Bản án số 204/2024/DS ngày 25/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 204/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 204/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 204/2024/DS
Tên Bản án: | Bản án số 204/2024/DS ngày 25/12/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 204/2024/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tuyên bố Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 204/2024/DS - PT
Ngày: 25 – 12 – 2024
V/v: “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố
vô hiệu hợp đồng góp vốn và giải
quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu;
yêu cầu sửa đổi và tiếp tục thực
hiện hợp đồng góp vốn; yêu cầu
tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất vô hiệu”
.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Văn Hiếu
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Thanh Mai
Ông Vũ Việt Dũng
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Diễm, Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng;
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Ông Huỳnh Mạnh
- Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 25 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 70/2024/TLPT-DS ngày 04
tháng 10 năm 2024 về việc V/v: “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng
góp vốn và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu; yêu cầu sửa đổi và tiếp tục thực
hiện hợp đồng góp vốn; yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô
hiệu”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 37/2024/DS-ST ngày 04 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 195/2024/QĐPT – DS
ngày 18 tháng 11 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số:
285/2024/QĐ – PT ngày 28 tháng 11 năm 2024 và Thông báo mở lại phiên tòa số:
551/TB – TA ngày 09/12/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Đ; Mã số doanh nghiệp: 0401345900; Địa
chỉ: Số B L, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng.
2
Đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1985,
CCCD số 049185004615; Bà Trần Thị Lâm N, sinh năm 1995, CCCD số
049195012637; Ông Bùi Sơn C, sinh năm 1996, CCCD số 049096011640; Bà
Nguyễn Tú Q, CCCD số 052300009301; cùng địa chỉ liên hệ: Số C T, phường P,
quận S, thành phố Đà Nẵng.
Là những người đại diện theo ủy quyền (theo Giấy uỷ quyền số 222/UQ-PGT
ngày 18.11.2024 của ông Lê Anh T1 – Chủ tịch Hội đồng quản trị, Người đại diện
theo pháp luật của Công ty Cổ phần Đ). Bà T, ông C, bà N, bà Q đều có mặt.
2. Bị đơn: Ông Vũ Văn B, sinh năm 1968, CCCD số 030068009731; Địa chỉ:
Số I đường P, thành phố K, tỉnh Kon Tum.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Công T2, sinh năm 1995;
bà Trần Thị D, sinh năm 1989; ông Lê Q1, sinh năm 1985 và bà Hoàng Thị Thúy
Q2, sinh năm 1997; Cùng địa chỉ: Tầng B, Tòa nhà T, số H N, phường N, quận H,
thành phố Đà Nẵng (Theo hợp đồng uỷ quyền ngày 18/5/2022). Bà Q2 có mặt, vắng
mặt ông T2, ông Q1 và bà D.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: các Luật sư Lê Văn C1,
Thẻ Luật sư số 8154/LS do L2 cấp ngày 06/8/2013, Trần Thị H, Thẻ Luật sư số
14411/LS do L2 cấp ngày 03/6/2019 và Phạm Thị T3, Thẻ Luật sư số 19613/LS do
L2 cấp ngày 31/5/2023, là các Luật sư của Công ty L3, địa chỉ liên hệ: Tầng B, Tòa
nhà T, số H N, phường N, quận H, thành phố Đà Nẵng - thuộc Đoàn Luật sư thành
phố Đ. Luật sư T3 có mặt, vắng mặt Luật sư Lê Văn C1 và Trần Thị H.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ngân hàng TMCP Đ1; Địa chỉ trụ sở: Số B đường N, phường T, quận
H, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đình L – Chức
vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện hợp pháp của Ngân hàng TMCP Đ1: Bà Nguyễn Thị Kim X –
Chức vụ: Giám đốc QLKH khu vực miền T – Khối QL&TCTTS; Ông Hoàng Thế
Q3 – Chức vụ: Phó Giám đốc QLKH khu vực miền T – Khối QL&TCTTS; Bà
Huỳnh Thị Trung P – Chức vụ: Chuyên viên QLKH – Khối QL&TCTTS; Ông
Nguyễn Văn L1 – Chức vụ: Chuyên viên tố tụng - Khối QL&TCTTS và ông
Nguyễn Văn P1 - Chuyên viên tố tụng - Khối QL&TCTTS; Cùng địa chỉ liên hệ: Số
B đường C phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng.
Là những người đại diện theo ủy quyền (Theo Giấy uỷ quyền số 10771/UQ-
PVB ngày 10/6/2020 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Đ1 và Giấy
uỷ quyền số 9277/UQ-PVB ngày 28/4/2023 của Giám đốc Khối Quản lý và T4 cấu
trúc tài sản - P3). Tất cả những người được ủy quyền đều vắng mặt.
3.2. Văn phòng C2; Địa chỉ: Số A đường B; phường B, quận H, thành phố
Đà Nẵng. Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị Hải S – Chức vụ: Trưởng Văn
phòng, Người đại diện theo quy định của pháp luật. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ và bị đơn ông Vũ Văn
B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
3
* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn
là Công ty Cổ phần Đ (đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thị Thanh T, ông Lê Bá
N1, bà Trần Thị Lâm N và ông Bùi Sơn C) trình bày:
Công ty Cổ phần Đ (sau đây viết tắt là “Công ty Đ”) và ông Vũ Văn B đã thỏa thuận
và ký kết các Hợp đồng góp vốn số 1960, 1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017
(sau đây viết tắt là “Hợp đồng”) để cùng hợp tác góp vốn tại Dự án Khu dân cư T
(P4) tại địa chỉ: Khu tái định cư V - N, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng (sau
đây viết tắt là “Dự án”). Theo nội dung các bên thỏa thuận tại Hợp đồng, ông Vũ
Văn B đồng ý góp vốn cùng Công ty Đ để Công ty Đ thực hiện các thủ tục pháp lý
Dự án theo quy định của pháp luật, sau khi ông B hoàn thành việc góp vốn theo quy
định tại Hợp đồng và trên cơ sở Dự án đã đáp ứng đủ các điều kiện pháp lý để
chuyển nhượng các lô đất nền thuộc Dự án, Công ty Đ và ông B sẽ ký kết hợp đồng
chuyển nhượng để giao cho ông B 02 lô đất thuộc Dự án (Lô 41 và 42 khu A, diện
tích 116 m
2
). Trường hợp Công ty Đ vi phạm về thời hạn công chứng thì ông Vũ
Văn B có quyền tiếp tục thực hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng; trong trường hợp
chấm dứt hợp đồng thì Công ty Đ sẽ hoàn trả lại cho ông Vũ Văn B số tiền đã góp
vốn và tiền lãi theo lãi suất vay vốn kinh doanh của một trong các ngân hàng thương
mại trên địa bàn mà dự án đang thực hiện, tiền lãi tính từ thời điểm ông B góp vốn
cho Công ty Đ.
Công ty Đ đã triển khai các thủ tục pháp lý để thực hiện dự án, ông Vũ Văn B đã
thực hiện trách nhiệm góp vốn như sau: Mỗi lô đất đã góp vốn là 678.600.000 đồng;
tổng số tiền đã góp vốn là 1.357.200.000 đồng (Một tỷ ba trăm năm mươi bảy triệu
hai trăm nghìn đồng), tương đương 50% giá trị mỗi hợp đồng.
Tuy nhiên, xuất phát bởi các lý do khách quan trong quá trình thực hiện các
trình tự, thủ tục pháp lý Dự án, trong đó gồm sự thay đổi quy hoạch và các yêu cầu
rà soát, yêu cầu điều chỉnh từ các cơ quan có thẩm quyền; các trở ngại khách quan
từ tình hình dịch bệnh (covid-19) kể từ đầu năm 2020 cho tới nay. Tiếp đó, kể từ
ngày 08/02/2021, Nghị định 148/2020/NĐ-CP sửa đổi Điều 41 của Nghị định số
43/2014/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, trong đó tại khoản 17 Điều 1 quy định như
sau: “Chủ đầu tư dự án xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho
thuê được chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền tại
khu vực không nằm trong địa bàn các phường của các đô thị loại đặc biệt và đô thị
loại I trực thuộc Trung ương ...”. Vì Dự án mà các bên cùng hợp tác góp vốn nằm
trong địa bàn phường (phường H, quận L, TP Đà Nẵng) của đô thị loại I trực thuộc
Trung ương (thành phố Đà Nẵng), dẫn đến không còn được chuyển nhượng quyền
sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền, đây là hoàn cảnh thay đổi cơ bản xảy
ra một cách khách quan khiến Công ty Đ đến nay không thể tiếp tục thực hiện Hợp
đồng theo nội dung, mục đích ban đầu. Trước hoàn cảnh thay đổi cơ bản như nêu
trên, Công ty Đ đã thông báo đến ông Vũ Văn B, đồng thời đã nhiều lần tổ chức gặp
làm việc để đàm phán lại hợp đồng. Công ty Đ đã đưa ra 02 phương án đề xuất điều
chỉnh hợp đồng với mong muốn các bên tiếp tục hợp tác trên cơ sở hài hòa lợi ích,
phù hợp các quy định của pháp luật hoặc thanh lý chấm dứt thực hiện hợp đồng trên
4
tinh thần nỗ lực tối đa chia sẻ để ông B lựa chọn. Tuy nhiên, sau rất nhiều nỗ lực
đến nay giữa Công ty Đ và ông B vẫn không thể tự thỏa thuận giải quyết được.
Căn cứ quy định tại Điều 6 của Hợp đồng, Điều 420 Bộ luật tố tụng Dân sự
năm 2015 và các quy định của pháp luật có liên quan, Công ty Đ khởi kiện yêu cầu
Tòa án tuyên chấm dứt các Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1960/HĐGV-
PGT-PC ngày 20/12/2017; Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-
PGT-PC ngày 20/12/2017 kể từ ngày 08/02/2021.
Sau khi khởi kiện tại Tòa án, ngày 20/5/2022, UBND thành phố Đ ra Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính số: 1369/QĐ-XLHC đối với Công ty Đ do hành vi
vi phạm hành chính về việc huy động vốn không đúng quy định trong hoạt động
kinh doanh bất động sản tại Dự án Khu dân cư T, quận L, thành phố Đà Nẵng (điểm
d khoản 4 Điều 58 Nghị định số 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022). Sau khi nhận
được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 1369/QĐ-XLHC, Công ty Đ nhận
thấy việc ký kết Hợp đồng giữa Công ty Đ và ông B đã vi phạm điều cấm của pháp
luật theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự; khoản 5 Điều 8, Điều 31 và Điều 32
Luật Kinh doanh bất động sản; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 19 Nghị định
99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ.
Do đó, ngày 31.3.2023, Công ty Đ có đơn yêu cầu thay đổi yêu cầu khởi kiện,
đề nghị Tòa án căn cứ quy định tại Điều 117, Điều 122, Điều 123, khoản 2 Điều 131
Bộ luật dân sự, các quy định của pháp luật có liên quan và Quyết định số: 1369/QĐ-
XLHC ngày 20/5/2022 của UBND thành phố Đ tuyên bố Hợp đồng góp vốn dự án
khu đô thị T số: 1960/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017; Hợp đồng góp vốn dự án
khu đô thị T số: 1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017 được ký kết giữa Công ty
Đ và ông Vũ Văn B vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật. Về lỗi của các bên dẫn
đến việc hợp đồng vô hiệu thì ông Vũ Văn B cũng có một phần lỗi vì đã được Công
ty Đ thông tin cũng như cung cấp đầy đủ các giấy tờ pháp lý liên quan đến dự án,
hiểu rõ hiện trạng pháp lý của dự án, hiểu rõ Công ty Đ chưa đủ điều kiện pháp lý để
nhận góp vốn để thực hiện dự án. Do đó, Công ty Đ đề nghị xem xét mức độ lỗi dẫn
đến hợp đồng vô hiệu phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.
Đối với yêu cầu phản tố của ông Vũ Văn B thì Công ty Đ có ý kiến như sau:
Do hợp đồng góp vốn ký kết giữa hai bên là vô hiệu nên việc ông B yêu cầu tiếp tục
thực hiện hợp đồng góp vốn là trái với các quy định của pháp luật. Đồng thời việc
ông B yêu cầu Công ty Đ tháo dỡ công trình xây dựng trên đất cũng không có cơ sở
bởi các hạng mục xây dựng trên Dự án thuộc trường hợp được miễn giấy phép xây
dựng theo như quy định tại điểm h khoản 2 Điều 89 Luật xây dựng năm 2014, sửa
đổi bổ sung tại khoản 30 Điều 1 Luật xây dựng năm 2020. Đối với việc ông B yêu
cầu được liên hệ với UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng, Sở Tài
nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L và các cơ quan liên quan để thực
hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất là không phù hợp với quy định tại khoản 11 Điều 1 Nghị định
10/2023/NĐ-CP ngày 03.4.2023 của Chính Phủ vì đây là nghĩa vụ của chủ đầu tư;
thủ tục cho phép cá nhân, tổ chức khác tự liên hệ cơ quan có thẩm quyền là không
5
có quy định và không có căn cứ để thực hiện. Đối với việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN ngày
17/5/2019 là không có căn cứ vì thời điểm thế chấp Công ty Đ đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, đất không có tranh chấp, không bị kê biên để đảm
bảo thi hành án và vẫn còn thời hạn sử dụng đất, hợp đồng thế chấp đã được công
chứng và phù hợp với khoản 1 Điều 167, khoản 1 Điều 188 Luật đất đai,
Trước đây, Công ty Đ có đưa ra phương án hòa giải tại tòa án, trong đó có
phương án xác định tổng số tiền Công ty hoàn lại cho ông B nếu chấm dứt hợp đồng
là 1.566.000.000 đồng/01 lô, tổng cộng 02 lô là 3.132.000.000 đồng (số tiền đã góp
vốn là 1.357.200.000 đồng và số tiền công ty hỗ trợ thêm để chấm dứt hợp đồng là
1.774.800.000 đồng). Tuy nhiên, ông Vũ Văn B không đồng ý với phương án nêu
trên nên Công ty không chấp nhận hỗ trợ theo số tiền này nữa mà đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật theo hướng đề nghị tuyên bố vô hiệu hợp
đồng góp vốn đã ký kết với ông B và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
Công ty Cổ phần Đ trả lại số tiền đã góp vốn là 1.357.200.000 đồng. Đồng thời, đề
nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Vũ Văn B là bà Phạm
Thị T3 - Luật sư Công ty L3 trình bày tranh luận;
Tại Điều 3.2, Điều 3.3 các Hợp đồng góp vốn số 1960, 1961/HĐGV-PGT-PC
ngày 20/12/2017 nêu rõ: “Trong thời hạn 05 tháng kể từ ngày ký hợp đồng góp vốn
hai bên sẽ tiến hành công chứng hợp đồng chuyển nhượng” và “Bên A cam kết
trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày hai bên công chứng hợp đồng chuyển
nhượng Bên A sẽ giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Bên B”. Như
vậy, đến ngày 20/5/2018, Công ty Đ đã phải hoàn thành nghĩa vụ ký công chứng
hợp đồng chuyển nhượng và hạn cuối đến ngày 19/6/2018 ông Vũ Văn B đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng lô đất theo cam kết của Công ty Đ. Tuy nhiên,
từ khi ký kết Hợp đồng góp vốn đến nay, Công ty Đ vẫn chưa hoàn thiện pháp lý để
ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng cho ông Vũ Văn B
và các khách hàng mua đất khác tại dự án trong khi ông Vũ Văn B đã hoàn thành
nghĩa vụ đóng tiền theo đúng tiến độ quy định tại Hợp đồng.
Do vậy, trước hết cần khẳng định Công ty Đ là bên đã vi phạm nghiêm trọng
hợp đồng, không tuân thủ các cam kết đã được hai bên thống nhất và chính sự vi
phạm này của Công ty Đ là nguyên nhân khiến cho Dự án bị ảnh hưởng bởi Nghị
định 148/2020/NĐ-CP.
Chính sách pháp luật mới tại Nghị định 148/2020/NĐ-CP là sự thay đổi hoàn
cảnh cơ bản và Công ty Đ có nghĩa vụ sửa đổi thoả thuận để cân bằng quyền và lợi
ích của các bên. So với quy định trước đây tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì Nghị
định 148/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 08/02/2012 đã bổ sung thêm trường hợp
chủ đầu tư không được phép phân lô bán nền tại các phường của đô thị loại I trực
thuộc Trung ương. Dự án KDC T thuộc trường hợp này nên không được phân lô bán
nền như Thoả thuận ông Vũ Văn B đã ký kết và Công ty Đ. Tuy nhiên, việc Công ty
6
Đ lợi dụng sự thay đổi này yêu cầu chấm dứt thoả thuận với ông Vũ Văn B hoặc yêu
cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không có cơ sở, bởi:
Thứ nhất, Nghị định 148/2020/NĐ-CP mới có hiệu lực từ ngày 08/02/2021
trong đó tại khoản 4 Điều 4 Nghị định này cũng có điều khoản chuyển tiếp quy định
rằng nếu các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp
cho thuê tại các phường của đô thị loại I trực thuộc trung ương đã được Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh có văn bản theo quy định của pháp luật cho phép được chuyển nhượng
quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền trước ngày nghị định này có hiệu
lực thi hành thì được tiếp tục thực hiện. Theo đó, Dự án K vẫn sẽ được phân lô bán
nền khi đã được UBND thành phố Đ có văn bản cho phép được phân lô bán nền
trước ngày 08/02/2021. Do đó, nếu Công ty Đ tuân thủ đúng Hợp đồng, đã hoàn
thiện các hồ sơ pháp lý Dự án để đủ điều kiện ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông Vũ Văn B, ra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vũ Văn
B theo đúng thời hạn đã thỏa thuận thì các bên đã không phải bị ảnh hưởng bởi Nghị
định 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính P2.
Thứ hai, theo khoản 2 Điều 420 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Trong
trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu
bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý”.
Sau khi Nghị định 148/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, ông Vũ Văn B cũng
đã chấp nhận việc sẽ xây dựng nhà trên đất và nhận chuyển nhượng đồng thời nhà
và đất. Tuy nhiên, Công ty Đ đã thiếu thiện chí, đưa ra nhiều phương án bất lợi cho
ông Vũ Văn B, cụ thể:
Phương án 1: Tiếp tục thực hiện hợp đồng
Nếu ông Vũ Văn B lựa chọn tiếp tục thực hiện hợp đồng thì hợp đồng góp
vốn sẽ được thanh lý, các bên sẽ ký kết hợp đồng đặt mua, khi đó ông Vũ Văn B sẽ
phải thanh toán bổ sung với giá chuyển nhượng được xác định là: Giá trị quyền sử
dụng đất được nhân đôi + chi phí xây dựng nhà.
Phương án này bất cân bằng quyền lợi giữa hai bên, bởi lẽ giá trị quyền sử
dụng đất đã được các bên thoả thuận cố định trong thoả thuận đã ký; nay Công ty Đ
nâng giá đất lên gấp đôi và buộc ông Vũ Văn B phải đóng bổ sung phần giá trị
quyền sử dụng đất tăng thêm là không đúng thỏa thuận.
Phương án 2: Chấm dứt Hợp đồng
Nếu ông Vũ Văn B chấm dứt Hợp đồng thì Công ty Đ sẽ hoàn trả lại tiền cho
ông Vũ Văn B. Việc hoàn trả được thực hiện thành nhiều đợt trong thời gian dài.
Phương án này cũng không đảm bảo quyền lợi của những người mua đất bởi
giá trị quyền sử dụng đất đã tăng nhiều lần so với thời điểm ký kết Hợp đồng. Nếu
thực hiện theo phương án 2 thì Công ty Đ sẽ được hưởng lợi lớn từ khoản tiền chênh
lệnh giá trị quyền sử dụng đất giữa thời điểm ký kết Thoả thuận góp vốn với thời
điểm bây giờ. Trong khi đó, khách hàng như ông Vũ Văn B sẽ chịu nhiều thiệt thòi,
thiệt hại như: Tiền đã đầu tư vào dự án lâu nay nhưng không mang lại lợi ích gì mà
còn sụt giảm giá trị do đồng tiền bị trượt giá; thiệt hại về tiền lãi; mất cơ hội đầu tư,
7
đặc biệt là cơ hội được sử dụng đất. Mặt khác, Công ty Đ hoàn trả tiền thành nhiều
lần là quá nhiều rủi ro cho ông Vũ Văn B.
Như vậy, cả hai phương án mà Công ty Đ đưa ra đều bất cân đối không bảo
đảm quyền lợi cho ông Vũ Văn B.
Thứ ba, ông Vũ Văn B có quyền yêu cầu Tòa án sửa đổi Hợp đồng để cân
bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định tại khoản 3 Điều 420 Bộ
Luật Dân sự 2015.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ việc, ông Vũ Văn B được biết Công ty
Đ đã ký kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 111/2019/HĐMB-PVB-
CNĐN ngày17/5/2019 được công chứng tại Văn phòng C2, số công chứng 7316,
quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD. Theo đó, Công ty Đ đã thế chấp toàn bộ diện tích
đất 17.598 m
2
, thửa số 38, tờ bản đồ số 20, Lô B, khu tái định cư vệt biệt thự X - N,
phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CO 161090, số vào sổ cấp
GCN: CT50231 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp ngày 20/9/2018.
Trong diện tích đất Công ty Đ thế chấp ngân hàng có diện tích đất mà Công ty Đ đã
bán cho ông B theo 01 Hợp đồng góp vốn số 0153/HĐGV-PGT-PC ngày
11/01/2019 được ký kết giữa ông B và Công ty Đ.
Việc Công ty Đ đã nhận tiền mua bán đất của những người mua đất như ông
Vũ Văn B, có người thanh toán đến 90% giá trị quyền sử dụng đất, thế nhưng vẫn
đem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi thế chấp ngân hàng là vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ trong thoả thuận của ông Vũ Văn B.
Đồng thời Ngân hàng Đ1 cũng vi phạm nghiêm trọng trong quá trình xét
duyệt khoản vay của Công ty Đ khi không kiểm tra, xét duyệt khoản vay kỹ lưỡng.
Việc ký kết hợp đồng và bàn giao đất của Công ty Đ diễn ra công khai, rầm rộ, tranh
chấp giữa những người mua đất và Công ty Đ diễn ra thường xuyên, báo chí, truyền
thông đăng tin, thế nhưng việc Ngân hàng này vẫn tiến hành cho vay là một điều bất
thường và vi phạm pháp luật.
Vì vậy, ông Vũ Văn B đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công
ty Đ và có yêu cầu phản tố, đề nghị:
1. Buộc Công ty Cổ phần Đ tiếp tục thực hiện Thỏa thuận tại Hợp đồng góp
vốn dự án khu đô thị T-PGT-PC ngày 20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu
đô thị T số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ
phần Đ và ông Vũ Văn B theo hướng:
- Sửa đổi các Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T và 1961/HĐGV-PGT-PC
ngày 20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần kinh doanh nhà Phú Gia T5 và
ông Vũ Văn B để cân bằng quyền và lợi ích của hai bên do hoàn cảnh thay đổi cơ
bản với các yêu cầu sửa đổi như sau:
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ phải tiến hành tháo dỡ toàn bộ công trình xây
dựng hiện có trên lô đất số 41 và 42 - khu A2 dự án KDC T
8
+ Ông Vũ Văn B được quyền xây dựng và chịu chi phí xây dựng nhà trên lô
đất số 41 và 42 - khu A dự án KDC T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng theo
thiết kế đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn thiện các điều kiện pháp lý để lô đất số
41 và 42 - khu A2 dự án KDC T và công trình trên đất đủ điều kiện chuyển nhượng
cho ông B theo quy định của pháp luật với giá trị quyền sử dụng đất giữ nguyên
trong Thỏa thuận góp vốn đã ký kết.
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ liên hệ UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành
phố Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L và các cơ
quan liên quan lập các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Vũ Văn B đối với nhà và đất tại
lô đất số 41 và 42 - khu A2 dự án KDC T.
- Các điều khoản không sửa đổi tại các Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T
và 1961/ HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và
ông Vũ Văn B đã có hiệu lực pháp luật tiếp tục được thực hiện.
2. Ông Vũ Văn B được quyền chủ động liên hệ với UBND thành phố Đ, Sở
Xây dựng thành phố Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND
quận L và các cơ quan liên quan để thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với nhà và đất tại lô đất
số 41 và 42 khu A2 dự án KDC T sau khi trả phần giá trị đất còn lại theo Thỏa thuận
tại Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T và 1961/ HĐGV-PGT-PC ngày
20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Văn B
3. Tuyên Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 111/2019/HĐMB-PVB-
CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng TMCP Đ1, chi nhánh Đ2 và Công ty Cổ
phần Đ được công chứng tại Văn phòng C2, công chứng số 7316, quyển số 01
TP/CC-SCC/HĐGD liên quan dến diện tích đất tại KDC T – thửa đất số 38, tờ bản
đồ số 20, địa chỉ Lô B Khu tái định cư V - N, phường H, quận L, TP Đà Nẵng là vô
hiệu.
* Bị đơn ông Vũ Văn B: quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn và
đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Lê Q1 trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của bà Phạm Thị T3 - Luật sư Công ty L3 và
không có ý kiến bổ sung gì thêm.
* Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ngân hàng TMCP Đ1 vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nhưng
nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thị
Kim X, bà Huỳnh Thị Trung P trình bày:
Công ty Đ đã thực hiện việc vay vốn tại Ngân hàng TMCP Đ1 (Sau đây gọi là
P3) theo các Hợp đồng tín dụng được ký kết giữa hai bên. Theo đó, đến nay tổng
nghĩa vụ nợ của Công ty Đ còn phải thanh toán cho P3 tạm tính đến ngày
28/02/2023 là: 376.135.641.393 đồng.
Để đảm bảo cho toàn bộ các nghĩa vụ tài chính, Công ty Đ đã sử dụng các tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình để thế chấp cho P3; trong đó, bao gồm tài sản bảo
9
đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại đất số 38, tờ bản đồ số 20,
diện tích 17.598 m
2
tại địa chỉ Lô B Khu tái định cư V - N, phường H, quận L, TP
Đà Nẵng (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CO 161090 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp
ngày 20/09/2018 cho Công ty Cổ phần Đ) theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất số 111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN ngày 17/5/2019. Hợp đồng thế chấp được
công chứng và đăng ký thế chấp theo đúng quy định của pháp luật.
Sau khi thế chấp tài sản tại P3, Công ty Đ tiếp tục thực hiện việc quản lý và
sử dụng đối với tài sản bảo đảm nêu trên, P3 chỉ quản lý hồ sơ gốc giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CO
161090. Trường hợp Công ty Đ tất toán toàn bộ các nghĩa vụ tài chính, P3 sẽ thực
hiện việc giải chấp tài sản bảo đảm theo quy định.
Đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết các vụ án theo đúng quy định của pháp
luật.
- Văn phòng C2 – đại diện là bà Nguyễn Thị Hải S (Trưởng văn phòng) vắng
mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nhưng tại Công văn số 128/VPCCNHS ngày
24.4.2024 trình bày:
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN ngày
17/5/2019 giữa Ngân hàng TMCP Đ1, Chi nhánh Đ2 và Công ty Cổ phần Đ được
công chứng tại Văn phòng C2, công chứng số 7316, quyển số 01 TP/CC-
SCC/HĐGD liên quan dến diện tích đất tại KDC T – thửa đất số 38, tờ bản đồ số 20,
địa chỉ Lô B Khu tái định cư V - N, phường H, quận L, TP Đà Nẵng. Tại thời điểm
công chứng, Văn phòng C2 không nhận được bất kỳ văn bản tranh chấp, phong tỏa
tài sản nào; hồ sơ công chứng đầy đủ thủ tục theo quy định; các bên giao dịch có
năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp luật dân sự theo quy định, tự nguyện giao
kết hợp đồng, không bị đe dọa, lừa dối; không bị ép buộc. Ông Lê Anh T1, người
đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Đ tự nguyện yêu cầu công chứng và
ghi rõ trong hợp đồng “đã đọc và đồng ý”. Như vậy, Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất số 7316 đã được công chứng theo đúng quy định của pháp luật.
Từ những cơ sở nêu trên, Văn phòng C2 đề nghị Tòa án nhân dân quận Liên
Chiểu bác yêu cầu phản tố của ông Vũ Văn B về yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu
đối với Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 7316 do Văn phòng C2 chứng
nhận ngày 17/5/2019.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu:
Về nội dung vụ án, đề nghị:
+ Xét Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T, 1961/HĐGV-PGT-PC ngày
20/12/2017 thể hiện chủ trương của Công ty Đ nhằm huy động vốn, các bên thỏa
thuận ngay sau khi ký kết hợp đồng, ông B có nghĩa vụ nộp số tiền tương ứng 50%
giá trị lô đất. Sau đó, trong thời hạn 05 tháng kể từ ngày ký thỏa thuận góp vốn hai
bên sẽ tiến hành công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bàn
giao đất; trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày hai bên công chứng hợp đồng
10
chuyển nhượng, Công ty Đ sẽ giao cho ông B giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên bên ông B.
Căn cứ, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1369/QĐ-XPHC ngày
20/5/2022 của UBND thành phố Đ và Công văn số: 9979/SXD-TTS ngày
28/12/2022 của Sở X thì Công ty Đ đã thực hiện huy động vốn từ các cá nhân/tổ
chức thông qua ký kết “Hợp đồng góp vốn” và “Thỏa thuận góp vốn” tại dự án Khu
dân cư T khi chưa có thông báo đủ điều kiện được huy động vốn của Sở xây dựng là
không đúng quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định 99/2015/NĐ-CP ngày
20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật nhà ở. Căn cứ Điều 117, 122, 123 BLDS thì hợp đồng được ký kết giữa các
bên vô hiệu.
Đối với việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu: Công ty Đ là bên phải
biết rõ nhưng vẫn thực hiện chủ trương huy động vốn. Đồng thời, hợp đồng là do
phía Công ty P5 để mời gọi ông B tham gia góp vốn, các căn cứ pháp lý cũng như
các nội dung thỏa thuận trong hợp đồng không chi tiết, cụ thể khiến ông B không
thể biết rõ. Do đó, nguyên nhân dẫn đến các hợp đồng góp vốn được ký kết giữa
Công ty Đ và ông B vô hiệu là do lỗi của Công ty Đ. Việc giải quyết hậu quả pháp
lý của hợp đồng dân sự vô hiệu được thực hiện theo Điều 131 và Điều 407 Bộ luật
Dân sự. Theo đó, Công ty Đ phải trả cho ông Vũ Văn B số tiền đã góp vốn đối với
02 lô đất là 1.357.200.000 đồng (678.600.000 đồng/01 lô) và bồi thường thiệt hại
theo mức lãi suất vay vốn kinh doanh của một trong các ngân hàng thương mại đóng
trên địa bàn mà dự án đang thực hiện, tiền lãi được tính từ thời điểm ông Vũ Văn B
góp vốn cho Công ty Đ theo như quy định tại tại khoản 7.2 Điều 7 Hợp đồng góp
vốn số 1960, 1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017 giữa Công ty cổ phần Đ và
ông Vũ Văn B.
Do đó, đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Đ, tuyên
Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T, 1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017 vô
hiệu và Công ty Đ hoàn trả cho ông Vũ Văn B số tiền là 1.357.200.000 đồng và bồi
thường thiệt hại cho ông Vũ Văn B như trên.
+ Đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn là ông Vũ
Văn B.
- Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng các bên phải chịu theo quy định
của pháp luật.
* Với nội dung vụ án như trên, Bản án dân sự sơ thẩm số: 37/2024/DS-ST
ngày 04 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng quyết định:
Căn cứ vào:
- Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 244, Điều 271, Điều
273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điều 122, Điều 123; Điều 131; Điều 407; Điều 500; Điều 501 Bộ luật Dân
sự năm 2015;
11
- Khoản 4 Điều 12; Khoản 2 Điều 168; Điều 188, Điều 194 Luật Đất Đai năm
2013;
- Căn cứ Điều 8, Điều 29, Điều 31, Điều 32 Luật Kinh doanh bất động sản
năm 2014;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 và khoản 3 Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
I. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đ về việc
“Yêu cầu tuyên bố hợp đồng góp vốn vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô
hiệu”:
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T-PGT-PC ngày
20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày
20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Văn B.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả số tiền là 1.357.200.000 đồng và bồi
thường thiệt hại số tiền là 1.040.247.320 đồng; tổng cộng là 2.397.447.320 đồng
(Hai tỷ ba trăm chín mươi bảy triệu bốn trăm bốn mươi bảy ngàn ba trăm hai mươi
đồng) cho ông Vũ Văn B, trong đó:
+ Đối với lô đất số 41 - khu A2: Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả số tiền là
678.600.000 đồng và bồi thường thiệt hại số tiền là 520.123.660 đồng; tổng cộng là
1.198.723.660 đồng.
+ Đối với lô đất số 42 - khu A2: Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả số tiền là
678,600,000 đồng và bồi thường thiệt hại số tiền là 520.123.660 đồng; tổng cộng là
1.198.723.660 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải
thi hành án không thi hành thì phải chịu khoản tiền lãi tương ứng với số tiền và thời
gian chậm thi hành theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với
quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm
2015.
II. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Vũ Văn B về việc “Yêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng góp vốn và yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất vô hiệu”:
1. Không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc buộc Công ty Cổ phần Đ tiếp tục
thực hiện Thỏa thuận tại Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T-PGT-PC ngày
20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày
20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Văn B theo hướng:
- Sửa đổi Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T-PGT-PC ngày 20/12/2017 và
Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017
được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ Kinh doanh nhà Phú Gia T5 và ông Vũ Văn B
để cân bằng quyền và lợi ích của hai bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản với các yêu
cầu sửa đổi như sau:
12
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ phải tiến hành tháo dỡ toàn bộ công trình xây
dựng hiện có trên lô đất số 41,42 - khu A2 dự án KDC T.
+ Ông Vũ Văn B được quyền xây dựng và chịu chi phí xây dựng nhà trên lô
đất số 41, 42 - khu A dự án KDC T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng theo
thiết kế đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn thiện các điều kiện pháp lý để lô đất số
41, 42 - khu A2 dự án KDC T và công trình trên đất đủ điều kiện chuyển nhượng
cho ông B theo quy định của pháp luật với giá trị quyền sử dụng đất giữ nguyên
trong Thỏa thuận góp vốn đã ký kết.
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ liên hệ UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành
phố Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L và các cơ
quan liên quan lập các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Vũ Văn B đối với nhà và đất tại
lô đất số 41, 42 - khu A2 dự án KDC T
- Các điều khoản không sửa đổi tại Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T-
PGT-PC ngày 20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-
PGT-PC ngày 20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Văn B đã
có hiệu lực pháp luật tiếp tục được thực hiện.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc ông Vũ Văn B được quyền chủ
động liên hệ với UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng, Sở Tài
nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L và các cơ quan liên quan để thực
hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất đối với nhà và đất tại lô đất số 41, 42 - khu A1 dự án KDC T sau khi
trả phần giá trị đất còn lại theo Thỏa thuận tại Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị
T-PGT-PC ngày 20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số
1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông
Vũ Văn B.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc tuyên Hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất số 111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng
TMCP Đ1, chi nhánh Đ2 và Công ty Cổ phần Đ được công chứng tại Văn phòng
C2, công chứng số 7316, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD liên quan đến diện tích
đất tại KDC T – thửa đất số 38, tờ bản đồ số 20, địa chỉ Lô B Khu tái định cư V - N,
phường H, quận L, TP Đà Nẵng là vô hiệu.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và chi phí tố tụng, thi
hành án dân sự và quyền kháng cáo của đương sự.
* Ngày 10 tháng 7 năm 2024, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố
Đà Nẵng nhận được Đơn kháng cáo của nguyên đơn Công ty Đ kháng cáo một phần
bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần Bản án sơ thẩm đối với
số tiền Công ty Đ phải bồi thường cho ông Vũ Văn B đề nghị xác định lại lỗi của
các bên dẫn đến hợp đồng góp vốn bị vô hiệu là 50/50 để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của các bên phù hợp với mức độ lỗi thực tế.
13
* Ngày 19 tháng 7 năm 2024, Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố
Đà Nẵng nhận được Đơn kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn B kháng cáo toàn bộ
Bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Đ; Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố
của bị đơn.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện theo ủy quyền của bị đơn Công ty Đ giữ nguyên nội dung kháng
cáo.
- Đại diện theo ủy quyền bị đơn ông Vũ Văn B thay đổi nội dung kháng cáo,
cụ thể bị đơn không đề nghị sửa Bản án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn Công ty Đ, chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn
mà đề nghị HĐXX hủy Bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
quận Liên Chiểu giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm do có vi phạm về thủ tục
tố tụng gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Vũ Văn B, cụ thể:
+ Tòa án cấp sơ thẩm đã không thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến phần
xây dựng hiện có trên Khu dân sự Thanh Hoàng do Công ty Đ xây dựng và bị
UBND quận L xử phạt hành chính theo Quyết định xử phạt hành chính số:
3612/QĐ-XPHC ngày 04/12/2023. Hồ sơ vụ án không có tài liệu này dẫn đến có sai
sót khi đánh giá tính pháp lý của Dự án Khu dân cư Thanh Hoàng.
+ Tòa án cấp sơ thẩm không đánh giá tính hợp pháp của Quyết định xử phạt
hành chính số: 1369/QĐ-XPHC ngày 20/5/2022 của U trước khi làm căn cứ giải
quyết vụ án, dẫn đến không nhận định, đánh giá tính pháp lý của Khu dân cư T một
cách khách quan, đầy đủ, đồng thời căn cứ vào tài liệu chứng cứ không hợp pháp
gây ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án.
+ Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm trong thủ tục định giá tài sản. Nguyên đơn
và bị đơn tranh chấp về hợp đồng góp vốn, không tranh chấp về tài sản là quyền sử
dụng đất, nên việc cấp sơ thẩm thực hiện việc định giá quyền sử dụng đất là vi phạm
thủ tục tố thụng theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại cấp
phúc thẩm đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá
trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm.
Về nội dung vụ án: Hợp đồng góp vốn giữa ông B và Công ty Đ là hợp đồng
giả tạo nhằm che giấu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty Đ
và ông B. Do đó, hợp đồng góp vốn là hợp đồng vô hiệu.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty Đ và ông B có
hợp đồng được giao kết khi chủ đầu tư chưa được UBND thành phố Đ cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; chưa có quyết định chấp thuận đầu tư của UBND
thành phố Đ, chưa có có sở hạ tầng là chưa đủ điều kiện chuyển nhượng. Tuy nhiên,
14
ngày 04/02/2021, UBND thành phố Đ ban hành Quyết định số 380/QĐ-UBND về
việc chấp nhận nhà đầu tư Công ty Đ thực hiện dự án đầu tư K; ngày 18/12/2021,
UBND quận L ban hành Quyết định số 6481/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều
chỉnh bổ sung quy hoạch chi tiết TL 1/500 thiết kế đô thị K; ngày 31/12/2021 Sở
Xây dựng thành phố Đ đã ban hành Công văn số 10179/SXD- CPXD về việc thông
báo kết quả thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hạng mục nhà
liền kề thuộc dự án K; ngày 13/10/2022, Cục Thuế thành phố Đ đã ban hành Thông
báo số 3883/TB-CTDAN về việc nộp tiền sử dụng đất do chuyển mục đích sử dụng
đất của dự án KDC T. Dự án KDC T đã đủ điều kiện chuyển nhượng nên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty Đ và ông B có hiệu lực pháp luật và
được thực hiện trên cơ sở Nghị định 148 (không phân lô bán nền mà xây nhà ở để
bán, những phát sinh về chi phí xây dựng được giải quyết theo quy định pháp luật).
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định các Hợp đồng nêu trên là hợp đồng góp vốn và
căn cứ vào Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1369 ngày 20/5/2022 của
UBND thành phố Đ xử phạt Công ty Đ về hành vi huy động vốn không đúng quy
định. Công ty Đ chưa thực hiện nộp thuế chuyển đổi mục đích sử dụng. Cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phải có biện pháp để thu thuế của Công ty Đ. Sở Xây dựng
chưa ra thông báo đủ điều kiện huy động vốn do Công ty Đ chưa hoàn thành cơ sở
hạ tầng theo quy định tại Nghị định 148. Công ty Đ phải có trách nhiệm hoàn thiện
dự án để thực hiện việc chuyển nhượng cho các cá nhân đã ký hợp đồng. Do đó,
Bản án sơ thẩm tuyên vô hiệu hợp đồng giữa ông B và Phú Gia T5 vô hiệu là không
chính xác, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
- Xét hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN
ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng Đ1 và Công ty Đ:
Tại thời điểm thế chấp, quyền sử dụng đất thửa số 38 tờ bản đồ 20 chưa có
tranh chấp, chưa bị kê biên. Hợp đồng thế chấp thể hiện, Công ty Đ thế chấp để đảm
bảo khoản vay 150.000.000.000 đồng. Hồ sơ không có hợp đồng vay nên không xác
định được mục đích vay của 150.000.000.000 đồng, quá trình giải ngân như thế nào.
Tại thời điểm thế chấp, Công ty Đ đã ký hợp đồng góp vốn (hợp đồng chuyển
nhượng) đối với 100 lô đất thuộc dự án KDC T. Việc Công ty Đ thế chấp quyền sử
dụng đất Khu dân cư T là ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người
đã ký hợp đồng với Công ty Đ. Hồ sơ không có đầy đủ các tài liệu để thực hiện việc
vay vốn, quá trình giải ngân như thế nào nên không đủ căn cứ để xác định hiệu lực
của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa Ngân hàng Đ1 và Công ty Đ. Tòa án
cấp sơ thẩm không thu thập đầy đủ tài liệu về việc thế chấp quyền sử dụng đất dự án
KDC T của Công ty Đ mà công nhận hiệu lực Hợp đồng thế chấp là chưa khách
quan và toàn diện.
Nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ, kết luận trong
bản án không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án dẫn đến chấp nhận yêu cầu
15
khởi kiện của nguyên đơn Công ty Đ, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn
Vũ Văn B, tuyên hợp đồng vô hiệu là gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của bị đơn. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 308 BLTTDS, đề nghị Hội đồng xét xử hủy
Bản án dân sự sơ thẩm số: 37/2024/DS- ST ngày 04/7/2024 của Tòa án nhân dân
quận Liên Chiểu, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử sơ
thẩm lại theo quy định của pháp luật. Do hủy án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại nên
không xét đến các kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng.
[1.1] Về thời hạn, nội dung kháng cáo của các đương sự: Nguyên đơn Công ty
Cổ phần Đ Kinh doanh nhà Phú Gia T5 có đơn kháng cáo vào ngày 10 tháng 7 năm
2024 và bị đơn ông Vũ Văn B có đơn kháng cáo vào ngày 19 tháng 7 năm 2024 đối
với Bản án sơ thẩm số: 37/2024/DS-ST ngày 04 tháng 7 năm 2024. Về thời hạn và
nội dung kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn đúng theo quy định tại các Điều 271,
272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự và đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy
định tại Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được thụ lý giải quyết theo trình tự
phúc thẩm.
[1.2] Về việc vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Ngân hàng TMCP Đ1, Văn phòng C2 đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ quy định tại khoản
3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự, HĐXX tiếp tục tiến hành phiên tòa, xét xử vắng
mặt đối với các đương sư trên.
[1.3] Về yêu cầu nhập vụ án dân sự và đề nghị bổ sung người tham gia tố tụng
của bị đơn ông Vũ Văn B: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm,
ngày 10/12/2024 Tòa án nhận được Đơn yêu cầu nhập vụ án dân sự và Đơn đề nghị
bổ sung người tham gia tố tụng của ông Vũ Văn B cùng ghi ngày 02/12/2024, theo
đó ông B yêu cầu nhập những vụ án cùng có quan hệ tranh chấp yêu cầu tuyên bố vô
hiệu hợp đồng góp vốn và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu; yêu cầu sửa đổi và
tiếp tục thực hiện hợp đồng góp vốn; yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất vô hiệu cùng có nguyên đơn là Công ty Đ, đối tượng tranh chấp là các lô
đất trong Khu dân cư T, quận L để giải quyết trong cùng vụ án; Và đưa Chủ tịch
UBND quận L, thành phố Đà Nẵng và Chủ tịch UBND thành phố Đ vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Xét, theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng Dân sự về phạm vi xét xử
phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc
xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Các vụ án có cùng quan hệ tranh chấp và
nguyên đơn là Công ty Đ với nhiều bị đơn khác nhau đã được Tòa án cấp sơ thẩm
thụ lý giải quyết riêng lẻ từng vụ án và đã tuyên bản án sơ thẩm đối với từng vụ án
khác nhau. Tòa án phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết định
16
của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo. Do đó yêu cầu của ông B về việc nhập nhiều
vụ án đã được giải quyết bằng nhiều bản án sơ thẩm khác nhau vào để giải quyết
trong cùng vụ án phúc thẩm là không có cơ sở chấp nhận.
Về việc đề nghị đưa UBND thành phố Đ và UBND quận L, thành phố Đà
Nẵng vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong
vụ án: Xét, việc giải quyết yêu cầu của nguyên đơn tuyên bố vô hiệu hợp đồng góp
vốn và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu;Phản tố của bị đơn yêu cầu sửa đổi và
tiếp tục thực hiện hợp đồng góp vốn; yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất vô hiệu trong vụ án không liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của UBND
quận L và UBND thành phố Đ. Do đó, yêu cầu của ông B là không có cơ sở theo
quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét đồng thời kháng cáo của nguyên đơn Công ty Cổ phần Đ và bị đơn
ông Vũ Văn B.
[2.1] Về hiệu lực của hợp đồng hai bên đã ký kết. Công ty Đ và ông Vũ Văn
B đã ký kết 02 Hợp đồng góp vốn số 1960/HĐGV-PGT-PC và số 1961/HĐGV-
PGT-PC cùng ngày 20/12/2017. Theo Hợp đồng, ông B góp vốn với Công ty Đ để
Công ty Đ thực hiện các thủ tục pháp lý theo quy định của pháp luật, sau khi ông B
hoàn thành việc góp vốn theo tiến độ quy định tại Hợp đồng thì Công ty Đ sẽ giao
cho ông 02 lô đất thuộc Dự án Khu đô thị T tại vệt biệt thự X - N, phường H, quận
L, thành phố Đà Nẵng với vị trí, diện tích: vị trí: Lô 41 và 42 - khu A, diện tích: 116
m
2
. Theo Hợp đồng xác định giá trị góp vốn của mỗi lô đất là 1.357.200.000 đồng.
Số tiền ông B phải góp vốn cho Công ty Đ khi ký thỏa thuận góp vốn là
678.600.000 đồng (tương đương 50% giá trị theo hợp đồng). Ông B đã thực hiện
góp vốn đúng tiến độ quy định tại Hợp đồng theo các Phiếu thu “thu tiền cọc” và
“thu tiền góp vốn” đối với Lô 41 và 42 khu A2, tổng cộng số tiền là 1.357.200.000
đồng/02 lô. Hợp đồng nêu trên giữa hai bên là việc huy động vốn của Công ty Đ
trong hoạt động kinh doanh bất động sản thông qua hợp đồng góp vốn theo quy định
của Luật kinh doanh bất động sản. Do đó, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Đà Nẵng cho rằng Hợp đồng góp vốn của hai bên là hợp đồng giả tạo
nhằm che giấu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Công ty Đ và ông
B là không có cơ sở.
[2.2] Xét, các tài liệu, chứng cứ do UBND thành phố Đ, UBND quận L, thành
phố Đà Nẵng, Sở Xây dựng thành phố Đ và các bên đương sự cung cấp, trình bày
của đại diện theo ủy quyền của Công ty Đ, của đại diện theo ủy quyền và người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông B, có căn cứ xác định Hợp đồng góp vốn số
1960/HĐGV-PGT-PC và số 1961/HĐGV-PGT-PC cùng ngày 20/12/2017 giữa
Công ty Đ và ông Vũ Văn B ký kết khi Công ty Đ chưa được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, Công ty Đ cũng chưa được UBND thành phố Đ chấp thuận là
nhà đầu tư được thực hiện dự án đầu tư Khu dân cư T. Đến nay, Công ty Đ cũng chỉ
mới được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
17
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CO 161090, thửa số
38, tờ bản đồ số 20, diện tích đất 17.598 m
2
, nhưng mục đích sử dụng là đất thương
mại, dịch vụ, thời hạn sử dụng đến ngày 25/12/2057. Công ty Đ chưa thực hiện
nghĩa vụ tài chính để chuyển mục đích sử dụng đất từ đất thương mại dịch vụ sang
đất ở đối với dự án khu dân cư T; Khu dân cư T cũng chưa có hồ sơ dự án đầu tư
xây dựng nhà ở được phê duyệt và chưa có thông báo đủ điều kiện được huy động
vốn của Sở Xây dựng thành phố Đ nơi có dự án. Do đó, vi phạm khoản 2 Điều 168,
Điều 188, Điều 194 Luật đất đai, khoản 5 Điều 8, Điều 31 và Điều 32 Luật Kinh
doanh bất động sản và khoản 3 Điều 19 Nghị định 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015
của Chính phủ, không đảm bảo điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định tại
Điều 117, Điều 501 Bộ luật Dân sự nên vô hiệu. Do đó, Bản án sơ thẩm xác định
các Hợp đồng góp vốn số 1960/HĐGV-PGT-PC và số 1961/HĐGV-PGT-PC cùng
ngày 20/12/2017 vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật theo quy định tại Điều 122,
Điều 123, Điều 407 Bộ luật Dân sự là có cơ sở. Theo quy định tại khoản 1 Điều 131
Bộ luật Dân sự 2015: Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Do
đó, yêu cầu phản tố của bị đơn đề nghị tiếp tục hợp đồng và sửa đổi, bổ sung Hợp
đồng góp vốn số 1960/HĐGV-PGT-PC và số 1961/HĐGV-PGT-PC là không có cơ
sở nên không được Bản án sơ thẩm chấp nhận là đúng quy định của pháp luật.
[2.3] Về giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, xác định thiệt hại, lỗi của
các bên và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Hợp đồng góp vốn số 1960/HĐGV-PGT-PC, số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày
20/12/2017 vô hiệu nên Bản án sơ thẩm buộc Công ty Đ phải trả lại cho ông Vũ Văn
B số tiền đã nhận là 1.357.200.000 đồng đối với 02 Hợp đồng góp vốn số
1960/HĐGV-PGT-PC và số 1961/HĐGV-PGT-PC là đúng theo quy định tại khoản
2 Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.
Về xác định lỗi do hợp đồng vô hiệu và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại: Công
ty Đ là chủ đầu tư Dự án Khu dân cư T, phải biết rõ tính pháp lý của dự án chưa đủ
điều kiện để ký hợp đồng góp vốn, nhưng công khai không đầy đủ và chính xác
thông tin về bất động sản, dự án bất động sản đưa vào kinh doanh theo quy định tại
Điều 6 Luật kinh doanh bất động sản, vẫn thỏa thuận ký kết hợp đồng góp vốn để
nhận tiền. Ông B đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ góp vốn của mình theo quy định của
hợp đồng, nhưng Công ty Đ cũng không tiến hành thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ
tục pháp lý cần thiết để Dự án được đủ điều kiện ký hợp đồng góp vốn. Do đó, Bản
án sơ thẩm buộc Công ty Đ phải có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông B
theo mức lãi suất vay vốn kinh doanh của một trong các ngân hàng thương mại đóng
trên địa bàn mà dự án đang thực hiện với số tiền là 520.123.660 đồng là có cơ sở,
phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 131, Điều 407 Bộ luật Dân sự và thỏa thuận
của hai bên. Công ty Đ kháng cáo đề nghị xác định lại lỗi của các bên dẫn đến hợp
18
đồng góp vốn bị vô hiệu là 50/50 để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
các bên phù hợp với mức độ lỗi thực tế là không có cơ sở chấp nhận.
[2.4] Đối với Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số: 111/2019/HĐMB-
PVB-CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng TMCP Đ1, chi nhánh Đ2 và Công ty
Đ. Tại thời điểm ký kết hợp đồng thế chấp, thửa đất số 38, tờ bản đồ số 20 đã có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất không có tranh chấp, không
bị kê biên để đảm bảo thi hành án, trong thời hạn sử dụng đất, đáp ứng điều kiện
tham gia giao dịch quy định tại khoản 1 Điều 168, Điều 188 Luật đất đai. Việc thế
chấp đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định tại Điều 323 Bộ luật Dân sự.
Công ty Đ và Ngân hàng không có tranh chấp đối với Hợp đồng thế chấp này. Do
đó, Bản án sơ thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số:
111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN ngày 17/5/2019 có giá trị pháp lý, phát sinh hiệu lực
đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký là có cơ sở, phù hợp theo quy
định tại Điều 319 Bộ luật Dân sự. Yêu cầu tuyên vô hiệu đối với hợp đồng thế chấp
này của ông B không có cơ sở chấp nhận.
[3] Đối với kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn B và quan điểm tranh luân của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông B cho rằng Bản án sơ thẩm có vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Xét, tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp về hợp đồng góp
vốn, là vụ án tranh chấp về dân sự, như đã phân tích, nhận định tại phần [2.2], Hợp
đồng góp vốn số 1960/HĐGV-PGT-PC, số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017
bị vô hiệu là do vi phạm điều cấm của luật theo quy định tại Điều 122, Điều 123,
Điều 407 Bộ luật Dân sự. Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập theo
quy định tại khoản 1 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, không phải vô hiệu khi bị xử
phạt hành chính theo Quyết định xử phạt hành chính số: 3612/QĐ-XPHC ngày
04/12/2023 của UBND quận L, thành phố Đà Nẵng, Quyết định xử phạt hành chính
số: 1369/QĐ-XPHC ngày 20/5/2022 của UBND thành phố Đ. Tại phiên tòa phúc
thẩm đại diện Công ty P6 và đại diện ông B đều xác định cho đến nay Khu dân cư
Thanh Hoàng do Công ty Đ làm nhà đầu tư cũng chưa có hồ sơ dự án đầu tư xây
dựng nhà ở được phê duyệt và chưa có thông báo đủ điều kiện được huy động vốn
của Sở Xây dựng thành phố Đ. Do đó, kháng cáo của ông B cũng như ý kiến tranh
luận của người bảo vệ cho ông B tại phiên tòa cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm có vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc thu thập và đánh giá tính pháp lý của
Dự án Khu dân cư Thanh H1 là không có cơ sở.
Về việc định giá của Tòa án cấp sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành thủ
tục định giá đối với các lô đất liên quan đến Hợp đồng góp vốn là theo đơn yêu cầu
của Công ty Đ phù hợp với Điều 104 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chi phí cho việc
định giá Bản án sơ thẩm buộc Công ty Đ phải chịu. Công ty Đ cũng không kháng
cáo đối với việc định giá và chi phí định giá phải chịu. Do đó, kháng cáo của ông B
19
cũng như ý kiến tranh luận của người bảo vệ cho ông B tại phiên tòa cho rằng Tòa
án cấp sơ thẩm đã vi phạm trong thủ tục định giá tài sản là không có cơ sở.
[4] Từ những phân tích nhận định trên, HĐXX không chấp nhận ý kiến trình
bày cũng như kháng cáo của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn, không chấp
nhận ý kiến tranh luận của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn, người
đại diện hợp pháp của bị đơn; Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của
nguyên đơn Công ty Đ cùng kháng cáo của bị đơn ông Vũ Văn B; Giữ nguyên Bản
án sơ thẩm số: 37/2024/DS- ST ngày 04/7/2024 của Tòa án nhân dân quận Liên
Chiểu.
[5] Về ý kiến của đại diện VKSND thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa đề nghị
hủy Bản án sơ thẩm , giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử
sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật là không phù hợp với phân tích, nhận định
trên của HĐXX nên không được chấp nhận.
[4] Về án phí phúc thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số:
326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Công ty Đ và ông Vũ Văn B phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng do kháng
cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của Công ty Cổ phần Đ và kháng cáo
của ông Vũ Văn B.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 37/2024/DS-ST ngày 04 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Căn cứ:
- Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 244, Điều 271, Điều
273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 122, Điều 123; Điều 131; Điều 407; Điều 500; Điều 501 Bộ
luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ khoản 4 Điều 12; Khoản 2 Điều 168; Điều 188, Điều 194 Luật Đất
Đai năm 2013;
- Căn cứ Điều 8, Điều 29, Điều 31, Điều 32 Luật Kinh doanh bất động sản
năm 2014;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 và khoản 3 Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
I. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Đ về việc
“Yêu cầu tuyên bố hợp đồng góp vốn vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô
hiệu”:
20
- Tuyên vô hiệu Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T-PGT-PC ngày
20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày
20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Văn B.
- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả số tiền là 1.357.200.000 đồng và bồi
thường thiệt hại số tiền là 1.040.247.320 đồng; tổng cộng là 2.397.447.320 đồng
(Hai tỷ ba trăm chín mươi bảy triệu bốn trăm bốn mươi bảy ngàn ba trăm hai mươi
đồng) cho ông Vũ Văn B, trong đó:
+ Đối với lô đất số 41 - khu A2: Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả số tiền là
678.600.000 đồng và bồi thường thiệt hại số tiền là 520.123.660 đồng; tổng cộng là
1.198.723.660 đồng.
+ Đối với lô đất số 42 - khu A2: Công ty Cổ phần Đ phải hoàn trả số tiền là
678,600,000 đồng và bồi thường thiệt hại số tiền là 520.123.660 đồng; tổng cộng là
1.198.723.660 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải
thi hành án không thi hành thì phải chịu khoản tiền lãi tương ứng với số tiền và thời
gian chậm thi hành theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với
quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm
2015.
II. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Vũ Văn B về việc “Yêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng góp vốn và yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất vô hiệu”:
1. Không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc buộc Công ty Cổ phần Đ tiếp tục
thực hiện Thỏa thuận tại Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T-PGT-PC ngày
20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày
20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Văn B theo hướng:
- Sửa đổi Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T-PGT-PC ngày 20/12/2017 và
Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017
được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ Kinh doanh nhà Phú Gia T5 và ông Vũ Văn B
để cân bằng quyền và lợi ích của hai bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản với các yêu
cầu sửa đổi như sau:
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ phải tiến hành tháo dỡ toàn bộ công trình xây
dựng hiện có trên lô đất số 41,42 - khu A2 dự án KDC T.
+ Ông Vũ Văn B được quyền xây dựng và chịu chi phí xây dựng nhà trên lô
đất số 41, 42 - khu A dự án KDC T, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng theo
thiết kế đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ phải hoàn thiện các điều kiện pháp lý để lô đất số
41, 42 - khu A2 dự án KDC T và công trình trên đất đủ điều kiện chuyển nhượng
cho ông B theo quy định của pháp luật với giá trị quyền sử dụng đất giữ nguyên
trong Thỏa thuận góp vốn đã ký kết.
+ Buộc Công ty Cổ phần Đ liên hệ UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành
phố Đà Nẵng, Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L và các cơ
21
quan liên quan lập các thủ tục để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Vũ Văn B đối với nhà và đất tại
lô đất số 41, 42 - khu A2 dự án KDC T
- Các điều khoản không sửa đổi tại Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T-
PGT-PC ngày 20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số 1961/HĐGV-
PGT-PC ngày 20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông Vũ Văn B đã
có hiệu lực pháp luật tiếp tục được thực hiện.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc ông Vũ Văn B được quyền chủ
động liên hệ với UBND thành phố Đ, Sở Xây dựng thành phố Đà Nẵng, Sở Tài
nguyên Môi trường thành phố Đ, UBND quận L và các cơ quan liên quan để thực
hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất đối với nhà và đất tại lô đất số 41, 42 - khu A1 dự án KDC T sau khi
trả phần giá trị đất còn lại theo Thỏa thuận tại Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị
T-PGT-PC ngày 20/12/2017 và Hợp đồng góp vốn dự án khu đô thị T số
1961/HĐGV-PGT-PC ngày 20/12/2017 được ký kết giữa Công ty Cổ phần Đ và ông
Vũ Văn B.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc tuyên Hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất số 111/2019/HĐMB-PVB-CNĐN ngày 17/5/2019 giữa Ngân hàng
TMCP Đ1, chi nhánh Đ2 và Công ty Cổ phần Đ được công chứng tại Văn phòng
C2, công chứng số 7316, quyển số 01 TP/CC-SCC/HĐGD liên quan đến diện tích
đất tại KDC T – thửa đất số 38, tờ bản đồ số 20, địa chỉ Lô B Khu tái định cư V - N,
phường H, quận L, TP Đà Nẵng là vô hiệu.
III. Án phí
1. Án phí dân sự sơ thẩm:
1.1. Công ty Cổ phần Đ phải chịu án phí đối với số tiền có nghĩa vụ thanh
toán cho ông Vũ Văn B là 79.948.946 đồng (Bảy mươi chín triệu chín trăm bốn
mươi tám ngàn chín trăm bốn mươi sáu đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí
300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0000853 ngày
05.4.2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Công ty Cổ phần Đ còn phải tiếp tục nộp số tiền 79.648.946 đồng (Bảy mươi chín
triệu sáu trăm bốn mươi tám ngàn chín trăm bốn mươi sáu đồng).
2. Ông Vũ Văn B phải chịu án phí đối với yêu cầu khởi kiện về việc tuyên bố
hợp đồng vô hiệu của nguyên đơn là Công ty Đ được chấp nhận là 300.000 đồng
(Ba trăm ngàn đồng).
3. Ông Vũ Văn B phải chịu án phí đối với yêu cầu phản tố về việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng góp vốn và yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất vô hiệu không được Tòa án chấp nhận là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm
ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0005256
ngày 31.5.2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà
Nẵng. Ông Vũ Văn B đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
2. Án phí phúc thẩm:
22
Công ty Cổ phần Đ phải chịu 300.000đ, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí
đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0000889 ngày 12/7/2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự quận Liên Chiểu, Tp Đà Nẵng.
Ông Vũ Văn B phải chịu 300.000đ, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã
nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0000909 ngày 29/7/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự quận Liên Chiểu, Tp Đà Nẵng.
IV. Chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 2.000.000 đồng
(Hai triệu đồng); Chi phí thẩm định giá là 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng)
nguyên đơn là Công ty Cổ phần Đ phải chịu (Đã nộp và đã chi xong).
V. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ
ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015
VI. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
VII. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hánh
án theo quy định tại Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP. Đà Nẵng;
- Chi Cục THADS quận Liên Chiểu;
- Cục THADS Tp Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Văn Hiếu
Tải về
Bản án số 204/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 204/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 12/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm