yêu cầu ông Trần n P
Đỗ Thị Kim E trách nhiệm bồi thường cho ông Ú số tiền thiệt hại do mất thu
nhập nông nghiệp là 74.823.000 đồng. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí,
4
quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ chậm thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi nh án, thời hiệu thi hành án
quyền kháng cáo của đương sự theo luật định
Sau khi xét xử thẩm, đến ngày 27/12/2024 ông Trần Văn Ú đơn
kháng cáo, yêu cầu buộc ông Trần Văn P Đỗ Thị Kim E phải bồi thường
thiệt hại cho ông số tiền 74.823.000đồng.
* Tại phiên tòa phúc thẩm: ông Ú vẫn giữ yêu cầu kháng cáo, ông P
E không chấp nhận kháng cáo của ông Ú.
Quan điểm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử
thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các
đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Ú, giữ
nguyên bản án sơ thẩm, ông Ú phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa kết quả
tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về tố tụng:
Ngày 16/12/2014 Tòa án nhân dân huyện Mang Thít tuyên án sơ thẩm đến
ngày 27/12/2024 bị đơn ông Trần Văn Ú có đơn kháng cáo là còn trong thời hạn
kháng cáo theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét
theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung.
[2.1] Ông Trần Văn Ú chủ sử dụng 02 thửa đất liền kề gồm: thửa số 3,
diện tích 6.960,1m2, loại đất chuyên trồng lúa nước và thửa số 8, diện tích
522,2m2, loại đất trồng cây lâu năm cùng tờ bản đồ số 15, xã C (nay thị trấn
C), huyện M, tỉnh Vĩnh Long. Ông Trần Văn P chủ sử dụng 02 thửa đất liền
kề gồm: thửa 143 thửa 164. Thửa đất số 3 của ông Ú giáp ranh với thửa đất
164 của ông P, cả 03 thửa số 3, 143 và 164 đều nằm cặp đất giao thông (lộ công
cộng) do UBND thị trấn C quản lý.
5
Ông Ú cho rằng năm 2022 khi vợ chồng ông P bà E lấp phần đất công cộng
tại vị trí giáp thửa 143 và 164 để làm lối đi từ nhà ông P ra đường công cộng tuy
đặt ống bọng trong lòng đất để dẫn nước nhưng đường kính ống bọng quá
nhỏ chỉ bằng 0,3m nên hạn chế dòng nước chảy vào 02 thửa đất số 3 và số 8 của
ông Ú, dẫn đến không canh tác được gây thiệt hại cho ông Ú do bị mất thu nhập
trong 02 năm bằng số tiền 74.823.000đ, nên yêu cầu vợ chồng ông P bồi thường.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại văn bản số 24/UBND, ngày 06/11/2023 của Ủy ban nhân dân thị trấn C
trả lời đơn của ông Ú về việc ông yêu cầu mở lối thoát nước qua phần đất công
cộng diện tích 75,5m2 (tại vị trí giáp thửa 164 của ông Phu lấp đất làm lối
đi) để canh tác ruộng lúa của ông (thửa số 3) nội dung: “Căn cứ theo tư liệu
bản đđịa chính chính quy ghi nhận phần diện tích 75,5m2 đất giao thông do
UBND thị trấn C quản lý. Qua khảo sát hiện trạng trên phần đất công cộng (diện
tích 75,5m2), hiện tại hộ ông Trần Văn P bà Đỗ Thị Kim E đặt bọng cho
hộ ông Ú thoát nước chiều dài 12m, đường kính 0,3m. Phần mặt đường hộ ông
Phu cán tông để làm lối đi ra đường giao thông, đây lối đi duy nhất của
hộ ông P đi ra đường công cộng. Mặt khác, đây là đất giao thông phục vụ việc đi
lại cho nhân dân trong vùng chứ không phải đất kinh, rạch phục vụ tưới tiêu
trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, đđảm bảo việc tưới tiêu, thoát nước
trong sản xuất nông nghiệp thì hộ ông Ú được quyền thay bọng khác kích
thước tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng của gia đình ông. Đồng thời sau khi ông Ú
lấp xong ống bọng, ông Ú trách nhiệm san lấp lại mặt bằng trả lại hiện trạng
ban đầu để tạo điều kiện cho hộ ông P có lối đi ra đưng giao thông”.
Vị trí vợ chồng ông Phu L đất để làm lối đi từ nhà của ông P ra đường công
cộng đất giao thông phục vụ cho việc đi lại của người dân, không phải kinh
công cộng dẫn nước phục vsản xuất nông nghiệp. Nhưng để bảo đảm cho ông
Ú canh tác phần đất phía trong thì gia đình ông P vẫn đặt ống bọng để dẫn
nước vào đất của ông Ú, ông Ú cũng thừa nhận điều này. Nếu ông Ú cho rằng,
đường kính ống bọng ông P đặt nhỏ không đủ lượng nước bảo đảm sản xuất
nông nghiệp thì ông Ú xin ý kiến chính quyền địa phương cho ông đặt ống bọng
lớn hơn hoặc nạo vét khơi thông dòng chảy để bảo đảm cho việc sản xuất nông
nghiệp đạt hiệu quả, nhưng ông Ú không thực hiện. Việc ông Ú không canh tác
các thửa đất số 3 s8 của ông đi thuê đất của người khác đcanh tác
không phải do lỗi của vợ chồng ông P. Hành vi lấp đất công cộng đlàm lối đi
6
của vợ chồng ông P không phải nguyên nhân gây ra thiệt hại cho ông Ú.
Ngoài ra, ông Ú cũng không chứng minh được có thiệt hại thực tế xảy ra.
Do đó, Tòa án cấp thẩm xử không chấp nhận yêu cầu của ông Ú đòi
E và ông P bồi thường thiệt hại là đúng quy định.
Từ những căn cứ trên, xét kháng cáo của ông Ú không căn cứ chấp
nhận.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo nên
người kháng cáo (ông Ú) phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm theo quy
định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn Ú.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 75/2024/DS-ST ngày 16 tháng 12 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Mang Thít.
Căn cứ các điều 584, 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các điều 26, 29
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sdụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Văn Ú v
việc: Yêu cầu bị đơn Trần n P Đỗ Thị Kim E trách nhiệm bồi thường
cho ông Trần Văn Ú số tiền thiệt hại do mất thu nhập nông nghiệp là 74.823.000
đồng (Bảy mươi bốn triệu tám trăm hai mươi ba nghìn đồng).
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Buộc ông Trần Văn Ú chịu 300.000 đồng tiền
án phí phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000
đồng đã nộp theo biên lai thu số 0006174 của Chi cục thi hành án dân sự huyện
Mang Thít. Ông Ú đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
3. Các phần khác của bản án sơ thẩm như: án psơ thẩm, không kháng
cáo, không kháng nghị n Hội đồng xét xử phúc thẩm không đặt ra giải
quyết lại, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
7
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung 2014; thời hiệu thi hành án được thực
hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung
2014.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Vĩnh Long;
- VP TAND tỉnh VL;
- TAND huyện Mang Thít;
- Chi cục THADS huyện Mang Thít;
- Đương sự; Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thị Kim Chi
Tải về
Bản án số 71/2025/DS-PT Bản án số 71/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 71/2025/DS-PT Bản án số 71/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất