Bản án số 24/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 24/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 24/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 24/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 24/2025/DS-PT ngày 16/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 24/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 12/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về việc“Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu đốn chặt các loại cây trồng trên đất” giữa nguyên đơn là ông Phan Quang K đơn là ông Đặng CQuyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 04/TB-TA ngày 26/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà:
- Các Thẩm phán:
ông Phạm Văn Hợp
ông Vũ Thanh Liêm
ông Trương Công Thi
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Thế Trường - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên toà:
bà Bùi Thị Dung, Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý 189/2024/TLPT-DS ngày
04/10/2024 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu đốn chặt các loại
cây trồng trên đất”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 12/3/2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2024/QĐ-PT ngày 31 tháng 12
năm 2024, giữa các đương sự:
-
Nguyên đơn
: ông Phan Quang K, sinh năm 1972; địa chỉ: Xóm B, thôn A,
xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Phan Minh T, sinh năm
1992; địa chỉ: Xóm B, thôn A, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 24/2025/DS-PT
Ngày: 16-01-2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu
cầu đốn chặt các loại cây trồng trên đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
-
Bị đơn
: ông Đặng C, sinh năm 1947; địa chỉ: Xóm B, thôn A, xã N, huyện
T, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: ông Đặng C1, sinh năm 1982; địa
chỉ: Số A L, Phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: ông Trần Hải Á, sinh
năm 1983, luật sư thuộc đoàn Luật sư thành phố Đ, địa chỉ: Số G Đ, phường A,
quận S, Thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
-
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
:
1. Bà Phan Thị H, sinh năm 1955; địa chỉ: Xóm B, thôn A, xã N, huyện T,
tỉnh Quảng Ngãi.
2. Ông Đặng K1, sinh năm 1972; địa chỉ: phường L, thành phố T, thành phố
Hồ Chí Minh.
3. Ông Đặng Văn L, sinh năm 1974; địa chỉ: Xóm B, thôn A, xã N, huyện
T, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Bà Đặng Thị D, sinh năm 1975; địa chỉ: thôn N, xã N, huyện T, tỉnh
Quảng Ngãi.
5. Bà Đặng Thị T1, sinh năm 1977; địa chỉ: đường H, Tổ H, phường T,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
6. Bà Đặng Thị Q, sinh năm 1979.
7. Ông Đặng C1, sinh năm 1982. Có mặt.
8. Bà Đặng Thị H1, sinh năm 1984.
9. Bà Đặng Thị H2, sinh năm 1986.
Cùng địa chỉ: Số A L, Phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Phan Thị H, ông Đặng K1, Đặng Văn
L, bà Đặng Thị D, Đặng Thị T1, Đặng Thị Q, Đặng Thị H1, Đặng Thị H2: ông
Đặng C1, sinh năm 1982; địa chỉ: Số A L, Phường A, quận G, thành phố Hồ Chí
Minh. Có mặt.
10. Phạm Thị Thu H3, sinh năm 1969.
3
11. Phan Minh T, sinh năm 1992.
Cùng địa chỉ: thôn A, xã N, huyện T, tỉnh Quảng Ngãi.
12. Phan Thị Bích T2, sinh năm 1994; địa chỉ: 7 P, phường T, thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Phạm Thị Thu H3, Phan Thị Bích T2:
ông Phan Minh T, sinh năm 1992; địa chỉ: thôn A, xã N, huyện T, tỉnh Quảng
Ngãi. Có mặt.
13. Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Đăng V – Chủ tịch. Có đơn xin
đề nghị xét xử vắng mặt.
Do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và kháng
cáo của bị đơn ông Đặng Chì và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Phan Thị H, ông Đặng K1, ông Đặng Văn L, bà Đặng Thị D, bà Đặng Thị T1, bà
Đặng Thị Q, bà Đặng Thị H1, bà Đặng Thị H2, ông Đặng C1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong Đơn khởi kiện ngày 03/11/2021 và trong quá trình tố tụng tại Tòa
án nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bày:
Nguồn gốc thửa đất 137, 140, 680, tờ bản đồ số 20 tại xã N do ông Lê T3
(cha của các ông/bà : Lê Bá S, Lê Thị N, Lê Thị T4) tạo lập, về thời gian thì ông,
bà không biết, trên đất không có tài sản gì; Năm 1945 ông T3 chết, ông Lê Bá S
tiếp tục quản lý, sử dụng. Đến khoảng năm 1960-1965, thì ông Lê Bá S phân chia
thừa kế: cho bà Lê Thị N (mẹ của ông Đỗ Thành N1) một phần diện tích đất (nay
là thửa đất số 137, tờ bản đồ số 20, ông Đỗ Thành N1 đang quản lý sử dụng); cho
bà Lê Thị T4 (mẹ của bà Phan Thị H, ông Phan Quang K) một phần diện tích đất
(nay là thửa 140 và 680, tờ bản đồ số 20, do ông Đặng C và ông K đang quản lý,
sử dụng). Việc ông T3 cho đất bà N, bà T4 chỉ nói miệng, không có lập giấy tờ gì
và cũng không đo đạc xác định diện tích, ranh giới đất được cho mỗi người là bao
nhiêu m
2
.
Sau khi được ông Lê Bá S phân chia đất, bà T4 quản lý sử dụng, đến năm
1978, ông Phan L1, bà Lê Thị T4 cho bà Phan Thị H (vợ ông Đặng C) một phần
diện tích đất (nay thuộc thửa đất 680, tờ bản đồ số 20); phần diện tích đất còn lại
4
(nay thuộc thửa đất số 140, tờ bản đồ số 20) bà T4 tiếp tục quản lý, sử dụng vào
mục đích trồng hoa màu.
Năm 1991, ông K lập gia đình, năm 1992 ông Phan L1, bà Lê Thị T4 cho
ông K diện tích đất (nay thuộc thửa đất số 140, tờ bản đồ số 20) để vợ chồng ông
K làm nhà ở và quản lý sử dụng. Việc ông L1, bà T4 cho đất bà H và vợ chồng
ông K chỉ nói miệng không có lập giấy tờ gì, không có đo đạc xác định diện tích
đất được cho mỗi người (bà H, ông K) là bao nhiêu m
2
, nhưng ranh giới đất mỗi
người được cho ở phía Đông hiện nay ông C dựng trụ bê tông làm ranh giới, ở
phía Tây giữa hai bụi tre (một bụi tre bên phía đất ông C, bà H, một bụi tre bên
phía đất ông, bà), ông có đào một cái mương ở giữa hai bụi tre đổ đất lên phía đất
của ông, bà để làm ranh giới.
Năm 1998, ông K kê khai, đăng ký và được UBND huyện T cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) thuộc thửa đất số 140, tờ bản đồ số
20 tại xã N, diện tích 1.125m
2
đứng tên hộ ông Phan Quang K.
Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ hộ ông K có 04 nhân khẩu gồm: ông Phan
Quang K, bà Phạm Thị Thu H3, ông Phan Minh T và bà Phan Thị Bích T2.
Năm 1994, ông C, bà H bắt đầu lấn chiếm qua đất của ông K; ông K có nhờ
ông L1, bà T4 lên nói chuyện nhưng ông C, bà H không chịu, lúc đó do diện tích
đất lấn chiếm ít, nên ông, bà không có đơn khiếu nại; đến năm 2004, ông C, bà H
tiếp tục lấn chiếm đất thì ông K tiếp tục nhờ ông L1, bà T4 lên nói chuyện với ông
C, bà H về việc lấn chiếm đất nhằm giải quyết nội bộ với nhau, nhưng ông C, bà
H không chịu. Do vậy, ông, bà có đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân xã N yêu
cầu giải quyết, nhưng không giải quyết.
Hiện nay chỉ ở phía Đông có trụ bê tông ông C dựng và phía Tây có hai bụi
tre làm ranh mốc giới giữa hai thửa đất, còn ở giữa không có vật gì để làm ranh
mốc giới giữa hai thửa đất. Do vậy, diện tích đất ông C, bà H lấn chiếm của ông
K ở phần giữa thửa đất.
Nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết : buộc ông Đặng C, bà Phan Thị
H và các con phải đốn chặt cây trồng, cỏ voi trả lại diện tích đất lấn chiếm 145m
2
,
có giới cận phía Đông và phía Tây giáp ranh giới giữa hai thửa đất, phía Bắc giáp
phần đất của hộ ông K, phía Nam giáp phần đất của hộ ông C, bà H; trên đất có
02 cây bạch đàn đường kính khoảng 30cm ̣(đã chết khô không còn giá trị).
5
Việc ông C, bà Hcác con yêu cầu hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Kc ông,
bà trả lại diện tích đất 231m
2
, đất lấn chiếm ông không đồng ý. Vì không có lấn
chiếm đất của hộ ông C, bà H.
- Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai và trong quá trình tố tụng tại
Tòa án bị đơn và người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày:
Nguồn gốc thửa đất 680, tờ bản đồ số 20 xã N, diện tích 1.090m
2
do ông Lê
T3 của ông Lê Bá S, Lê Thị N, Lê Thị T4) tạo lập, tạo lập năm nào ông C, bà Hng
rõ, ông T3 năm nào cũng không biết; sau khi ông T3, ông Lê Bá Sn trai ông T3)
phân chia thửa đất ông T3lập cho bà Lê Thị N, diện tích bao nhiêu m
2
ông C, bà
Hng biết, chia cho bà Lê Thị T4bà H) diện tích là 4 sào (tương đương 2000m
2
),
việc phân chia đất chỉ nói miệng, không có lập giấy tờ gì và cũng không đo đạc
diện tích đất cụ thể.
Cuối năm 1978, ông C, bà Hc cha mẹ bà H ông Phan L1t 2015), bà Lê Thị
T4, (chết 2017)) cho thửa đất trên để làm nhà ở, việc cha mẹ cho đất chỉ nói miệng
không có lập giấy tờ gì.
Đến năm 1993, được sự đồng ý của ông Phan L1, bà Lê Thị T4ông C, bà H
ông Phan Quang Kột bà H) một phần diện tích đất có chiều ngang 7m, chiều dài
khoảng 97m để làm nhà ở; việc ông C, bà H đất ông Ki miệng không có lập giấy
tờ gì và cũng không đo đạc diện tích đất cho cụ thể là bao nhiêu m
2
.
Quá trình sử dụng thì thửa đất của ông C, bà H thửa đất của ông Kcó trồng
cây hoặc dựng trụ hay có vật gì để làm ranh giới giữa hai thửa đất.
Năm 1998, được UBND huyện Tiấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết
tắt GCNQSDĐ) tại thửa đất số 680, tờ bản đồ số 20, diện tích 1.090m
2
, đứng tên
hộ ông Đặng Chì .thời điểm cấp GCNQSDĐ hộ của ông, bà có 10 nhân khẩu gồm
các ông/bà: Đặng Chì, Phan Thị H, Đặng K1, Đặng Văn L, Đặng Thị D, Đặng C1,
Đặng Thị T1, Đặng Thị Q, Đặng Thị H1, Đặng Thị H2.
Đến năm nào thì ông C, bà Hng nhớ, chính quyền địa phương thông báo
đến nhận GCNQSDĐ, ông C, bà H nhận, sau khi nhận xong về cất giữ, không
kiểm tra diện tích đất được cấp là bao nhiêu, giới cận của thửa đất được cấp như
thế nào.
Đến khi ông Kiện thì ông C, bà H GCNQSDĐ kiểm tra mới phát hiện cấp
thiếu diện tích đất, cấp không đúng hiện trạng diện tích đất ông C, bà Hdụng,
nhưng ông C, bà Hng có khiếu nại gì; vì lúc này ông Ki kiện.
6
Khoảng năm 2005-2006, ông C, bà Hchuyển nhượng cho ông Phan Bện nay
cứ trú tại thôn A, xã N, huyện T) diện tích đất khoảng 150m
2
(chiều ngang 5m,
chiều dài 30m).
Nay ông C, bà H cầu Tòa án giải quyết: hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông
Phan Quang Kửa đất số 140, tờ bản đồ số 20 tại xã N buộc ông K thành viên trong
hộ ông Kặt cây trồng cỏ voi trả lại diện tích đất 231m
2
, có giới cận: phía Bắc giáp
phần đất đã cho ông Kừ ranh giới đất ông N1về phía Nam 7m, kéo về phía Tây
khoảng 97m; phía Đông giáp đường nhựa; phía Tây giáp suối; phía Nam giáp đất
còn lại của gia đình các ông, bà, trên đất có 02 cây bạch đàn đường kính khoảng
30cm ̣(đã chết khô không còn giá trị).
- Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 10/7/2023, quá trình tố tụng tại Tòa án
bà Phạm Thị Thu H3 Phan Minh Than Thị Bích T2ời đại diện hợp pháp của bà
H3T2 Phan Minh Th bày:
Nguồn gốc thửa đất số 140, tờ bản đồ số 20 xã Nợc UBND huyện
TCNQSDĐ cho hộ ông Phan Quang Khư nguyên đơn và người đại diện của
nguyên đơn trình bày.
- Tại văn bản ngày 24/7/2023, các ông, bà Đặng Văn Lg K1ng Thị D Thị
T1Thị Qg C1Thị H1ng Thị H2nh bày:
Vào năm 1993, cha mẹ các ông, bà cho ông Phan Quang Kích đất khoảng
679m
2
(chiều ngang 7m, chiều dài khoảng 97m), trong diện tích 2000m
2
của bà
Lê Thị T4bà Phan Thị Hlàm nhà ở nhờ (vì ông Kruột bà H), khi nào các ông bà
có nhu cầu sử dụng thì trả lại, không tặng cho đất. Quá trình sử dụng, ông Kg ký
kê khai để được Nhà nước cấp GCNQSDĐ mà không có xác nhận của các hộ sử
dụng đất liền kề, nhằm mục đích để chiếm đất của gia đình các ông bà; hiện tại
thửa đất của gia đình các ông bà được Nhà nước cấp GCNQSDĐ diện tích
1.090m
2
. Như vậy, ông Kiếm đất của gia đình các ông, bà diện tích 231m
2
(2000m
2
– 679m
2
=1321m
2
– 1090m
2
= 231m
2
).
Nay các ông, bà yêu cầu hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Phan Quang Kửa
đất số 140, tờ bản đồ số 20 xã N buộc ông K thành viên trong hộ ông Kặt cây
trồng cỏ voi trả lại diện tích đất 231m
2
, có giới cận: phía Bắc giáp phần đất đã cho
ông Kừ ranh giới đất ông N1về phía Nam 7m, kéo về phía Tây khoảng 97m; phía
Đông giáp đường nhựa; phía Tây giáp suối; phía Nam giáp đất còn lại của ông,
bà, trên đất có 02 cây bạch đàn đường kính khoảng 30cm (đã chết khô không còn
giá trị).
7
-Tại văn bản số 3812/UBND ngày 22/12/2023 của Ủy ban nhân dân huyện
Tcấp thông tin cho Tòa án:
Ngày 24/9/1998, ông Phan Quang K đăng ký quyền sử dụng đất tại 05 thửa
đất, trong đó có thửa đất số 140, tờ bản đồ số 20, diện tích 1.125m
2
, loại đất T,
nguồn gốc sử dụng do cha mẹ để lại; Ủy ban nhân dân xã N tổ chức niêm yết công
khai hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất tại Thông báo số 15/TB-UB ngày
10/12/1998 và kết thúc niêm yết công khai tại Biên bản số 10/BB-UB ngày
24/12/1998. Trên cơ sở đề nghị của UBND xã Ni Tờ trình số 13/TT-UB ngày
20/12/1998, UBND huyện ban hành Quyết định số 447/QĐ-UB ngày 24/12/1998
cấp 438 GCNQSDĐ cho 263 hộ gia đình tại xã Nong đó có hộ ông Phan Quang
Kng Đặng C cầu hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Phan Quang Kị Tòa án giải
quyết theo thẩm quyền.
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 12/3/2024 Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi quyết định
:
Căn cứ khoản 9 Điều 26, các Điều 34, 37, 144, 147, 157, 158, 271, 273 của
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 2 Luật Đất đai năm 1993; Điều 12, Điều 166 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ điểm đ Điều 12, Điều 26, điểm b khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Quang Kng người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Thu H3
Phan Minh Than Thị Bích
Truyền.
Buộc ông Đặng CPhan Thị H Đặng K1g Đặng Văn LĐặng Thị DĐặng C1ng
Thị T1ng Thị QĐặng Thị H1 Đặng Thị H2 chặt cây trồng cỏ voi trả lại diện tích
đất 145m
2
, có giới cận phía Đông giáp ranh giới giữa hai thửa đất số 140 và 680
(đường nhựa), phía Bắc giáp đất của hộ ông Phan Quang Kây giáp ranh giới giữa
hai thửa đất số 140 và 680 (suối), phía Nam giáp đất của hộ ông Đặng C thửa đất
số 140, tờ bản đồ số 20 xã Nghĩa Kỳ, huyện Tư Nghĩa.
(Diện tích đất buộc trả lại ký hiệu B, có sơ đồ bản vẽ kèm theo là một phần
không tách rời bản án).
8
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Cyêu cầu của những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị H Đặng K1g Đặng Văn
LĐặng Thị DĐặng C1ng Thị T1ng Thị QĐặng Thị H1 Đặng Thị H2việc yêu cầu
hủy GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Phan Quang Khuyên.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Cyêu cầu của những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị H Đặng K1g Đặng Văn LĐặng
Thị DĐặng C1ng Thị T1ng Thị QĐặng Thị H1 Đặng Thị H2việc yêu cầu ông
Phan Quang Km Thị Thu H3 Phan Minh Tà Phan Thị Bích T2ặt cây trồng cỏ voi
trả lại diện tích đất 231m
2
tại thửa đất số 140, tờ bản đồ số 20 xã N giới cận: phía
Bắc tính từ ranh giới đất ông N1về phía Nam 7m, kéo về phía Tây khoảng 97m;
phía Đông giáp đường nhựa; phía Tây giáp suối; phía Nam giáp đất còn lại của
ông CHn đất có 02 cây bạch đàn đường kính khoảng 30cm ̣(đã chết khô không
còn giá trị).
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tại Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 04/TB-TA ngày
26/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, đã sửa chữa tại phần Quyết định
của bản án với nội dung: tại dòng thứ 6 từ dưới lên của trang 14 trong bản án, sửa
từ “Đặng Chì tại thửa đất số 140, tờ bản đồ số 20 xãxã N, huyện Thành “Đặng Chì
tại thửa đất số 680, tờ bản đồ số 20 xã Nghĩa Kỳ, huyện Tư Nghĩa”.
- Ngày 18/3/2024, bị đơn ông Đặng Cnhững người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Phan Thị H Đặng K1g Đặng Văn LĐặng Thị Dặng Thị T1ng Thị
QĐặng Thị H1 Đặng Thị H2 Đặng C1n kháng cáo với nội dung đề nghị hủy bản
án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án.
- Ngày 11/4/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tại Đà Nẵng ban
hành Quyết định kháng nghị số 21/QĐ-VKS-DS ngày 11/4/2024 kháng nghị đối
với bản án dân sự sơ thẩm nêu trên, đề nghị hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại.
- Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có kháng cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng vẫn giữ nguyên
quyết định kháng nghị và có quan điểm: Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Về nội dung: đề nghị HĐXX chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chấp nhận kháng
9
nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm
và quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình
bày, tranh luận của đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng, đơn kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
đúng thủ tục và trong thời hạn nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm theo quy
định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Năm 1991, ông Phan Quang KPhạm Thị Thu H3c cha mẹ là ông Phan
L1êLê Thị T4một phần diện tích đất, khi cho đất này thì ông L14g lập giấy tờ,
không xác định diện tích, ranh giới; Đến năm 1998, ông Kiện việc đăng ký, kê
khai và được UBND huyện Tiấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt
GCNQSDĐ) số N108627 ngày 24/12/1998 đối với thửa đất số 140, tờ bản đồ số
20, tọa lạc tại xãxã N, huyện Ttích 1.125m
2
, đứng tên hộ ông Phan Quang Kắt là
thửa đất số 140).
Xét diện tích thửa đất số 140 thì thấy: xác định theo bản đồ lập năm 1993
là 1142,7 m
2
; theo kết quả đo vẽ hiện trạng sử dụng là 1090,4m
2
(chưa trừ diện
tích đất di dời mồ mả và diện tích ngoài ranh giới theo bản đồ năm 1993), giảm
so với diện tích đất được cấp theo GCNQSĐ là 34,6 m
2
.
[2.2] Năm 1978, ông Đặng CPhan Thị Hc cha mẹ là ông Phan L1êLê Thị
T4một phần diện tích đất, khi cho đất này thì ông L14nói miệng không có lập giấy
tờ gì. Đến ngày 21/9/1998, hộ ông Đặng Cc UBND huyện Tiấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa đất số 680, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại xãxã N, huyện
Ttích 1.090m
2
, đứng tên hộ ông Đặng Ci tắt là thửa đất số 680).
Xét diện tích thửa đất số 680 thì thấy: xác định theo bản đồ lập năm 1993
là 1.044,7m
2
; theo kết quả đo vẽ hiện trạng sử dụng là 1.101,2m
2
, tăng so với
GCNQSDĐ là 11,2m
2
. Quá trình giải quyết vụ án, ông Đặng C rằng vào khoảng
năm 2006 thì ông CH có chuyển nhượng cho ông Phan Bn tích đất khoảng 150m
2
,
10
tuy nhiên nội dung này chưa được xác minh làm rõ như về thủ tục chuyển nhượng,
diện tích, kích thước, vị trí tứ cận thửa đất.
Như vậy, căn cứ theo kết quả đo đạc thẩm định ngày 13/10/2023 thì diện
tích đất của nguyên đơn và bị đơn đều có sự biến động, hiện trạng sử dụng đất của
hai hộ đều có nhiều phần diện tích nằm ngoài bản đồ năm 1993 và không đúng
với diện tích đã được cấp trong GCNQSDĐ.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm cần phải xác minh làm rõ, việc cấp GCNQSDĐ
cho các bên được dựa trên cơ sở căn cứ theo tài liệu nào, có căn cứ theo bản đồ
địa chính năm 1993 hay không? Cần xác minh làm rõ lý do của việc tăng, giảm
diện tích đất của hộ ông Kông Cvới GCNQSDĐ đã được cấp? (Trong đó cần làm
rõ đối với diện tích đất 150m
2
ông Đặng Cnh bày đã chuyển nhượng cho ông Phan
Bn diện tích đất mồ mả và phần đất mà các đương sự cho rằng không nằm trong
phần đất đã được cấp GCNQSDĐ); Xác định phần diện tích tăng, giảm này thuộc
quyền quản lý, sử dụng của ai? Ý kiến của các đương sự đối với phần diện tích
biến động này.
Mặt khác, diện tích đất tranh chấp theo đo đạc thực tế là 167,4m
2
nhưng
nguyên đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn chỉ yêu cầu ông Đặng CPhan Thị Hcác thành viên
trong hộ ông C lại 145m
2
, Tòa án cấp sơ thẩm đã không xác định làm rõ về vị trí,
hình dạng, kích thước tứ cận cụ thể đối với phần diện tích này, ý kiến của các
đương sự về nội dung này, việc xác định cần phải được cơ quan có thẩm quyền đo
vẽ, xác nhận cụ thể để làm cơ sở đảm bảo cho việc thi hành án theo quy định.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn có yêu cầu phản tố, Tòa án cấp sơ thẩm
nếu xét thấy việc tạm ứng chi phí tố tụng là cần thiết để giải quyết vụ án nhưng bị
đơn không nộp chi phí tố tụng thì cần áp dụng Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự để
giải quyết đối với yêu cầu này của bị đơn.
Như vậy, để việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện đúng pháp
luật thì cần phải thu thập thêm các tài liệu, chứng cứ như đã nêu trên nhưng Tòa
án cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được, nên cần phải hủy bản án sơ
thẩm để chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi giải quyết lại
vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
Các nội dung của kháng nghị về án phí dân sự sơ thẩm sẽ được xem xét khi
giải quyết lại vụ án.
11
[3] Về án phí phúc thẩm: do kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan được chấp nhận nên những người kháng cáo không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án;
1.
Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 12/3/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về việc“Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu đốn
chặt các loại cây trồng trên đất” giữa nguyên đơn là ông Phan Quang K đơn là
ông Đặng CQuyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 04/TB-TA ngày
26/3/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
2.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi để giải quyết
lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
3.
Về án phí dân sự phúc thẩm :
3.1 Hoàn trả lại cho ông Đặng Ctiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003003 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
3.2 Hoàn trả lại cho ông Đặng K1 tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003012 ngày 22/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
3.3 Hoàn trả lại cho bà Đặng Thị H2tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003006 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
3.4 Hoàn trả lại cho bà Đặng Thị T1ền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003009 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
3.5 Hoàn trả lại cho bà Đặng Thị Diền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003010 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
12
3.6 Hoàn trả lại cho bà Đặng Thị Qtiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003011 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
3.7 Hoàn trả lại cho bà Phan Thị Htiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003004 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
3.8 Hoàn trả lại cho ông Đặng Văn Ltiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003005 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
3.9 Hoàn trả lại cho ông Đặng C1ền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003008 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
3.10 Hoàn trả lại cho ông Đặng Thị H1 tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí
phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu số 0003007 ngày 19/4/2024 của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Quảng Ngãi (do Nguyễn Thị D1thay).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Cục THADS tỉnh Quảng Ngãi;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
đã ký
Phạm Văn Hợp
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm