Bản án số 189/2025/DS-ST ngày 27/05/2025 của TAND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 189/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 189/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 189/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 189/2025/DS-ST ngày 27/05/2025 của TAND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Trần Văn Thời (TAND tỉnh Cà Mau) |
Số hiệu: | 189/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà Bùi Thị P khởi kiện yêu cầu cầu tuyên hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất với bà Trần Thị T vô hiệu |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TRẦN VĂN THỜI
TỈNH CÀ MAU
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 189/2025/DS-ST
Ngày: 27 – 5 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng
cầm cố quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà:
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Lê Thị Hồng Hà
Ông Hồ Quang Minh
Bà Nguyễn Kim Lên
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Mỹ Tiên là Thư ký Toà án của Tòa án nhân
dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời tham gia phiên
tòa: Ông Trương Hoàng Lo – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 26, 27 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện
Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:
102/2025/TLST-DS ngày 25 tháng 02 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng cố
đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2025/QĐXXST-DS ngày 07
tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Bùi Thị P, sinh năm 1974; Cư trú: Ấp M, xã K, huyện T,
tỉnh C.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Bùi Thị P: Ông Bùi Hải A, sinh năm
1985; Cư trú: Số 229/40B, đường H, khóm 4, phường 7, thành phố C, tỉnh C (Có
mặt).
Bị đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1964; Cư trú: Ấp M, xã K, huyện T, tỉnh C
(Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/01/2025 và tại phiên tòa, người đại diện theo
uỷ quyền của nguyên đơn ông Bùi Hải A trình bày:
- Vào ngày 29/02/2015 giữa vợ chồng bà là Bùi Thị P (Bùi Kim Phượng),
Nguyễn Văn Thống và vợ chồng bà Trần Thị T, ông Bùi Văn Luôn (Đã chết năm
2017) có ký kết hợp đồng cố đất với nhau. Theo đó, vợ chồng bà T cố cho vợ
chồng bà P 04 công đất tầm lớn, toạ lạc tại ấp M, xã K, huyện T, tỉnh C .; với giá
2
20 chỉ vàng 24K; thời hạn cố đất là 03 năm; đôi bên có lập giấy tay về việc cố đất.
Vợ chồng bà P đã giao đủ vàng cho vợ chồng bà T.
- Vợ chồng bà P không nhận đất để canh tác mà cho vợ chồng bà T thuê lại
với giá 7.000.000 đồng/năm. Từ thời điểm cố đất đến nay vợ chồng bà T không trả
tiền thuê đất cho vợ chồng bà P. Phần đất cố do vợ chồng bà T trực tiếp quản lý, sử
dụng từ thời điểm cố đến nay. Trong thời gian cố đất, vợ chồng bà T đã hoàn trả
cho bà P được 04 chỉ vàng 24K, còn lại 16 chỉ vàng 24K.
- Do ông Luôn đã chết nên nay bà P yêu cầu tuyên hợp đồng cố đất giữa đôi
bên vô hiệu; bà T hoàn trả cho bà P 16 chỉ vàng 24K và tiền thuê đất là 36.000.000
đồng.
Tại phiên toà, bị đơn bà Trần Thị T trình bày:
- Bà xác định các nội dung nguyên đơn trình bày là đúng. Chồng bà là ông
Bùi Văn Luôn đã chết vào năm 2017 do bệnh. Bà thừa nhận còn nợ tiền cố đất của
vợ chồng bà P là 16 chỉ vàng 24K và tiền thuê đất 10 năm.
- Bà trực tiếp quản lý, sử dụng phần đất từ thời điểm cố đến nay.
- Nay bà đồng ý tuyên hợp đồng cố đất vô hiệu; bà đồng ý trả cho bà P 16
chỉ vàng 24K, nhưng hiện nay bà không có khả năng trả một lần, bà sẽ trả dần cho
bà P theo khả năng thực tế của bản thân cho đến khi hết số vàng này. Đối với tiền
thuê đất bà P yêu cầu là 36.000.000 đồng thì bà không đồng ý trả cho bà P do hiện
nay bà không có khả năng trả số tiền này.
Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:
Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo
pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử và Thư ký đã
tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm. Người tham gia
tố tụng: Đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp
luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị P. Tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền
sử dụng đất (Giấy giao kèo cố đất ngày 29/02/2015) giữa ông Bùi Văn Luôn, bà
Trần Thị T và ông Nguyễn Văn Thống, bà Bùi Thị (Kim) Phượng vô hiệu. Buộc bà
Trần Thị T hoàn trả cho bà Bùi Thị P 16 chỉ vàng 24K. Không chấp nhận yêu cầu
của bà P về việc đòi bà T trả tiền thuê đất 36.000.000 đồng.
Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị P về việc yêu cầu
tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất (Giấy giao kèo cố đất ngày
3
29/02/2015) giữa ông Bùi Văn Luôn, bà Trần Thị T và ông Nguyễn Văn Thống, bà
Bùi Thị (Kim) Phượng vô hiệu; buộc bà T hoàn trả cho bà P 16 chỉ vàng 24K và
tiền thuê đất 36.000.000 đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Nguyên đơn bà Bùi Thị P và bị đơn bà Trần Thị T thống nhất xác định: Vào
ngày 29/02/2015 đôi bên lập hợp đồng cố đất với nhau. Theo đó, vợ chồng bà T cố
cho vợ chồng bà P 04 công đất tầm lớn, toạ lạc tại ấp M, xã K, huyện T, tỉnh C .;
với giá 20 chỉ vàng 24K; thời hạn cố đất là 03 năm. Vợ chồng bà P không nhận đất
để canh tác mà cho vợ chồng bà T thuê lại với giá 7.000.000 đồng/năm. Từ thời
điểm thuê đất đến nay vợ chồng bà T không trả tiền thuê đất cho vợ chồng bà P và
có hoàn trả cho vợ chồng bà P 04 chỉ vàng 24K. Phần đất do vợ chồng bà T trực
tiếp quản lý, sử dụng từ thời điểm cố đến nay.
Khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Một bên đương sự thừa
nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của
cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải
chứng minh”. Do bà T thừa nhận nên bà P không phải chứng minh các nội dung
nêu trên.
Tuy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa đôi bên được thực hiện trên
tinh thần thoả thuận và tự nguyện nhưng việc thoả thuận cầm cố quyền sử dụng đất
nêu trên giữa các bên là vi phạm điều cấm của pháp luật dân sự và pháp luật về đất
đai. Bởi lẽ, đất đai là loại bất động sản, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ về đất đai
phải bảo đảm tuân thủ các quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật có liên
quan cũng như việc đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Mặt khác, đất đai không
phải là đối tượng của hợp đồng cầm cố tài sản.
Điều 123 Bộ luật Dân sự quy định: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung
vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là
những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất
định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội,
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”.
Do vi phạm điều cấm của luật nên hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa
đôi bên đã không có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm giao kết.
Khoản 1, 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự quy định:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng
hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”.
Do hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa đôi bên vô hiệu nên các bên
phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Cụ thể, nguyên đơn phải hoàn trả đất cho
bị đơn và bị đơn phải hoàn trả vàng cho nguyên đơn. Tuy nhiên, phần đất hiện nay
4
do bà T quản lý, sử dụng nên bà P không phải trả đất cho bà T; bà T phải hoàn trả
cho bà P số vàng cầm cố là 16 chỉ vàng 24K.
Do hợp đồng cố đất của các bên đã không có hiệu lực pháp luật kể từ thời
điểm giao kết nên hợp đồng thuê đất – hợp đồng được xác lập trên cơ sở của hợp
đồng cố đất cũng không có hiệu lực pháp luật. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn bà P
về việc đòi bị đơn bà T trả tiền thuê đất 36.000.000 đồng là không có căn cứ để
chấp nhận.
[2] Do đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời là
có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về án phí:
- Do yêu cầu về hợp đồng cố đất của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp
nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Cụ thể,
bà T phải chịu án phí không có giá ngạch đối với hợp đồng vô hiệu và án phí có
giá ngạch đối với số vàng hoàn trả. Tuy nhiên, bà T là người cao tuổi, có đơn xin
miễn án phí nên Hội đồng xét xử xét miễn án phí cho bà T.
- Do yêu cầu về tiền thuê đất của nguyên đơn không được Hội đồng xét xử
chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần
yêu cầu không được chấp nhận. Cụ thể, bà P phải chịu án phí số tiền 1.800.000
đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39,
Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, các Điều 123, 131 Bộ luật Dân sự; các Điều 12,
167 Luật Đất đai; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn bà Bùi Thị P.
- Tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất (Giấy giao kèo cố đất ngày
29/02/2015) giữa ông Bùi Văn L, bà Trần Thị T và ông Nguyễn Văn T1, bà Bùi
Thị (Kim) P vô hiệu.
- Buộc bà Trần Thị T hoàn trả cho bà Bùi Thị P 16 (Mười sáu) chỉ vàng
24K.
2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Bùi Thị P về việc đòi bị đơn
bà Trần Thị T trả tiền thuê đất 36.000.000 đồng (Ba mươi sáu triệu đồng).
3. Về án phí:
- Bà Trần Thị T được miễn án phí.
- Bà Bùi Thị P phải chịu án phí số tiền 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm
nghìn đồng). Ngày 25/02/2025 bà P đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 5.415.000
đồng (Năm triệu bốn trăm mười lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005256 của
5
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, được đối trừ chuyển thu số tiền
1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm nghìn đồng); bà P được nhận lại số tiền
3.615.000 đồng (Ba triệu sáu trăm mười lăm nghìn đồng).
4. Về nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND huyện Trần Văn Thời;
- Đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, Văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
(Đã ký)
Lê Thị Hồng Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm