Bản án số 233/2024/DS-ST ngày 08/11/2024 của TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 233/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 233/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 233/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 233/2024/DS-ST ngày 08/11/2024 của TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Trảng Bàng (TAND tỉnh Tây Ninh) |
Số hiệu: | 233/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Văn D tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Nguyễn Thị R |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ TRẢNG BÀNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH TÂY NINH
Bản án số:233/2024/DS-ST.
Ngày 08-11-2024
V/v: “tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Hà Như Thủy.
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Dương Thị Mỹ Liên;
Ông Lê Đình Nhung.
Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Văn Hảnh – Thư ký Tòa án nhân dân thị xã
Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng tham gia phiên toà:
Ông Nguyễn Văn Thướng – Kiểm sát viên.
Trong ngày 08 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng
Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 283/2024/TLST-DS
ngày 12 tháng 8 năm 2024 về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
122/2024/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Trung D, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ E, Ấp C, xã
B, huyện G, tỉnh Tây Ninh;
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Trương Thị B, sinh năm
1978; địa chỉ: Số G, T, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn R, sinh năm 1956;
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Lê Thị L, sinh năm 1957;
- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984;
- Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1980- có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông R và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan bà L, anh T: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1980; địa chỉ: ấp
B, xã Đ, thị xã T, tỉnh Tây Ninh- có mặt.
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971; địa chỉ: Tổ E, ấp C, xã B, huyện G,
tỉnh Tây Ninh- có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, đại diện
nguyên đơn bà Trương Thị B trình bày:
2
Ngày 29-01-2020 (Al) ông D, bà H có thỏa thuận mua 01 phần đất của ông
R là 08m ngang x 30m dài diện tích là 240m
2
, không biết số thửa, tờ bản đồ đất
tọa lạc tại tổ A, ấp B, xã Đ, thị xã T, tỉnh Tây Ninh. Giá chuyển nhượng là
200.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng thì hai bên có làm giấy tay “Giấy bán
đất” có ông R và vợ con là bà L, anh T, anh Q ký tên, bên ông D không ký tên.
Tiền mua đất đã giao hết 01 lần 200.000.000 đồng khi bên ông R làm giấy tay
mua bán đất. Khi giao tiền hai bên không có làm biên bản giao nhận tiền. Hai
bên đã giao nhận đất xong từ ngày 29-01-2020 (AL) đến nay. Khi giao nhận đất
thì không có làm biên bản nhưng hai bên trực tiếp đến đất, chỉ ranh. Sau khi
nhận đất, bà H và ông D đã sử dụng từ đó đến nay. Ngoài giấy tay mua bán thì
hai bên không có làm hợp đồng chuyển nhượng hay giấy tờ gì khác do ông R
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong quá trình sử dụng không có tranh chấp cả nhưng bên ông D không
làm thủ tục kê khai đăng ký được do cán bộ địa chính xác định đây là đất công
nên không cấp giấy đất được. Như vậy là không đúng với thỏa thuận cam kết
của ông R là đất do ông khai phá, sử dụng canh tác, không có tranh chấp dù là
người ngoài hay người nhà hay đất công. Do đó, có sự cản trở vì đây là đất công
nên mới xảy ra tranh chấp. Việc cam kết hỗ trợ làm giấy đất không có tranh
chấp, không phải đất công là sự thỏa thuận miệng nhưng phía ông R không ghi
vào giấy mua bán. Hiện ông D cũng không có chứng cứ gì chứng minh có việc
thỏa thuận này. Việc chuyển nhượng đất giữa hai bên trên thực tế đã hoàn thành
từ năm 2020 nhưng do không thực hiện được thủ tục kê khai đăng ký giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trong năm 2020 nhưng không được. Sau khi liên
hệ địa phương không được thì ông D tìm ông R để hỗ trợ việc làm thủ tục thì
ông R nói chỉ bán đất không chịu trách nhiệm về sau nên kéo dài đến nay.
Nay ông D yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông D, bà H với ông R, bà L theo giấy tay “Giấy bán đất ngày 29-01-2020
(AL) vô hiệu. Yêu cầu ông R, bà L, anh T, anh Q trả số tiền 200.000.000 đồng
mua bán đất và bồi thường 200.000.000 đồng, tổng cộng là 400.000.000 đồng.
Ông D đồng ý trả lại cho ông R, bà L phần đất đã nhận chuyển nhượng theo hợp
đồng hai bên đã ký là ngang 08 x dài 30m, nhưng qua kết quả đo đạt thực tế
diện tích sau khi trừ phần thu hồi còn lại 179,8m
2
trong thửa 121, tờ đồ số 20
tọa lạc tại ấp B, xã Đ, thị xã T nên nguyên đơn chỉ đồng ý trả diện tích 179,8m
2
.
Tại phiên tòa, nguyên đơn xin rút lại yêu cầu về việc yêu cầu ông R, bà L, anh
T, anh Q bồi thường 200.000.000 đồng, nhưng yêu cầu bồi thường trượt giá đất.
Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện bị đơn và
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan- anh Nguyễn Văn Q thể hiện lời trình
bày:
Anh xác nhận lời trình bày của nguyên đơn về việc mua bán đất như trên là
đúng. Khi mua bán hai bên chỉ làm giấy tay do cha mẹ anh chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy tay “Giấy bán đất” do anh viết, cha mẹ
anh, anh và anh T ký tên. Do trước đó ông D đã biết đất nhà anh chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vẫn đồng ý mua vì vậy gia đình anh
mới bán rẻ phần đất trên với giá 200.000.000 đồng, chứ thực tế giá đất tại thời
3
điểm chuyển nhượng đối với phần đất trên phải hơn 1.000.000.000 đồng. Trong
quá trình chuyển nhượng cho ông D thì gia đình anh cũng không ai tranh chấp
hay ngăn cản gì cả.
Gia đình anh không vi phạm hợp đồng và việc hai bên mua bán đã hoàn
tất, đã giao nhận tiền, giao nhận đất xong. Đồng thời ông D cũng đã thay đổi
hiện trạng đất, cụ thể là đã phá bỏ cây tầm vong do gia đình anh trồng trên đất
rồi nên anh không đồng ý theo yêu cầu của ông D.
Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà là vợ của ông D. Bà có cùng
ý kiến và nguyện vọng với ông D.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng:
- Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử
và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội
dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên
tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham
gia tố tụng gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân
sự.
- Về nội dung: Căn cứ các Điều 167, 188 Luật Đất đai năm 2013; các Điều
119, 131, 500, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự
và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Trung D “Tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đối với ông Nguyễn Văn R.
Tuyên bố hợp đồng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy
tay ngày 29-01-2020 giữa ông Nguyễn Văn R, bà Lê Thị L và ông Trần Trung
D, bà Nguyễn Thị H, diện tích đo đạt thực tế: 179,8 m
2
, loại đất NTD, thửa đất
121, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại ấp B, xã Đ, thị xã T là vô hiệu. Đồng thời xử lý
hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định pháp luật.
2. Đình chỉ một yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Trần Trung D đối với
ông Nguyễn Văn R, số tiền 200.000.000đồng.
3. Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định
của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại
phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện
Kiểm sát, xét thấy:
[1] Xét việc xin rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tại đơn
khởi kiện ông D yêu cầu ông R, bà L, anh T, anh Q trả số tiền 200.000.000
đồng mua bán đất và bồi thường 200.000.000 đồng, tổng cộng là 400.000.000
4
đồng. Tại phiên tòa, nguyên đơn xin rút lại yêu cầu về việc yêu cầu ông R, bà L,
anh T, anh Q bồi thường số tiền 200.000.000 đồng. Xét thấy, việc xin rút một
phần yêu cầu khởi kiện của ông D không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu,
phù hợp với quy định tại Điều 244 Bộ luật Dân sự nên Hội đồng xét xử chấp
nhận.
[2] Về nội dung:
[2.1] Phần đất các đương sự tranh chấp qua xem xét thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản thể hiện: Đo đạc thực tế diện tích là 179,8m
2
, loại đất NTD
trong thửa 121, tờ đồ số 20 tọa lạc tại ấp B, xã Đ, thị xã T. Trị giá đất là
258.912.000 đồng.
Tài sản trên đất: không có.
[2.2] Xét yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô
hiệu nhận thấy:
[2.2.1] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo bản giấy tay
“Giấy bán đất” ngày 29-01-2020 (AL) thể hiện: Ông R có bán cho ông D, bà H
01 phần đất diện tích là 8m x 30m với số tiền 200.000.000 đồng. Hai bên đã
giao nhận tiền và giao nhận đất xong. Khi thỏa thuận mua bán thì ông R chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ông D cũng biết việc này. Nay
ông D không thể tiến hành làm thủ tục kê khai đăng ký quyền sử dụng đất được,
vì cán bộ địa chính xác định đây là đất công. Tuy việc thỏa thuận mua bán đất
giữa hai bên là có thật và đã thực hiện xong. Tuy nhiên, ông R chuyển nhượng
đất khi chưa được cấp quyền sử dụng đất, ông D nhận chuyển nhượng dù biết
rằng phần đất trên không đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định của luật
đất đai. Hơn nữa, đất này qua xác định loại đất là NTD (đất nghĩa địa) không đủ
điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông R với ông D, bà H là giấy tay mua bán
không có công chứng, chứng thực theo quy định pháp luật, không thể hiện được
vị trí, thửa đất chuyển nhượng. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa ông Trần Trung D, bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn R là vô hiệu
theo quy định tại Điều 129, 408 Bộ luật Dân sự 2015, nên có cơ sở chấp nhận
yêu cầu của ông D về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất vô hiệu.
[2.2.2] Căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự: Hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận. Do đó, ông R, bà L có nghĩa vụ trả lại ông D, bà H số tiền
200.000.000 đồng. Ông D, bà H có nghĩa vụ trả lại cho ông R, bà L phần đất
diện tích là 179,8m
2
trong thửa 121, tờ đồ số 20 tọa lạc tại ấp B, xã Đ, thị xã T.
Về lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu là do hai bên do đó lỗi là ngang nhau nên
mỗi bên phải chịu 50% nghĩa vụ bồi thường theo giá trị tài sản chuyển nhượng
chênh lệch tại thời điểm xét xử là:
Căn cứ vào biên bản định giá tài sản ngày 25-9-2024 thì quyền sử dụng đất
có giá trị là 258.912.000 đồng. So với giá trị tại thời điểm xét xử chênh lệch là
258.912.000 đồng – 200.000.000 đồng = 58.912.000 đồng. Do đó, ông R, bà L
có nghĩa vụ bồi thường cho ông D, bà H số tiền là 29.456.000 đồng.
5
Tổng cộng, ông R, bà L có trách nhiệm trả cho ông D, bà H tổng số tiền là
229.456.000 (Hai trăm hai mươi chín triệu bốn trăm năm mươi sáu nghìn) đồng.
[2.3] Xét yêu cầu của ông D yêu cầu ông R, bà L, anh Q, anh T cùng có
trách nhiệm trả số tiền trên nhận thấy: Tuy theo giấy tay mua bán thể hiện bên
bán có ông R, bà L, anh Q và anh T cùng ký tên; nhưng trong quá trình làm
việc, cũng như tại phiên tòa nguyên đơn đều xác định việc thỏa thuận mua bán
là thỏa thuận với ông R, bà L. Người nhận tiền chuyển nhượng đất cũng là ông
R, bà L. Việc anh Q, anh T ký tên để thể hiện không có tranh chấp đối với việc
mua bán. Do đó, có cơ sở không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu
cầu anh Q, anh T cùng có trách nhiệm trả số tiền trên.
[3] Chi phí xem xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản là 5.000.000
đồng, nguyên đơn đã nộp đủ. Theo quy định tại Điều 165 của Bộ luật Tố tụng
Dân sự thì ông R, bà L có nghĩa vụ trả lại cho ông D số tiền 5.000.000 đồng.
[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng là phù
hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về án phí:
- Bà ông R, bà L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng do ông bà
thuộc đối tượng người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí Nên được miễn án
phí theo quy định pháp luật.
- Hoàn trả lại cho ông D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.300.000 đồng
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015723 ngày 12 tháng 8 năm
2024 và số 0000330 ngày 18 tháng 9 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 167, 188 Luật Đất đai năm 2013; các Điều 129, 119,
131, 408, 500, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 165, 244 Bộ luật Tố tụng
Dân sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Trung D về tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay “Giấy bán đất”
ngày 29-01-2020 (AL).
1.1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần
Trung D, bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn R theo giấy tay “Giấy bán đất”
ngày 29-01-2020 (AL) vô hiệu.
1.2. Ông Nguyễn Văn R, bà Nguyễn Thị L1 có trách nhiệm trả cho ông
Trần Trung D, bà Nguyễn Thị H tổng số tiền là 229.456.000 (Hai trăm hai mươi
chín triệu bốn trăm năm mươi sáu nghìn) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
6
1.3. Ông Trần Trung D, bà Nguyễn Thị H có nghĩa vụ trả lại cho ông
Nguyễn Văn R, bà Nguyễn Thị L1 phần đất diện tích là 179,8m
2
trong thửa 121,
tờ đồ số 20 tọa lạc tại ấp B, xã Đ, thị xã T, loại đất NTD, có tứ cận như sau:
Hướng Đông giáp thửa 121 dài 7,04m +0,6m;
Hướng Tây giáp phần thu hồi đường 782 dài 8m;
Hướng Nam giáp thửa 121 dài 22,74m;
Hướng Bắc giáp thửa 144 dài 22,33m.
( kèm theo sơ đồ đất)
2. Đình chỉ một yêu cầu của ông Trần Trung D về bồi thường thiệt hại đối
với ông Nguyễn Văn R, bà Nguyễn Thị L1, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn
Văn Q đối với số tiền 200.000.000đồng.
3. Chi phí thẩm định, định giá tài sản: Ông Nguyễn Văn R, bà Nguyễn Thị
L1 có nghĩa vụ trả lại cho ông Trần Trung D số tiền 5000.000 (năm triệu) đồng.
4. Về án phí:
- Ông Nguyễn Văn R, bà Nguyễn Thị L1 được miễn án phí dân sự sơ
thẩm.
- Hoàn trả lại ông Trần Trung D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
10.300.000 (mười triệu ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ
phí Tòa án số 0015723 ngày 12 tháng 8 năm 2024 và số 0000330 ngày 18 tháng
9 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết
theo quy định của pháp luật.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND thị xã Trảng Bàng;
- Chi cục THADS thị xã Trảng Bàng;
- Lưu: Án văn, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hà Như Thủy
Tải về
Bản án số 233/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 233/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm