Bản án số 378/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 378/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 378/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 378/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 378/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 378/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp “Yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản” giữa Huỳnh Văn T với Nguyễn Minh T1 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 378/2025/DS-PT
Ngày: 24 - 6 - 2025
V/v tranh chấp: “Yêu cầu bồi thường
thiệt hại về tài sản ”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Phong.
Các Thẩm phán: Bà Đỗ Thị Minh Nguyệt;
Bà Nguyễn Thị Ánh Phương.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Chí Thành - Thư ký Toà án nhân dân
tỉnh Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang: Bà Hà Ngọc Thư
Trúc - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 24 tháng 6 năm 2025, tại Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2025/TLPT-DS ngày 14 tháng 01 năm
2025 về việc tranh chấp “Yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 186/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 40/2025/QĐ-PT ngày
20 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1960 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Minh T1, sinh năm 1988 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ D, ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Phát S, sinh năm
1985;
Địa chỉ: Tổ D, ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
Đại diện theo uỷ quyền: Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1981(có mặt);
Hộ khẩu thường trú: 4 L, Phường E, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Địa chỉ hiện nay: 2 Đ, Phường E, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
2
4. Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phát
S.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm,
* Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn trình bày:
Nguyên đơn ông Huỳnh Văn T yêu cầu bị đơn anh Nguyễn Minh T1 bồi
thường thiệt hại do anh T1 làm cháy căn nhà kho kết cấu vách tôn kẽm, mái tôn
fibro, đòn tay và cột bằng cây thao lao, nền gạch tàu có địa chỉ tại ấp C, xã T,
huyện C, tỉnh Tiền Giang của ông T với số tiền là 50.000.000 đồng, do anh T1
cũng khó khăn nên đồng ý cho trả hàng tháng, mỗi tháng 3.000.000 đồng, thực
hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.
* Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Minh T1 trình bày:
Anh T1 thừa nhận có lỗi đã gây ra vụ cháy và đồng ý số tiền bồi thường
cho ông T là 50.000.000 đồng, nhưng xin trả hàng tháng, mỗi tháng 1.500.000
đồng, do hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đối với yêu cầu của anh S, anh T1 chỉ
đồng ý bồi thường cho anh S là 50.000.000 đồng, xin trả hàng tháng, mỗi tháng
1.500.000 đồng, không đồng ý mức bồi thường 284.000.000 đồng mà anh S yêu
cầu vì không có căn cứ chứng minh số hàng hoá bị cháy của anh S có giá trị là
284.000.000 đồng.
* Tại phiên tòa, anh Nguyễn Hoàng A là người đại diện uỷ quyền của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Phát S trình bày:
Anh S là người bị hại trong vụ cháy xảy ra ngày 21/01/2023 tại ấp C, xã T,
huyện C, tỉnh Tiền Giang do anh T1 gây ra làm cháy toàn bộ hàng hoá của anh S
để trong kho. Yêu cầu Toà án buộc anh T1 bồi thường thiệt hại cho anh S số tiền
284.000.000 đồng là giá trị tài sản bị cháy do anh T1 gây ra. Yêu cầu thực hiện
trả một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
* Bản án dân sự sơ thẩm số: 186/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
- Căn cứ khoản 6 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 273
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 357, Điều 468, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 588,
Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội ngày 30/12/2016;
Xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Văn T.
Buộc bị đơn Nguyễn Minh T1 có nghĩa vụ bồi thường cho nguyên đơn
Huỳnh Văn T số tiền 50.000.000 đồng, bồi thường hàng tháng, mỗi tháng
3.000.000 đồng, thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan anh Nguyễn Phát S.
3
Buộc bị đơn Nguyễn Minh T1 có nghĩa vụ bồi thường cho người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Phát S số tiền 50.000.000 đồng, thực hiện
khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự
năm 2015.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí và quyền
kháng cáo của đương sự.
Ngày 07 tháng 10 năm 2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Phát S kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử theo
hướng sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện độc lập của anh
S.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan Nguyễn Phát S có đại diện theo ủy quyền là anh Nguyễn Hoàng A
thay đổi yêu cầu kháng cáo chỉ yêu cầu anh T1 bồi thường cho anh S
177.000.000 đồng, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm
đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đối với yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
Kiểm sát viên nhận định: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phát S
kháng cáo nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới chứng minh cho yêu
cầu kháng cáo nên không có căn cứ để xem xét. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc
thẩm người đại diện theo ủy quyền của anh S thay đổi yêu cầu kháng cáo chỉ
yêu cầu anh T1 bồi thường cho anh S 177.000.000 đồng nên đề nghị Hội đồng
xét xử sửa án sơ thẩm về phần án phí đối với anh S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Anh Nguyễn Phát S nộp đơn kháng cáo và thực hiện thủ tục kháng cáo
hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc
thẩm.
[2] Về yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T, yêu cầu khởi kiện độc lập
và yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Phát S:
Nguyên đơn ông Huỳnh Văn T yêu cầu anh Nguyễn Minh T1 bồi thường
cho ông T số tiền 50.000.000 đồng do anh T1 gây cháy căn nhà kho của ông T
4
và đồng ý cho anh T1 trả hàng tháng, mỗi tháng 3.000.000 đồng, thực hiện khi
bản án có hiệu lực pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh
Nguyễn Phát S yêu cầu anh Nguyễn Minh T1 bồi thường số hàng hoá bị cháy để
trong căn nhà kho mà anh S thuê của ông T với số tiền 284.000.000 đồng, thực
hiện trả một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật. Anh Nguyễn Minh T1 thừa
nhận có lỗi gây ra vụ cháy nhưng chỉ đồng ý bồi thường cho ông T và anh S mỗi
người 50.000.000 đồng, thực hiện trả hàng tháng, mỗi tháng trả cho ông T và
anh S mỗi người 1.500.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T và một phần
yêu cầu khởi kiện độc lập của anh S. Buộc anh T1 có nghĩa vụ bồi thường cho
ông T 50.000.000 đồng, trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng và bồi thường cho
anh S 50.000.000 đồng. Anh S không đồng ý với bản án sơ thẩm nên kháng cáo
yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử theo hướng sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện độc lập của anh S.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Phát S, Hội đồng xét xử nhận
thấy:
Anh S kháng cáo yêu cầu anh T1 bồi thường cho anh S số tiền 284.000.000
đồng do anh T1 đã làm cháy số hàng hóa của anh S để trong căn nhà kho mà anh
S thuê của ông T. Tuy nhiên, theo công văn số 2650/STC-QLGCS ngày
06/9/2024 của Sở tài chính tỉnh T (BL 245) xác định hàng hoá trong kho của anh
S đã cháy hoàn toàn, không xác định chính xác số lượng, chất lượng, nhãn hiệu
và kích thước của từng loại tài sản, khi xuất bán không có hoá đơn chứng từ thể
hiện việc mua bán nên không xác định được số lượng; các hoá đơn kèm theo mà
Toà án cung cấp theo công văn số 404/2024/CV-TA ngày 28/8/2024 phần lớn là
bảng kê, hoá đơn bán lẻ viết tay, tính pháp lý không có và độ chính xác không
cao, cũng không chứng minh được đây chính là hoá đơn của số hàng hoá trong
kho bị cháy, do đó chưa có căn cứ để xác định số hàng hoá bị cháy trong kho
của anh S có giá trị là 284.000.000 đồng nên việc anh S kháng cáo yêu cầu anh
T1 bồi thường cho anh S 284.000.000 đồng là không có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của anh S thay đổi
yêu cầu kháng cáo chỉ yêu cầu Tòa án xem xét buộc bị đơn bồi thường cho anh
S 177.000.000 đồng với lý do hàng hóa nhập về từ ngày 29/10 đến ngày
29/12/2022, ngày 17/01 và trong tháng 01 năm 2023 có các phiếu thu, chi thể
hiện số hàng hóa còn lại trong kho bị cháy là 177.000.000 đồng. Phía anh T1
không đồng ý theo yêu cầu trên, anh T1 cho rằng thiệt hại không có giá trị lớn
như vậy.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án đã có Quyết định trưng cầu giám
định số 10/2025/QĐ- TCGĐ ngày 08/5/2025 đối với Phân viện khoa học hình sự
Bộ C tại Thành phố Hồ Chí Minh trưng cầu giám định thiệt hại trong vụ cháy do
bị đơn Nguyễn Minh T1 gây ra theo yêu cầu của người đại diện theo ủy quyền
cho anh S. Ngày 21/5/2025, Phân viện khoa học hình sự Bộ C tại Thành phố Hồ
Chí Minh có văn bản trả lời từ chối giám định theo quyết định trưng cầu giám
định số 10/2025/QĐ- TCGĐ của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang. Như vậy, các
cơ quan chức năng có chức năng giám định đều xác định “Hội đồng định giá
5
không xác định chính xác về chất lượng, nhãn hiệu, kích thước từng loại tài sản
do đó Hội đồng định giá không có cơ sở xác định được giá trị”, từ căn cứ trên
Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện C ra quyết định Không khởi tố vụ án
hình sự số 62/QĐ- ĐTTH đối với vụ án “Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản” do bị đơn Nguyễn Minh T1 gây ra vào ngày 21/01/2023 tại ấp C, xã T,
huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do không thực hiện được việc giám định nên chi phí
thu thập chứng cứ, chi phí giám định tại giai đoạn phúc thẩm do anh Nguyễn
Phát S chịu.
Anh S kháng cáo nhưng không cung cấp, bổ sung tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên, tại phiên
tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của anh S thay đổi yêu cầu kháng
cáo chỉ yêu cầu anh T1 bồi thường cho anh S 177.000.000 đồng nên cần sửa án
sơ thẩm về phần án phí đối với anh S.
[4] Xét ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
là có căn cứ, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Anh S không phải chịu án phí phúc thẩm do sửa án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Phát S.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 186/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều
147, Điều 148, Điều 273, Điều 298 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Điều 357, Điều 468, Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều
588, Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Văn T.
Buộc bị đơn Nguyễn Minh T1 có nghĩa vụ bồi thường cho nguyên đơn
Huỳnh Văn T số tiền 50.000.000 đồng, bồi thường hàng tháng, mỗi tháng
3.000.000 đồng, thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phát S.
Buộc bị đơn Nguyễn Minh T1 có nghĩa vụ bồi thường cho người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phát S số tiền 50.000.000 đồng, thực hiện khi
bản án có hiệu lực pháp luật.
6
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự
năm 2015.
2. Về án phí:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Huỳnh Văn T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại ông T
1.250.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0006617
ngày 16/10/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Anh Nguyễn Minh T1 phải chịu 5.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phát S phải chịu
6.350.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, anh S đã nộp 7.100.000 đồng tạm ứng
án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 0011650 ngày 07/8/2024 của Chi cục Thi
hành án Dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang nên anh S được trả lại 750.000 đồng.
2.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Anh Nguyễn Phát S không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Trả lại anh S
300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0011869 ngày
07/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Tiền Giang.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện C;
- CC THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nguyễn Thanh Phong
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm