Bản án số 204/2024/DS-PT ngày 23/08/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 204/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 204/2024/DS-PT ngày 23/08/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Kiên Giang
Số hiệu: 204/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Thị Kh tranh chấp với T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 204/2024/DS-PT
Ngày: 23/8/2024
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đặng Thị Bích Vân
Các Thẩm phán: Ông Lê Quang Tấn
Nguyễn Thị Nhiên
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Thu Vân - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Ngọc T - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 200/2023/TLPT-DS ngày 08 tháng 11
năm 2023, về: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và đòi tiền thuê đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 56/2023/DS-ST ngày 20/9/2023 của Tòa án
nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 251/2023/QĐPT-DS ngày 28
tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Bà Trần Thị K, sinh năm 1967. Có mặt
1.2. Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1986 (Con bà K). Có mặt
Chỗ ở hiện nay: E S, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
1.3. Anh Phạm Văn H, sinh năm 1987 (là con bà K). Vắng mặt.
1.4. Chị Phạm Thị H1, sinh năm 1988 (là con bà K). Vắng mặt.
1.5. Chị Phạm Thu T1, sinh năm 1991 (là con bà K). Vắng mặt.
1.6. Chị Phạm Thị G, sinh năm 1992 (là con bà K). Có mặt
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện U, tỉnh Kiên Giang.
2
- Người đại diện theo ủy quyền của anh Phạm Văn Đ, anh Phạm Văn H,
chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm Thị G : Trần Thị K (Theo
ă n"văn bản ủy quyền ngày 08/12/2020). Địa chỉ như trên. Có mặt
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà K : Luật sư Tiêu Tường
T2 Văn phòng L3, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh K. Có mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Nguyễn Hải T3, sinh năm 1974. Vắng mặt.
2.2. Bà Lã Thị Hằng N, sinh năm 1974 (Vợ ông T3). Có mặt.
Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện U, tỉnh Kiên Giang.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông T3, N : Ông Phạm Hữu P,
sinh năm 1968. Có mặt
Địa chỉ: Số D T, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của N : Luật sư Đoàn Công
T4 Văn phòng Luật sư Đoàn Công T4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh K. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1986. Có đơn yêu cầu vắng mặt.
3.2. Nguyễn Kim K1, sinh năm 1986 (Vợ ông L). đơn yêu cầu vắng
mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện U, tỉnh Kiên Giang.
3.3. Ông Cao Trung D, sinh năm 1965. Có đơn yêu cầu vắng mặt.
3.4. Nguyễn Thị H2, sinh năm 1966 (Vợ ông D). đơn yêu cầu vắng
mặt.
Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện U, tỉnh Kiên Giang.
4. Người kháng cáo: Trần Thị K, anh Phạm Văn Đ, anh Phạm Văn H,
chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm Thị G - là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nguyên đơn Trần Thị K, anh Phạm Văn Đ, anh Phạm Văn H,
chị Phạm ThH1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm ThG trình bày: Năm 1994 vợ
chồng Trần Thị K, ông Phạm Văn H3 (Ông H3 đã chết) nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Nguyễn Văn M (Mốt), Trần Th
L1 cạnh ngang mặt tiền giáp đường nhựa Quốc lF 6m, cạnh ngang mặt
hậu giáp ranh đất của vợ chồng ông Trần Xuân N1 (Ông N1 chết ngày
12/10/2021) Đặng Thị C. Ngày 24/9/2002 ông H3 được Ủy ban nhân dân
huyện A (Uỷ ban nhân dân, sau đây được viết tắt là UBND) cấp giấy chứng nhận
quyền sdụng đất (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đây được viết tắt
giấy CNQSD đất) số U 860737, diện tích 352m
2
, tọa lạc ấp X, T, huyện A
(Nay thuộc ấp C, T, huyện U), tỉnh Kiên Giang. Năm 2010 vợ chồng ông T3,
3
N nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng ông N1 giáp hậu đất
của K, nhưng K không giáp ranh đất. Sau đó vợ chồng ông T3, N
cất nhà lấn chiếm đất của chiều ngang 06 mét, dài 02 mét, hiện căn nhà ông
T3, bà N cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu L, bà Nguyễn Kim K1 thuê để buôn bán
văn phòng phẩm.
Nay bà K yêu cầu v chồng ông T3, N dỡ căn nhà, trả lại phần đất
ngang 06m, dài 02m, theo đúng diện tích trong giấy CNQSD đất như nêu trên; Bà
K yêu cầu vợ chồng ông T3, N trả tiền phần đất lấn chiếm cho thuê từ năm
2017 đến năm 2020, mỗi năm 10.000.000 đồng, bằng 30.000.000 đồng; K
không đồng ý yêu cầu phản tố của phía bị đơn.
- Theo bị đơn có yêu cầu phản tố bà Lã Thị Hằng N, ông Nguyễn Hải T3
trình bày: Ngày 12/02/2020 vợ chồng ông T3, N nhận chuyển nhượng của vợ
chồng ông Cao Trung D, Nguyễn Thị H2 phần đất ngang 06m, dài khoảng
10m (Tính từ mé Quốc lộ 63 tuyến tránh đo vào). Nguồn gốc đất của ông D là do
vào năm 2009 vchồng ông D nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông N1 chiều
ngang 21m. Sau đó vợ chồng ông D chuyển nhượng lại một phần đất cho v
chồng ông T3, bà N. Do diện tích đất không đủ điều kiện cấp giấy nên hai bên chỉ
viết giấy tay, khi nhận chuyển nhượng thì ông D, H2 cho biết phần đất này
hành lang lộ giới an toàn giao thông, nhưng N vẫn đồng ý mua. Từ năm
2018 đến nay vchồng N, ông T3 cho vợ chồng ông L, K1 thuê với giá
5.000.000đ/năm, sau đó vchồng ông L, bà K1 tự dựng nhà tạm (nhà tol) và m
tiệm buôn bán văn phòng phẩm đến nay.
Năm 2020 K xây gạch cuốn nền và lấn đất ngang 6,06m, dài 01m,
hậu đất K hậu đất của ông D, H2 ngang nhau nhưng theo hiện trạng
thì hậu đất K dài hơn hậu đất của ông D, bà H2 01m. Nên N phản tố yêu
cầu nguyên đơn trả lại diện tích đất chiều ngang 6,06m, dài 01m. N không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. Theo ông Nguyễn Hữu L, Nguyễn Kim K1 trình bày: Ngày
03/01/2018 vợ chồng ông L, K1 thuê phần đất của vợ chồng ông T3, N
dài khoảng 10m, ngang 06m với giá 5.000.000đ/năm. Trong tháng 01/2018 vợ
chồng ông L, bà K1 tự cất nhà tiền chế và mở tiệm buôn bán văn phòng phẩm
đến nay. Từ khi thuê đất thì ông L, K1 trả tiền thuê đất cho bà N được 04
năm với số tiền 20.000.000 đồng. Năm 2023 do dịch bệnh Covid 19 ông L,
K1 buôn bán ế ẩm và phải sửa lại nhà nên bà N không lấy tiền thuê đất. Vợ chồng
ông L, bà K1 không yêu cầu trong việc tranh chấp giữa K với N; còn
đối với căn nhà của vợ chồng ông L, K1 nếu Tòa án giải quyết giao phần đất
cho ai thì vchồng ông L, K1 sẽ thỏa thuận với người đó thuê tiếp hay
không, còn không thì ông, tự nguyện di dời nhà của mình để trả lại đất theo
quyết định Tòa án. Ông L, K1 không yêu cầu bồi thường trong việc di dời
nhà và cũng không có yêu cầu gì trong vụ án này.
2.Ông Cao Trung D, Nguyễn Thị H2 trình bày: Vợ chồng ông N1, bà
C có phần đất giáp ranh với ông D, bà H2. Khoảng năm 2008 2009, đất ông N1,
4
C giao cho nnước làm đường Quốc lộ 63 mới (tuyến tránh), nên phần đất
còn lại chiều dài từ 02 - 03m, chiều ngang dọc theo Quốc lộ hơn 100m. Do diện
tích đất không đủ điều kiện cấp giấy CNQSD đất nên ông N1, C kêu những
người hậu đất giáp ranh mua. Năm 2009 vợ chồng ông D, H2 mua đất
của ông N1, C ngang dọc theo Quốc lộ F (mới) 21m, dài từ 02 - 03m, giá
2.000.000đ/m, bằng 42.000.000 đồng. Khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất các bên không đo đạc nhưng làm giấy viết tay vợ chồng ông N1
chỉ cặm ranh, giáp ranh đất của ông N1 đất của vợ chồng ông M1 (Muốl),
sau này ông M1 chuyển nhượng lại cho bà K.
Mặc dù, ông N1, bà C đã bán đất cho nhà nước nhưng năm 2008-2009 nhà
nước chưa làm Quốc lộ F mới, nên chiều dài khoảng 10 mét (Trong đó đất nhà
nước khoảng 08 mét, đất ông N1, C khoảng 02 03 mét), nên các bên thỏa
thuận chỉ chuyển nhượng phần đất của ông N1, còn đất nhà ớc (08m) hiện
chưa làm đường Quốc lộ 63 mới nên vợ chồng ông D, H2 tạm thời sử dụng
đến khi nhà nước lấy lại thì giao trả lại cho nhà nước. Ngày 12/02/2010 ông D, bà
H2 chuyển nhượng lại một phần đất cho vợ chồng ông T3, N, ngang 06 mét,
dài khoảng 10 mét (gồm cả đất nhà nước), g12.000.000đ, hiện nay K đang
tranh chấp với N. Ông D, bà H2 không có yêu cầu gì trong vụ án này.
- Theo lời khai của cụ Trần Văn B (là cha của ông N1), Đặng Thị C
(là vợ của ông N1), các con anh Trần Xuân L2, anh Trần Xuân B1 trình
bày: Trước đây ông N1 đất giáp ranh với ông D, ông M1 (sau này đất ông M1
chuyển nhượng cho K). Sau khi nhà nước quy hoạch đất của ông N1 để mở
tuyến tránh Quốc lộ F mới, thì ông N1 còn lại chiều ngang cặp đường khoảng
200m, chiều dài khoảng 10m (bao gồm cả đất nhà nước là 8m). Do không đủ điều
kiện cấp giấy chứng nhận, nên ông N1 bán bằng giấy tay cho các hộ giáp ranh,
ông D mua lại chiều ngang 21m, dài 10m (gồm 8m đất của nhà nước). C
biết vợ chồng ông D, H2 chuyển nhượng lại một phần đất này cho vợ
chồng ông T3, N, ngang 06m, giáp ranh hậu đất ông M1. Hiện nay phía K
đang tranh chấp với ông T3, N. Các ông, bà không yêu cầu hay tranh chấp
gì trong vụ án này.
* Theo ông"Công văn số: 57/TNMT ngày 03/8/2023 của Phòng tài nguyên
Môi trường huyện U, tỉnh Kiên Giang được Chủ tịch U cho rằng diện tích đất
tranh chấp 18,18m
2
không nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã
cấp cho ông Phạm Văn H3 (Chồng K) cũng chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ai. Hiện trạng thửa đất đang tranh chấp thuộc đất
hành lang an toàn giao thông do à"nhà nước quản lý. Khi Tòa xét xử tạm giao để
sử dụng, khi à"nhà nước cần giao trả lại cho à"nhà nước.
* Theo ên"Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án Tờ trích đo
địa chính số 160-2022 ngày 26/12/2022 của Chi nhánh ă n"văn phòng đăng
đất đai huyện U, tỉnh Kiên Giang thì phần đất tranh chấp diện tích ngang
6.06m, dài 03m (Trong đó, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả phần đất chiều dài
02m; bị đơn phản tố yêu cầu nguyên đơn trả phần đất chiều dài 01m). Tổng
diện tích đất tranh chấp là 18,18m
2
.
5
* Theo chứng thư thẩm định giá của Công ty cổ phần thẩm định giá
vấn đầu Miền T ngày 10/8/2023 thì giá trị quyền sử dụng đất 63.827.000đ
và tài sản công trình xây dựng là 17.730.000đ. Tổng giá trị là 81.557.000đ.
Tại Bản án dân sự thẩm số 56/2023/DS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa
án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang đã xét xử, quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị K, anh
Phạm Văn Đ, anh Phạm Văn H, chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm
Thị G đòi bị đơn ông Nguyễn Hải T3, Thị Hằng N trả lại phần đất diện
tích 18.18m
2
trả tiền phần đất lấn chiếm cho thuê số tiền 30.000.000 đồng (Ba
mươi triệu đồng).
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Hải T3, Thị
Hằng N.
3. Ông T3, N tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích chiều ngang 6.06m,
chiều dài 03m, bằng 18.18m
2
,
tọa lạc ấp C, T, huyện U, tỉnh Kiên Giang (Đất
thuộc hành lang an toàn giao thông do Nhà nước quản lý), khi nào nhà nước
nhu cầu sử dụng thì ông T3, N nghĩa vụ giao trả lại cho nhà nước sử dụng
theo quy định pháp luật, theo tờ trích đo địa chính số: 160 - 2022 ngày
26/12/2022 của Chi nhánh ă n"Văn phòng đăng đất đai huyện U, tỉnh Kiên
Giang.
4. Buộc Trần Thị K, anh Phạm Văn Đ, anh Phạm Văn H, chị Phạm Thị
H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm Thị G phải trách nhiệm di dời, tháo dỡ nền
gạch toàn bộ công trình xây dựng gắn liền trên phần đất tranh chấp để giao lại
phần đất có diện tích 18.18m
2
cho vợ chồng ông T3, bà N quản lý sử dụng.
Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng báo quyền
kháng cáo cho đương sự theo quy định pháp luật.
* Ngày 02/10/2023 nguyên đơn Trần Thị K, anh Phạm Văn Đ, anh
Phạm Văn H, chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm Thị Giàu c đơn
kháng cáo: Yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông ông T3, N. Buộc
ông T3, N giao trả diện tích đất lấn chiếm 18,18m
2
chịu chi phí xem xét
thẩm định giá, án phí theo quy định.
* Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 10/01/2024 nguyên đơn yêu cầu tiến hành
đo đạc xem xét thẩm định tại chỗ lại. Vào ngày 29/02/2024 Tòa án đã tiến hành
xem xét lại đối với phần đất của ông Phạm Văn H3 (chồng bà K) được cấp trong
giấy CNQSD đất phần đất tranh chấp, cũng nxem xét hành lang an toàn
giao thông. Căn cứ theo Tờ trích đo s 54-2024, ngày 07/3/2024 của Chi
nhánh ă n"Văn phòng đăng đất đai huyện U, tỉnh Kiên Giang lập thì sau khi
trừ hành lang A (cũ) theo giấy CNQSD đất 14m, thì chiều dài phần đất còn lại
thực tế các cạnh 55,35m 55,56m (có chênh lệch ít hơn, diện tích bị giảm
so với diện tích được cấp trong giấy CNQSD đất). Phần đất tranh chấp chiều
ngang 6,06m chiều dài 3m, hành lang ATGT đường bộ của Q 63 tuyến
tránh là R:23m, phần đất trong giấy CNQSD đất của ông H3 (chồng K) nằm
6
trong hành lang ATGT đường bộ của Q 63 tuyến tránh các cạnh chiều dài là
9,61m và 9,45m.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự trình bày:
- Nguyên đơn trình bày: Phần đất này thuộc gia đình K sử dụng nên
yêu cầu N, ông T3 giao lại phần đất tranh chấp. Xin rút lại yêu cầu khởi kiện
yêu cầu kháng cáo bồi thường s tiền 30.000.000đ. Không đồng ý thỏa
thuận với ông L, bà K1 về việc tiếp tục cho thuê, yêu cầu ông L K1 tháo dỡ di
dời tài sản trên đất.
Luật sư bà K ý kiến và yêu cầu: Phần đất K hiện nay thực tế sử dụng
không đủ so với diện tích đất được cấp trong giấy chứng nhận, chiều dài các cạnh
trên thực tế đều bị thiếu. Không có căn cứ nào xác định đất tranh chấp là của ông
N1. Không chứng cứ nào chứng minh ông N1 được bồi thường tại vị trí đất
tranh chấp, còn việc K được bồi thường hay không thủ tục hành chính
giữa bà K với chính quyền huyện U. Bà N, ông T3 không chứng minh được phần
đất tranh chấp của ông N1 nên không sở giao đất cho N, ông T3. Yêu
cầu chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản
tố của bà N.
- Bị đơn trình bày: Bản án sơ thẩm xét xử là căn cứ, đất có nguồn gốc là
của ông N1 bán cho ông D, ông D bán lại cho bà N. Không phải đất của bà K nên
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Luật bị đơn ý kiến yêu cầu: Căn cứ theo lời khai của ông D thì
phần đất tranh chấp của ông N1. Tại sao đất của K nhưng K lại không
được nhận tiền bồi thường?. Ông D còn khai rằng đất của ông D ngang bằng với
đất của ông M (Mốt). Nếu cho đất tranh chấp của nguyên đơn thì đất của
nguyên đơn vị trí cao hơn đất của ông D. Phần đất tranh chấp của ông N1,
do ông N1 được bồi thường. Nếu không giữ nguyên được bản án thẩm tyêu
cầu hủy bản án sơ thẩm để làm rõ lại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang nêu quan điểm và ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán những người tham gia tố tụng
trong vụ án tkhi thụ vụ án đến thời điểm nghị án tại phiên tòa phúc thẩm đã
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về hướng giải quyết vụ án: Phần đất của N do ông D chuyển nhượng
cho bà N và cũng nói rõ là đất hành lang ATGT. Theo trích đo số 54-2024 thì đất
K thực tế sử dụng bị thiếu so với diện tích theo giấy chứng nhận. Căn cứ theo
Công văn số 47 của Phòng Tài nguyên Môi trường UBND huyện U cũng khẳng
định đất tranh chấp là đất hành lang ATGT và có ý kiến giao cho bà K tiếp tục s
dụng. Do đó, bản án thẩm xét xử giao cho bà N, ông T3 được sử dụng đất
chưa phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu
khởi kiện một phần kháng cáo đối với tiền yêu cầu ông T3 N bồi thường,
nên xét kháng cáo còn lại của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ. Đề nghị chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn buộc vợ chồng N giao trả đất. Hủy đình
chỉ một phần vụ án đối với yêu cầu khởi kiện về số tiền bồi thường
7
30.000.000đ. Đề nghị sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2023/DS-ST, ngày
20/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công
bố công khai tại phiên tòa căn cứ kết quả tranh luận, trên sở xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn người tham gia tố tụng
khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được Tòa
án triệu tập hợp lệ yêu cầu xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành
xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Đối với ông Trần Xuân N1 (hoặc những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
của ông N1) không tranh chấp, cũng như không yêu cầu liên quan đến
phần đất tranh chấp. Do đó, không cần thiết đưa ông N1 vào tham gia tố tụng với
tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về nội dung vụ án như sau:
[2.1] Về phần đất tranh chấp: Theo đo đạc thực tế thì phần đất tranh chấp có diện
tích 18,2m
2
, (có chiều ngang 6,06m x dài 3m; Trong phần đất này thì nguyên
đơn yêu cầu bị đơn trả chiều ngang 6,06m x dài 2m; bị đơn phản tố yêu cầu trả
chiều ngang 6,06m x dài 1m), đất tọa lạc tại ấp C, T, huyện U, tỉnh Kiên
Giang. Căn cứ theo Tờ trích đo địa chính số: 160-2022 ngày 26/12/2022 của Chi
nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện U (BL 166). Trên phần đất tranh chấp
căn nhà tiền chế cột sắt, vách tôn, mái lợp tôn. Căn nhà này do ông L, K1 tự
cất trên đất, khi thuê đất của ông T3, N; đường gạch xây nền ngang 20cm
dài 6,06m do K xây trong phần đất dài 1m. Căn cứ theo Biên bản xem xét,
thẩm định tại chỗ ngày 22/11/2022 do Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng
lập (BL 178) Biên bản ngày 29/02/2024 do Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang
lập.
[2.2] Về nội dung vụ án như sau: Nguồn gốc đất bà K sử dụng là do nhận chuyển
nhượng của vợ chồng ông Nguyễn Văn M2 (Muốl), diện tích đất là 352m
2
, thửa
số 359-c, tờ bản đồ số 10 theo giấy CNQSD đất số U 860737, cấp ngày
24/9/2002 cho Hộ ông Phạm Văn H3 (chồng K) đứng tên sử dụng (BL 155).
Phần đất bà K sử dụng có mặt tiền giáp đường Q (cũ) và mặt hậu giáp với đất của
ông Trần Xuân N1. Phần đất ông N1 sử dụng thì được Nhà nước quy hoạch để
mở đường Q 63 tuyến tránh (Lộ mới). Đến năm 2010 thì ông D chuyển nhượng
bằng giấy tay lại cho vợ chồng N phần đất giáp Q (mới) chiều ngang 6m x
dài 2m, (nguồn gốc đất của ông D do nhận chuyển nhượng của ông N1), đồng
thời ông D nói với N đất hành lang ATGT, khi nào Nhà nước cần thì
trả lại cho Nhà nước. Sau đó vợ chồng ông T3 N cho vợ chồng ông L, K1
thuê vợ chồng ông L, K1 tcất nhà tiền chế để buôn bán trên phần đất
ngang 6m x dài 2m, vchồng ông L không tranh chấp trong vụ án này, sẽ tự
8
thỏa thuận để được tiếp tục thuê, nếu không thỏa thuận được sẽ tự nguyện tháo
dỡ di dời theo bản án, quyết định của Tòa án.
[3] Xét kháng cáo của các nguyên đơn, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Phần đất gia đình K tranh chấp với phía ông T3 N chiều ngang 6,06m x
chiều dài 2m; Phía ông T3 phản tố tranh chấp với K phần đất chiều
ngang là 6,06m x dài 3m (trong đó có 02m bà N đang cho thuê và 01mK đang
sử dụng xây móng gạch).
Căn cứ theo Công văn số 47/TNMT, ngày 05/8/2024 của Phòng T - UBND
huyện U phúc đáp Công văn số 125/2024/CV-DS ngày 10/7/2024 của Tòa án, có
ý kiến như sau: Phần đất K đang sử dụng tính đến biên giải phòng mặt bằng
diện tích 332,5m
2
so với diện tích được cấp trong giấy CNQSD đất thiếu diện tích
19,5m
2
, do thời điểm cấp giấy CNQSD đất cho hộ ông Phạm Văn H3 (chồng
K), UBND huyện A không thể hiện đất hành lang ATGT. Phần đất tranh chấp
không nằm trong giấy CNQSD đất của bất kỳ ai. Khi chưa mở rộng Quốc lộ 63
tuyến tránh thì phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của hộ ông Phạm Văn
H3 (chồng K) người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông
Nguyễn n M. Trên thực tế đất hành lang ATGT đường bộ R:23m (tính từ biên
giải phòng mặt bằng đến Quốc lộ F) là đất do Nhà nước quản lý. Tuy nhiên, Nhà
nước tạm giao cho Trần Thị K tiếp tục sử dụng, khi Nhà nước trưng dụng thì
phải chấp hành giao trả lại cho Nhà nước theo quy định.
Ngoài ra, HĐXX còn xem xét phần đất gia đình K đang sử dụng trên thực tế
chiều dài bị thiếu so với phần đất được cấp trong giấy CNQSD đất tổng
diện tích đất trên thực tế sử dụng cũng bị giảm so với diện tích đất được cấp trong
giấy chứng nhận. Nếu cộng phần đất tranh chấp thì phần đất gia đình K sử
dụng sẽ tương đương với diện tích được cấp trong giấy CNQSD đất. Tuy nhiên,
UBND huyện U đã khẳng định phần đất K bthiếu do khi cấp giấy chứng
nhận không thể hiện hành lang ATGT. Như vậy, phần đất của gia đình K
tiếp giáp một phần nằm trong hành lang ATGT của Quốc lộ F tuyến tránh,
cho nên ông Trần Xuân N1 không còn phần đất nào tại vị trí này. Mặt khác, xét
thấy N nhận chuyển nhượng đất của ông D không đúng quy định. Bởi lẽ,
phần đất tranh chấp đất hành lang ATGT không thuộc quyền sử dụng đất hợp
pháp của ông D, nên việc chuyển nhượng giữa các bên không giá trị pháp
lý. Hơn nữa quan quản đất đai tại địa phương cũng đã ý kiến đối với
phần đất tranh chấp là trước khi mrộng Quốc lộ 63 tuyến tránh thì phần đất
thuộc quyền sử dụng của gia đình K, đồng thời tiếp tục tạm giao cho bà K
được sử dụng đất thuộc hành lang ATGT. vậy, bản án thẩm giao cho ông
T3, N được tiếp tục sử dụng đất tranh chấp không phù hợp với chủ trương
quản đất đai của địa phương, cho nên cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm. Tại
phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện và một phần nội
dung kháng cáo nên cấp phúc thẩm hủy đình chỉ một phần vụ án đối với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn do rút lại yêu cầu đối với stiền bồi thường
30.000.000đ.
9
Đối với tài sản trên phần đất tranh chấp là của ông L, bà K1 tự cất để buôn
bán văn phòng phẩm. Trong quá trình giải quyết vụ án ông L, bà K1 không
tranh chấp, không có yêu cầu gì, đồng thời cho biết sẽ tự thỏa thuận với bên được
sử dụng, nếu không thỏa thuận được sẽ tự tháo dỡ di dời.Tuy nhiên, tại phiên tòa
K không đồng ý thoả thuận với K1 ông L yêu cầu phải tháo ddi dời
giao trả đất, do đó sau khi Bản án hiệu lực pháp luật thì ông L, K1 phải tự
tháo dỡ di dời tài sản giao trả đất cho K. Trường hợp ông L bà K1 không tự
nguyện tháo dỡ di dời thì nguyên đơn quyền yêu cầu quan có thẩm quyền
tháo dỡ theo quy định. Nếu ông L, K1 tranh chấp về hợp đồng thuê đất, tài
sản trên đất đối với N, ông T3 thì được quyền khởi kiện trong vụ án dân sự
khác.
[4] Từ những sở nhận định nêu trên, nhận thấy quyết định của bản án dân sự
thẩm chưa phù hợp. Ý kiến của Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của nguyên đơn căn cứ nên sở chấp nhận; ý kiến của luật bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn chưa đủ cơ sở nên không chấp nhận. Thống
nhất đề nghị của Đại diện Viện kiểm t v việc: Chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn. Sửa bản án dân sự thẩm số 56/2023/DS-ST, ngày 20/9/2023 của
Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang. Hủy đình chỉ một
phần vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn do rút một phần yêu cầu
khởi kiện và một phần kháng cáo.
[5] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ thẩm định giá
4.829.600đ chi phí xem xét đo đạc lại là 1.545.000đ. Tổng số tiền
6.374.600đ, buộc bà N, ông T3 phải chịu. Do bà K đã nộp tạm ứng nênN, ông
T3 phải trả lại cho bà K số tiền này.
K đã được hoàn trả lại số tiền tạm ứng chi phí còn thừa 2.455.00
(đã thực hiện xong).
[6] Về án phí dân sự:
- Án phí dân sthẩm: Trần Thị K, anh Phạm Văn Đ, anh Phạm Văn
H, chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm Thị G được nhận lại tạm ứng
án phí với số tiền 1.000.000 đồng, theo biên lai thu số: 0003069 ngày
19/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên
Giang.
Ông Nguyễn Hải T3, Thị Hằng N phải nộp án phí đối với yêu cầu
phản tố không được chấp nhận 300.000 đồng, được khấu trừ vào tạm ứng án
phí theo biên lai thu số 0003498 ngày 19/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả lại cho nguyên đơn tạm ứng án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 2 Điều 308, 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
10
Áp dụng: khoản 5, khoản 7 Điều 166, Điều 170 Luật Đ t"Đất đai năm
2013; Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;.
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của Trần Thị K, anh Phạm Văn Đ, anh
Phạm Văn H, chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm Thị G.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 56/2023/DS-ST, ngày 20/9/2023 của Tòa án
nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị K, anh Phạm
Văn Đ, anh Phạm Văn H, chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm Thị G
đối với bị đơn ông Nguyễn Hải T3, Thị Hằng N về việc: Tạm giao cho
Trần Thị K, anh Phạm Văn Đ, anh Phạm Văn H, chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu
T1, chị Phạm Thị G được tiếp tục sử dụng phần đất tranh chấp nằm trong phần
đất thuộc hành lang an toàn giao thông đường bộ. Khi Nhà nước trưng dụng thì
phải chấp hành giao trả lại cho Nhà nước theo quy định.
Ông Nguyễn Hải T3, Thị Hằng N giao lại cho nguyên đơn sử dụng
phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế chiều ngang 6,06m, chiu dài 3m được
giới hạn bởi các điểm từ 1 đến 4. Phần vtrí đất được căn cứ theo trích đo số
54-2024, ngày 07/3/2024 của Chi nhánh ă n"Văn phòng đăng đất đai huyện U
lập Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 29/02/2024 do Tòa án nhân dân
tỉnh Kiên Giang lập.
Ghi nhận việc ông Nguyễn Hữu L Nguyễn Kim K1 tự nguyện tháo
dỡ, di dời tài sản căn nhà tự cất trên phần đất hành lang an toàn giao thông
đường bộ UBND huyện U tạm giao cho K được tiếp tục sử dụng. Trường
hợp không tự tháo dỡ thì nguyên đơn quyền yêu cầu quan thẩm quyền
tháo dỡ, di dời theo quy định. Tài sản trên đất căn nhà tạm, chi tiết vị trí
được thể hiện theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 22/11/2022 do Tòa
án nhân dân huyện U Minh Thượng lập.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Hải T3, bà
Thị Hằng N đối với nguyên đơn về việc yêu cầu giao trả cho ông phần đất
tranh chấp.
3. Về chi phí tố tụng: Tổng số tiền là 6.374.600đ buộc ông Nguyễn Hải T3,
bà Lã Thị Hằng N phải chịu. Do bà Trần Thị K đã nộp tạm ứng nên bà N, ông T3
phải trả lại cho bà K số tiền này.
4. Về án phí dân sự:
- Án phí dân sthẩm: Trần Thị K, anh Phạm Văn Đ, anh Phạm Văn
H, chị Phạm Thị H1, chị Phạm Thu T1, chị Phạm Thị G được nhận lại tạm ứng
án phí với số tiền là 1.000.000 đồng, theo ên"biên lai thu số 0003069 ngày
11
19/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên
Giang.
Ông Nguyễn Hải T3, Thị Hằng N phải nộp án phí với số tiền
300.000 đồng. Theo đó, được khấu trừ vào tạm ứng án phí với số tiền là 300.000đ
theo biên lai thu số 0003498 ngày 19/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân s
huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
- Án p dân s phúc thẩm: Hoàn trả lại tạm ứng án phí mỗi người
300.000đ, cụ thể: Trả cho Trần Thị K (biên lai thu số 0006049, ngày
03/10/2023); anh Phạm Văn Đ (biên lai thu số 0003036), anh Phạm Văn H (biên
lai thu số 0003037), chị Phạm Thị H1 (biên lai thu số 0003038), chị Phạm Thu
T1 (biên lai thu số 0003039), chị Phạm Thị G (biên lai thu số 0003040) nộp cùng
ngày 07/12/2024.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự sửa đổi, bổ sung thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
9 Luật thi hành án dân ssửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- TAND huyện U Minh Thượng;
- THA dân sự huyện U Minh Thượng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Thị Bích Vân
Tải về
Bản án số 204/2024/DS-PT Bản án số 204/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 204/2024/DS-PT Bản án số 204/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất