Bản án số 189/2024/DS-PT ngày 09/08/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 189/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 189/2024/DS-PT ngày 09/08/2024 của TAND tỉnh Kiên Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Kiên Giang
Số hiệu: 189/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp HĐCNQSDĐ - Lê Thanh H - Bùi Văn Th
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 189/2024/DS-PT
Ngày: 09-8-2024
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền s dụng đất
yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở
thực hiện quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Bá Kha
Các Thẩm phán: Hoàng Thị Thu Hường
Trần Thị Chọn
- Thư phiên tòa: Nguyễn ThMai - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Kiên
Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa: Ông
Trịnh Văn Đương - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét x
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 80/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 4 năm 2024, về
việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất yêu cầu chấm dứt
hành vi cản trở thực hiện quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 29/01/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 95/2024/QĐ-PT ngày 22
tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:
*Nguyên đơn: Ông Lê Thanh H, sinh năm 1964.
Địa chỉ: Tổ B, khu phố H, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Ông Bùi Hồng Đ, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Số G T, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Lê Thanh H: Luật sư Phạm P
V Văn phòng luật Phạm Phú V Đoàn luật tỉnh K. Địa chỉ: Số D H, Rạch G,
Kiên Giang.
* Bị đơn: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1965 (Ông T chết ngày 01/11/2023)
Lê Thị Thu H1, sinh năm 1968 (Vợ ông T).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T:
1. Bà Lê Thị Thu H1, sinh năm 1968 (Vợ ông T).
2. Anh Bùi Thanh V1, sinh năm 1986 (Con ông T).
Cùng địa chỉ: Khu phố D, phường A, thành phố P, Kiên Giang.
3. ChBùi Thị H2, sinh năm 1995 (Con ông T).
Địa chỉ: Tổ B, khu phố I, phường D, P, Kiên Giang.
4. Chị Bùi Thị N, sinh năm 1991 (Con ông T).
Địa chỉ: Khu phố D, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông T, bà H1: Luật sư Phạm Hữu P
Văn phòng luật sư Đoàn Công T1, thuộc đoàn luật sư tỉnh K.
2
Địa chỉ: Số A đường C, P.V, Tp ., tỉnh Kiên Giang
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập:
1. Ông Nguyễn Huy Q, sinh năm 1976 vợ Nguyễn Thị A, sinh năm
1984
2. Ông Nguyễn Trung C, sinh năm 1973 v Nguyễn Thị M, sinh năm
1975
3. Ông Vũ Đình P1, sinh năm 1975 và vợ Lê Thị O, sinh m 1976
Cùng địa chỉ: Khu phố D, phường A, P, Kiên Giang.
4. Ông Trần Văn Q1, sinh năm 1954.
Địa chỉ: C N, tổ dân phố X, thị trấn K, huyện L, tỉnh Quảng Bình.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Q1: Ông Nguyễn Trung C, sinh năm 1973
Địa chỉ: Khu phố D, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập:
1. Bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1965.
Địa chỉ: Tổ B, khu phố H, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà B: Ông Bùi Hồng Đ, sinh năm 1960.
Địa chỉ: Số 71 Trần Quốc Toản, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh
Kiên Giang
2. Ông Bùi Văn T2, sinh năm 1971 vợ Trương Thị Nguyệt Y, sinh năm
1975
3. Ông Nguyễn Thanh N1, sinh năm 1970
Địa chỉ: Tổ B, khu phố C, phường A, P, Kiên Giang.
4. Bà Phan Thị N2, sinh năm 1967
5. Bà Bùi Thị N3, sinh năm 1950
6. Bà Bùi Thị T3, sinh năm 1969
7. Bà Bùi Thị H3, sinh năm 1960
8. Bà Bùi Thị D, sinh năm 1947
9. Bà Lê Thị Thu T4, sinh năm 1978 và chồng ông Mai Hữu P2, sinh năm 1976
Cùng địa chỉ: Khu phố D, phường A, thành phố P, Kiên Giang.
10. Bà Trần Thu V2, sinh năm 1963.
Địa chỉ: Ấp C, xã G, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà V2: Ông Trần Quốc H4, sinh năm 1997.
Địa chỉ: Khu phố 4, phường An Thới, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
11. Bà Lê Thị Thu B1, sinh năm 1969 và chồng ông Lê Văn L, sinh m 1976
12. Ông Trần Quốc T5, sinh năm 1969
13. Ông Nguyễn Điền T6, sinh năm 1980 và chồng ông Võ Thanh C1
Người đại diện theo ủy quyền của bà T6: Ông Trần Thành C2, sinh năm 1984
14. Ông Huỳnh Vũ L1, sinh năm 1991.
Cùng địa chỉ: Khu phố 4, phường An Thới, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
15. Bà Võ Thị N4 (Đã chết).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà N4:
15.1. Anh Huỳnh Vũ L1, sinh năm 1991.
15.2. Anh Huỳnh Minh Đ1, sinh năm 2002.
15.3. Anh Huỳnh Minh C3, sinh năm 2000.
Cùng địa chỉ: Khu phố D, phường A, thành phố P, Kiên Giang.
16. Ủy ban nhân dân phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Địa chỉ: Phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang
3
17. Chị Đào Thị Kim H5, sinh năm 1997
18. Cháu Huỳnh Đăng K, sinh năm 2015 cháu Huỳnh Khả H6, sinh năm
2018.
Người đại diện theo pháp luật của cháu K cháu H6: Anh Huỳnh L1, sinh
năm 1991 và chị Đào Thị Kim H5, sinh năm 1997 (Cha, mẹ hai cháu)
19. Bà Võ Kim P3, sinh năm 1969 (Vợ ông Trần Quốc T5)
20. Anh Trần Hào N5, sinh năm 2003
21. Anh Huỳnh Văn L2, sinh năm 1996
22. Chị Huỳnh Thị Yến N6, sinh năm 2001
23. Anh Mai Hữu B2, sinh năm 1998
24. Anh Mai Hữu L3, sinh năm 2002
25. Cháu Mai Thị Như Ý, sinh năm 2013
Người đại diện theo pháp luật của cháu Ý: Thị Thu T4, sinh năm 1978
ông Mai Hữu P2, sinh năm 1976 (Cha, mẹ cháu)
26. Anh Trần Thành C2, sinh năm 1984 và vợ Nguyễn Thị Mộng T7, sinh năm
1990.
27. Cháu Trần Duy B3, sinh năm 2015 và cháu Trần Thảo V3, sinh năm 2016.
Người đại diện theo pháp luật của cháu B3 cháu V3: Anh Trần Thành C2,
sinh năm 1984 và vợ Nguyễn Thị Mộng T7, sinh năm 1990 (Cha, mhai cháu)
28. Anh Nguyễn Quốc K1, sinh năm 2001
29. Cháu Nguyễn Thị Anh T8, sinh năm 2009.
Người đại diện theo pháp luật của cháu T8: Ông Nguyễn Trung C, sinh năm
1973 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1975 (Cha, mẹ cháu)
30. Cháu Nguyễn Lan P4, sinh năm 2007 và cháu Nguyễn Minh Q2, sinh năm
2013.
Người đại diện theo pháp luật của cháu P4 cháu Q2: Nguyễn Thị A,
sinh năm 1984 và ông Nguyễn Huy Q, sinh năm 1976 (Cha, mẹ hai cháu)
Cùng địa chỉ: Khu phố D, phường A, thành phố P, Kiên Giang.
(Ông Thanh H, ông Bùi Hồng Đ, Luật Phạm Phú V, bà Thị Thu H1,
Luật Phạm Hữu P, bà Nguyễn Thị A, Nguyễn Thị M, ông Nguyễn Thanh N1,
ông Trần Quốc T5, Thị Thu T4 có mặt, còn lại vắng mặt đơn xin xét x
vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lê Thanh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Tại đơn khởi kiện ngày 30/7/2019, quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa
nguyên đơn ông Thanh H ủy quyền cho ông Bùi Hồng Đ trình bày: Vào năm
2004, ông H ng vợ là Huỳnh Thị B có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của
vợ chồng ông Bùi Văn T, Lê Thị Thu H1, diện tích đất 5.717m
2
, thuộc thửa số 78, tờ
bản đsố 04, tọa lạc tại khu phố D, thị trấn A, huyện P (N là phường A, thành phố P),
tỉnh Kiên Giang. Phần đất này nguồn gốc do ông T nhận thừa kế từ cha mẹ là ông
Bùi Văn M1 (Đã chết năm 1982), Thị T9 (Đã chết năm 1996) để lại. Đất này bà
T9 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 100225, ngày 22/3/1994. Khi
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, hai bên lập hợp đồng được
UBND thị trấn A xác nhận vào ngày 10/9/2004. Giá chuyển nhượng toàn bộ quyền sử
dụng đất nêu trên 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), tài sản hoa màu, cây trồng
trên đất là 20.000.00(Hai mươi triệu đồng), tổng cộng 70.000.000đ (Bảy mươi triệu
đồng). Ông H, B đã giao đủ tiền cho ông T ngay khi hợp đồng. Sau khi chuyển
4
nhượng bàn giao đất xong, lợi dụng hoàn cảnh vợ chồng ông H xa ít thời
gian lên trông coi, nên vào năm 2006, vợ chồng ông T đã tái chiếm lại đất và quản lý sử
dụng riêng nên tranh chấp cho đến nay. Ông H đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông T
phải trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng đã kết và giao hiện trạng đất cho vợ
chồng ông H sử dụng nhưng vợ chồng ông T không thực hiện. Nhận thấy, vợ chồng ông
T đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông H, đã nhận đủ tiền nhưng
sau đó tái chiếm lại đsdụng trái pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi ích hợp
pháp của vợ chồng ông H.
Ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất lập ngày 10/9/2004, giữa ông Bùi Văn T, Thị Thu H1 với ông
Thanh H hợp pháp. Công nhận quyền sử dụng đất diện tích 5.714m
2
, thuộc
thửa số 78, tờ bản đồ số 04, tọa lạc tại khu phố D, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên
Giang cho ông H được toàn quyền quản lý sử dụng.
*Tại đơn yêu cầu phản tố, quá trình giải quyết vụ án đồng bị đơn ông Bùi Văn T
Thị Thu H1 trình bày: Vợ chồng ông không ký kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/9/2004 đối với diện tích đất 5.714m
2
, thuộc thửa s
78, tờ bản đồ s4, tọa lạc tại khu phố D, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang với
vợ chồng ông H, bà B, bởi những lý do sau:
Năm 2000, H1 làm ăn mua bán số đề với vợ ông H B, bà H1 người
bán, B chủ đề, H1 thiếu B số tiền 20.000.000đ tiền mua bán số đề đã
giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông H. Sau đó khi đang bán đ
thì H1 bị bắt, khi H1 bị bắt, B nói Đ2 khai ra ai chủ đề cứ nhận hết
về mình, vợ chồng ông H sẽ xóa nợ lo cho H1”. Nhưng B không thực hiện
được H1 vẫn bị đi theo Bản án số 28/HSST, ngày 27/12/2001 của TAND tỉnh
Kiên Giang. Sau khi H1 ra tù, ông đã nhiều lần xuống nhà ông H để lấy giấy
chứng nhận quyền sdụng đất nhưng vợ chồng ông H không cho. Đến năm 2006, ông
làm đơn ra ấp, rồi để thương lượng, giải quyết vấn đề liên quan đến mảnh đất
trên. Ấp, xã đã nhiều lần gọi nhưng vợ chồng ông H không ra giải quyết. Năm 2008,
ông làm đơn lên Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, Tòa án đã nhiều lần mời
nhưng vợ chồng ông H không ra trình diện. Đến ngày 11/9/2008, a án ra Quyết định
đình chỉ số 12/2008/QĐST-DS.
Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/9/2004, ông
khẳng định đây bản hợp đồng giả, chữ ký giả. Trong hợp đồng những mục ghi
không hợp như: Thời điểm thanh toán tiền mặt; phương thức thanh toán một lần;
phần các bên liên quan chỉ để một mình tên ông T, không tên tuổi của H1 nhưng
khi tên lại viết tên H1 vào; không chứng minh, ngày cấp của ông bà; giá hợp
đồng chuyển nhượng 50.000.000đ, giá chuyển nhượng tài sản 20.000.000đ
không thật ông không nhận đồng tiền nào từ vợ chồng ông H; việc mua bán
không diễn ra nên hợp đồng được lập vợ chồng ông H không thể ghi bản hợp đồng
lập tại đâu, không có ngày tháng chuyển nhượng, không có ghi hợp đồng lập thành mấy
bản cũng không người làm chứng; hợp đồng được lập sài vậy cũng được Chủ
tịch UBND thtrấn ông Huỳnh Văn H7 ký, đóng dấu xác nhận phải chăng sự
mờ ám; ông đề nghị Tòa án làm vấn đề trong cuộc mua bán, chuyển nhượng này
không có mặt ông bà, không có người làm chứng ký giáp ranh, cũng không có xác nhận
của Ban lãnh đạo ấp 4 mà Chủ tịch UBND thị trấn tự xác nhận ký tên.
Trên giấy chứng nhận quyền sdụng đất vào năm 2004 người đứng tên mẹ của
ông T, cụ Lê Thị T9. Khi bố mẹ ông T mất không để lại di chúc nên thửa đất trên thuộc
5
quyền thừa kế chung của 06 anh chị em ông T. thế ông không quyền mua bán
chuyển nhượng thửa đất trên. Đến năm 2008, anh chị em ông T mới biên bản họp
mặt gia đình và đồng ý trao quyền sử dụng thửa đất trên cho vông ThơmH1. Về biên
bản hòa giải của UBND thị trấn A thiếu khách quan khi ghi chưa hết những điều mà vợ
chồng tôi đã trình bày với các thành viên tổ hòa giải đó là “Trong biên bản không nói
đến năm 2008, ông đã kiện vợ chồng ông H ra Tòa nhưng vợ chồng ông H không ra
trình diện khi Tòa mời nhiều lần, sau đó Tòa đã quyết định đình chỉ vụ án dân sự”.
Sau khi có quyết định đình chỉ vụ án của Tòa, một số hộ gia đình mua đất của ông T đã
làm thủ tục và được cấp sơ đồ 15 trên diện tích đất mà ông T, H1 chuyển nhượng, và
cũng gia đình đã nộp thuế nhà đất theo yêu cầu của Chi cục thuế P5. Từ năm 2004
đến năm 2019 đã 15 năm, đã có hơn 10 hộ gia đình xây nhà ở và sinh sống trên thửa đất
ông chuyển nhượng nhưng vchồng ông H không bất kỳ động thái nào liên
quan đến thửa đất trên mặc dù gia đình ông H, anh em của ông vẫn ở P gia đình ông
H có cả người nhà làm ở địa chính xã.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông H không căn cứ ông chỉ thiếu vợ
chồng ông H 20.000.000đ. Nay ông yêu cầu phản tố: Hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/9/2004 giữa ông bà với vợ chồng ông H. Buộc vợ chồng ông
H giao trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Thị T9 được UBND
huyện P (Nay là thành phố P) cấp ngày 22/3/1994 và ông bà đồng ý trả lại cho vợ chồng
ông H số tiền 20.000.000đ.
*Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa những người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập trình bày:
- Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 18/9/2020, ông Nguyễn Huy Q và vợ bà Nguyễn
Thị Tú A trình bày: Vào năm 2006, ông bà có nhận chuyển nhượng 456,9m
2
đất của vợ
chồng ông T, H1, đất tọa lạc tại tổ B, ấp D, thị trấn A, huyện P (Nay khu phố D,
phường A, thành phố P), tỉnh Kiên Giang, với giá 20.000.000đ, ông đã trả đủ tiền và
nhận đất sử dụng. Việc mua bán trên hai bên làm hợp đồng chuyển nhượng, xác
nhận của trưởng ấp. Đến năm 2008, ông tiến hành cất một căn nhà cấp 4 đến nay.
Cũng trong năm 2008, ông lập thủ tục xin cấp giấy CNQSD đất nhưng đến nay vẫn
chưa được cấp. Tuy nhiên, từ khi cất nhà đến nay ông vẫn đóng thuế đất đầy đủ
cho Nhà nước.
Về nguồn gốc đất, ông bà biết đất đã được Nhà nước cấp giấy CNQSD đất cho bà
T9 năm 1994 mẹ của ông T. Thời điểm chuyển nhượng cha mẹ ông T đã qua đời,
phần đất trên vợ chồng ông T, H1 được anh em ông T giao quyền quản lý, sử dụng
định đoạt. Thời điểm này ông hoàn toàn không biết việc chuyển nhượng QSD đất
giữa ông H và ông T, mà chỉ biết vợ chồng ông T có nợ tiền của bà B vợ ông H và bà B,
ông H đang giữ giấy CNQSD đất của vợ chồng ông T.
Từ khi mua đất cất nhà đến nay ông thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với
Nhà nước, cũng không bị ai tranh chấp hay cản trở. Nay xảy ra tranh chấp giữa ông H
với ông T, bà H1 ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ông yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết: Công nhận hợp đồng chuyển
nhượng đất ngày 07/6/2006 giữa ông với vợ chồng ông T, H1. Trường hợp xử
giao đất cho nguyên đơn thì ông yêu cầu buộc vợ chồng ông T, H1 phải bồi
thường giá trị đất diện tích đo đạc thực tế 456,9m
2
đã chuyển nhượng cho ông theo
giá thẩm định của Tòa án. Buộc nguyên đơn ông H bồi thường gtrị căn nhà vật
kiến trúc theo định giá là 147.631.000đ; cây trồng trị giá 1.068.000đ.
- Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 18/9/2020, ông Nguyễn Trung C Nguyễn
6
Thị M trình bày: Vào năm 2018, ông nhận chuyển nhượng 295,2m
2
đất của vợ
chồng ông Bùi Văn T2 và bà Trương Thị Nguyệt Y, đất tọa lạc tại tổ B, ấp D, thị trấn A,
huyện P (Nay khu phD, phường A, thành phố P), tỉnh Kiên Giang, với giá 1,4 tỷ
đồng. Ông đã trả đtiền nhận đất sử dụng, việc mua bán trên hai bên làm hợp
đồng chuyển nhượng, có xác nhận của trưởng khu phố ngày 09/5/2018. Sau khi mua đất
ông tiến hành cất một căn nhà để cất 07 phòng trọ cho thuê, từ khi ông xây
cất nhà cho đến nay không ai ngăn cản hay tranh chấp.
Về nguồn gốc đất, ông bà biết đất đã được Nhà nước cấp giấy CNQSD đất cho bà
Thị T9 năm 1994 mẹ của ông T. Sau khi cha mẹ ông T qua đời, phần đất trên vợ
chồng ông T được anh em ông T giao cho ông T quyền quản lý, sdụng định đoạt.
Năm 2015, vợ chồng ông T2, Y nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông T, sau đó
chuyển nhượng lại cho ông năm 2018. Tại thời điểm chuyển nhượng với vợ chồng
ông T2, ông hỏi và tìm đến vợ chồng ông T được vợ chồng ông T cho xem
biên bản họp mặt gia đình ghi ngày 07/01/2008 giữa anh chị em ông T, giao cho ông T
toàn quyền định đoạt khu đất của cha mẹ để lại. vậy, ông yên tâm nhận chuyển
nhượng đất với vchồng ông T2 hoàn toàn không biết việc chuyển nhượng QSD
đất giữa ông H và ông T năm 2004.
Từ khi mua đất cất nhà đến nay ông thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với
Nhà nước, cũng không bị ai tranh chấp hay cản trở. Nay xảy ra tranh chấp giữa ông H
với vợ chồng ông T ông bà đề nghị giải quyết theo pháp luật.
Ông yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết: Công nhận hợp đồng chuyển
nhượng đất ngày 09/5/2018 giữa ông với vợ chồng ông Bùi Văn T2, Trương Thị
Nguyệt Y. Trường hợp Tòa án xử giao đất cho nguyên đơn thì yêu cầu buộc vợ chồng
ông T2, bà Y phải bồi thường cho ông giá trị diện tích đất đo đạc thực tế 291,9m
2
theo giá thẩm định của Tòa án. Buộc nguyên đơn ông H bồi thường giá trị các căn nhà
và vật kiến trúc theo định giá là 1.029.586.000đ.
- Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 18/9/2020, ông Đình P1 Thị O
trình bày: Vào năm 2008, ông nhận chuyển nhượng diện tích đất ngang 05m, dài
90m, tổng diện tích 450m
2
của ông Nguyễn Thanh N1 và vợ bà Phan Thị N2, đất tọa lạc
tại tổ B, ấp D, thị trấn A, huyện P (Nay khu phố D, phường A, thành phố P), tỉnh
Kiên Giang, với giá 103.000.000đ. Ông bà đã trả đủ tiền và nhận đất sử dụng. Việc mua
bán trên hai bên có làm hợp đồng chuyển nhượng, có xác nhận của trưởng khu phố ngày
31/5/2008. Sau khi mua đất, ông tiến hành trồng cây Tràm, đến năm 2017 thì thu
hoạch, sau đó xây dựng 05 phòng trọ cho thuê. Từ khi ông trồng cây xây cất nhà
cho đến nay không ai ngăn cản hoặc tranh chấp. Cũng trong thời gian đó, ông bà có đến
UBND thị trấn A khai, làm thủ tục xin cấp giấy CNQSD đất, hiện nay tên trên
đồ 15, chưa được cấp giấy CNQSD đất.
Nguồn gốc đất, ông bà biết đất đã được Nhà nước cấp giấy CNQSD đất cho bà
Thị T9 năm 1994 mẹ của ông T. Sau khi cha mẹ ông T qua đời, phần đất trên v
chồng ông T được anh em ông T giao cho ông T quyền quản lý, sdụng định đoạt.
Năm 2006, vợ chồng ông Nguyễn Thanh N1, bà Phan Thị N2 nhận chuyển nhượng từ
vợ chồng ông T, sau đó chuyển nhượng lại cho ông năm 2008. Tại thời điểm chuyển
nhượng với vợ chồng ông N1, ông bà có hỏi và tìm đến vợ chồng ông T được ông T,
H1 bà cho biết phần đất ông bà định chuyển nhượng đúng là đất do ông T đã chuyển
nhượng cho vchồng ông N1 cho ông xem biên bản họp mặt gia đình ghi ngày
07/01/2008 giữa anh chị em ông T giao cho ông T toàn quyền định đoạt khu đất của cha
mẹ để lại. vậy, ông yên tâm nhận chuyển nhượng đất với vợ chồng ông N1 và
7
hoàn toàn không biết có việc chuyển nhượng QSD đất giữa ông H và ông T năm 2004.
Từ khi mua đất, trồng tràm, cất 05 phòng trọ cho thuê đến nay, ông thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, cũng không bị ai tranh chấp hay cản trở. Nay
xảy ra tranh chấp giữa ông H với vợ chồng ông T ông đề nghị Tòa án giải quyết theo
pháp luật.
Ông yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết: Công nhận hợp đồng chuyển
nhượng đất ngày 31/5/2008 giữa ông với vợ chồng ông Nguyễn Thanh N1, Phan
Thị Năng . Trường hợp Tòa xử giao đất cho nguyên đơn thì yêu cầu buộc vợ chồng ông
N1, N2 phải bồi thường cho ông bà giá trị diện tích đất đo đạc thực tế 507,1m
2
đã
chuyển nhượng theo giá thẩm định của Tòa án. Buộc nguyên đơn ông H bồi thường giá
trị căn nhà và vật kiến trúc theo định giá là 544.483.000đ; cây trồng trị giá 580.000đ.
Đối với diện tích đất 4,6m
2
nằm trong giấy chứng nhận QSD đất của ông Đặng
Văn L4 thì ông không yêu cầu công nhận diện tích đất này, ông không tranh
chấp gì và đồng ý trả lại cho ông L4.
- Tại đơn yêu cầu độc lập ngày 18/01/2021, quá trình giải quyết vụ án ông
Trần Văn Q1 ủy quyền cho ông Nguyễn Trung C trình bày: Vào năm 2008, ông Q1
nhận chuyển nhượng một phần đất ngang 14m, dài 92m, tổng diện tích 1288m
2
của
vợ chồng ông T, bà H1, đất tọa lạc tại tổ B, ấp D, thị trấn A, huyện P (Nay khu phố
D, phường A, thành phố P), tỉnh Kiên Giang, với giá 252.000.000đ. Ông Q1 đã trả đủ
tiền và nhận đất sử dụng. Việc mua bán hai bên có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ghi ngày 26/6/2008, xác nhận của trưởng ấp. Ông Q1 đã trả đủ tiền cho
vợ chồng ông T nhận phần đất trên quản lý trực tiếp từ đó đến nay. Đã nhiều lần ông
Q1 dự định cất nhà để ở nhưng do tài chính chưa đủ nên chưa thể thực hiện được.
Về nguồn gốc đất, ông Q1 biết đất này đã được Nhà nước cấp giấy cho Thị
T9 năm 1994 mẹ của ông T. Thời điểm chuyển nhượng cha mẹ ông T đã qua đời,
phần đất trên vợ chồng ông T được anh em ông T giao quyền quản , sử dụng định
đoạt. Thời điểm này ông Q1 hoàn toàn không biết việc chuyển nhượng QSD đất giữa
ông H và ông T, ông Q1 chỉ biết vợ chồng ông T nợ tiền của bà B vợ ông H và bà B,
ông H đang giữ giấy của vợ chồng ông T. Khi chuyển nhượng đất cho ông Q1, vợ
chồng ông T hứa slấy lại giấy đất để làm thủ tục tách giấy cho ông Q1 nhưng đến
nay vẫn chưa tách được.
Hiện nay giữa ông Q1 với vợ chồng ông T không có tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng QSD đất. Sự việc tranh chấp giữa ông H vợ chồng ông T đề nghị giải quyết
theo pháp luật.
Đối với quyền lợi của ông Q1 thì ông Q1 yêu cầu giải quyết: Công nhận hợp
đồng chuyển nhượng đất ngày 26/6/2008 giữa ông Q1 với vợ chồng ông T, H1.
Trường hợp Tòa án xử giao đất cho nguyên đơn thì ông Q1 yêu cầu buộc vchồng ông
T, H1 phải bồi thường giá trị diện tích đất đo đạc thực tế 1230,5m
2
theo giá thẩm
định của Tòa án.
Đối với diện tích đất 3,7m
2
nằm trong giấy chứng nhận QSD đất của ông Đặng
Văn L4 tông Q1 không yêu cầu công nhận diện tích đất này, ông Q1 không tranh
chấp gì và đồng ý trả lại cho ông L4.
- Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa những người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan không có yêu cầu độc lập trình bày:
- Huỳnh Thị B ủy quyền cho ông Bùi Hồng Đ trình bày: B thống nhất với
lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của chồng bà là ông Lê Thanh H.
- Ông Bùi Văn T2 bà Trương Thị Nguyệt Y trình bày: Ngày 25/6/2015, ông
8
mua của vợ chồng ông T diện tích mặt tiền 9,6m, hậu 6,5m, dài 36m với g
580.000.000đ. Ông T, H1 cho rằng đất này của ông T, H1, vợ chồng ông T,
H1 kẹt tiền nên bán cho ông bà. Lúc mua bán làm hợp đồng tay có xác nhận của ban
nhân dân khu phố. Lúc mua đất không có giấy chỉsơ đồ, ông T đã phân lô bán nhiều
người.
Đến ngày 09/5/2018, ông bán phần đất này cho vợ chồng ông Nguyễn Trung
C, khi bán cho ông C thì cũng bán đúng diện tích mua của ông T. Ông bà bán cho ông C
với giá 1.350.000.000đ. Hai bên có làm hợp đồng tay với nhau.
Hợp đồng ngày 09/5/2018, ngoài diện tích ngang, dài stiền 1.700.000.000đ
không phải chữ viết của ông bà, còn lại là do bà Trương Thị Nguyệt Y viết. Hai nét chữ
để diện tích và số tiền 1.700.000.000đ là nét chữ khác, không phải nét chữ của bà Y.
Việc tranh chấp giữa ông H với ông T như thế nào thì ông không biết. Ông
không có ý kiến hay yêu cầu gì. Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Ông Nguyễn Thanh N1 trình bày: Phần đất ông đang sử dụng tổ B, khu phố
D, phường A, thành phố P nguồn gốc của ông Bùi Văn M2, Thị T9 (Cha mẹ
ông T) sử dụng trước tiếp thu. Khi ông M2, T9 chết thì phần đất này do ông T, bà H1
quản lý, sử dụng. Sau đó, vợ chồng ông T chuyển nhượng cho ông.
Vào năm 2006, ông nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông T làm 03 lần đến
ngày 03/02/2006 mới lập giấy sang nhượng đất với tổng diện tích 2.360m
2
. Trong đó,
Phan Thị N2 hùn tiền cùng ông mua diện tích 05m ngang (Tổng diện tích khoảng
600m
2
), N2 hiện nay đã chuyển nhượng lại phần đất này cho ông Đình P1, ông
P1 xây dựng 05 căn nhà trọ. Giá chuyển nhượng tại thời điểm đó 47.000.000đ (Trả
tiền thành 03 lần) đã trả đủ cho vchồng ông T. Khi chuyển nhượng làm giấy sang
nhượng đất chỉ có ban lãnh đạo khu phố xác nhận. Ông đã nhiều lần làm hồ sơ xin đăng
quyền sử dụng đất rồi thất lạc, sau đó làm lại giấy hẹn của Phòng T11 nhưng đến
nay vẫn chưa thực hiện, hiện tại ông không được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng
đất.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất ông không xây dựng công trình gì, hiện nay đất
trống. Ông yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ
chồng ông với vợ chồng ông T. Trường hợp hợp đồng giữa ông với vợ chồng ông T bị
tuyên hiệu thì ông yêu cầu vợ chồng ông T trả lại tiền chuyển nhượng đã nhận cho
ông và bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật.
- Phan Thị N2 trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp do mua của vợ
chồng ông T khoảng năm 2003-2004. Lúc mua hợp đồng mua bán tay xác nhận
của ấp, mua diện tích ngang 5m, dài 90m với giá 15.000.000đ. sau đó, cách vài tháng thì
chồng bà là ông N1 mới mua tiếp của vợ chồng ông T diện tích 8m, dài 90m với giá bao
nhiêu thì bà không biết. Khoảng một năm sau thì vợ chồng ông T tiếp tục bán cho bà
ông N1 diện tích đất ngang 10m, dài 45m (Hình cánh buồm) với giá 5.000.000đ. Tổng
cộng ông N1 mua phía trước diện tích ngang 13m, dài 90m nhưng hình chữ L
(Hình cánh buồm) ra với diện tích ngang 10m, dài 45m. Vợ chồng ông T đã đưa đất cho
bà sử dụng.
Sau khi mua bán xong thì vợ chồng ông T đã tách thửa sang tên phần ông
N1 mua qua cho chồng bà ông N1 đứng tên. Đến khoảng năm 2005-2006 thì vợ
chồng bà có bán lại cho vợ chồng ông P1 diện tích ngang 5m, dài 90m với giá
105.000.000đ. Đã thanh toán xong và đã đưa đất cho ông P1 sử dụng. Vợ chồng
đã làm thủ tục sang tên qua cho ông P1 đến nay đã giấy riêng cho ông P1, còn diện
tích còn lại thì vợ chồng bà vẫn đang đứng tên sử dụng.
9
Ông H không dính líu với miếng đất này cả, không đồng ý theo yêu cầu
khởi kiện của ông H, đề nghị xét xử theo pháp luật.
- Bùi Thị N3 trình bày: chị ruột của ông T. Cha mẹ bà tên Bùi Văn M1
Thị T9. Cha mẹ bà 06 người con gồm Bùi Thị D, Bùi Thị N3, Bùi Thị Ú (Đã
chết, chồng Út Nguyễn Văn N7 cũng chết), Bùi Thị H3, Bùi Thị T3 Bùi Văn T.
Phần đất tranh chấp do cha mẹ đlại, do mẹ đứng tên. Sau khi mcủa mất t
anh chị em bà có ký biên bản ngày 07/01/2008 cho em bà là Bùi Văn T đứng tên do T là
em út, thờ cúng cha mẹ. Từ khi ký giao cho T đến nay thì bà không biết gì, T bán cho ai
thì cũng không biết, T cũng không báo cho biết. không yêu cầu đối
với phần đất này, cũng không có ý kiến gì, đề nghị xét xử theo pháp luật.
- Bà Bùi Thị H3 trình bày: chị ruột của ông T. Cha mẹ bà tên Bùi Văn M1
Thị T9. Cha mẹ bà 06 người con gồm Bùi Thị D, Bùi Thị N3, Bùi Thị Ú (Đã
chết, chồng Út Nguyễn Văn N7 cũng chết), Bùi Thị H3, Bùi Thị T3 Bùi Văn T.
Phần đất tranh chấp do cha mẹ bà để lại, do mcủa bà đứng tên. Sau khi mẹ của mất
thì không để lại di chúc, nhưng 06 anh chị em thống nhất biên bản ngày
07/01/2008 cho em là ông Bùi Văn T đứng tên do T em út, thờ cúng cha mẹ. Từ
khi giao cho T đến nay thì bà không biết gì, T bán cho ai thì cũng không biết, T
cũng không báo cho biết. không yêu cầu đối với phần đất này, ng
không có ý kiến gì, đề nghị xét xử theo pháp luật.
- Bùi Thị D trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp giữa ông H với ông T,
H1 là của cha mẹ bà là cụ Bùi Văn M1 và cụ Lê Thị T9 khai khẩn năm nào thì bà không
nhớ. Khi khai khẩn thì bà đã gia đình riêng, bà không phụ giúp gì nhưng về
chung với cha mẹ, khi cha mẹ chết thì anh chị em mỗi người một nơi không sống
chung với nhau nữa. Đất này sau khi cha mẹ chết thì bà đi, để lại cho ông T ở, sau đó
ông T bán cho ai thì không biết, không nói cho biết, lúc biết thì cũng
không phản đối T con út, thờ cúng cha mẹ. Bà không tranh chấp hay yêu cầu
gì trong vụ án này.
- Bà Lê Thị Thu T4 và chồng ông Mai Hữu P2 trình bày: Nhà và đất bà đang sử
dụng tại tổ B, khu phố D, phường A, P do vchồng mua của vchồng ông T. Mua
hai lần bằng giấy tay. Lần thứ nhất vào tháng 12/2008, mua diện tích 6 x15m với giá
bao nhiêu không nhớ vừa mua vừa trừ nợ hụi. Khi mua diện tích đất này không
làm giấy tờ mua bán chỉ làm giấy cho đất, xác nhận của Ban nhân dân ấp 4 ngày
11/12/2008. Lần thứ hai ngày 10/3/2010, vợ chồng mua thêm diện tích 6x10m,
phần hậu của phần đất mua trước với giá 15.000.000đ. đã giao đủ tiền cho vợ chồng
ông T. Việc mua bán làm giấy tay sang nhượng đất. Sau khi mua đất vợ chồng cất
nhà ở. Đến năm 2012 thì tháo dỡ nhà cũ xây lại nhà như hiện nay.
Nguồn gốc đất này theo bà biết do cha mẹ ông T để lại, do mẹ ông T là Lê Thị T9
đứng tên giấy. Khi nhận chuyển nhượng thì các anh em ông T đã làm biên bản họp giao
toàn bộ đất cho ông T, H1 được toàn quyền quản lý, sdụng nhưng hiện nay ông T
vẫn chưa được sang tên giấy.
không biết việc mua bán đất giữa ông H với ông T nhưng nghe H1 nói
cầm giấy chứng nhận QSD đất cho vợ ông H. Việc tranh chấp giữa ông H với vợ chồng
ông T bà đề nghị giải quyết theo pháp luật.yêu cầu công nhận hợp đồng tặng cho và
hợp đồng chuyển nhượng giữa với vợ chồng ông T. Trường hợp Tòa án chấp nhận
yêu cầu của ông H về quyền sử dụng đất tyêu cầu ông T, H1 bồi thường theo
kết quả định giá. Về nhà bà yêu cầu người nào được giao đất phải bồi thường cho bà.
- Ông Mai Hữu P2 thống nhất lời trình bày của bà T4, không yêu cầu gì thêm.
10
- Trần Thu V2 ủy quyền cho anh Trần Quốc H4 trình bày: Đất tranh chấp
nguồn gốc của cụ Bùi Văn M1 cụ Thị T9 là cha mông T sử dụng trước năm
1975. Khi cụ M1, cụ T9 chết thì phần đất này ông T H1 quản lý, sử dụng. Nhưng
thực tế đất này của anh em ông T, di sản thừa kế của cha mẹ ông T để lại. Sau đó,
V2 nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông T vào khoảng năm 2010-2011, diện tích
ngang 6m, dài 21m (Phía sau hiện nay nhà của Thu B1 Quốc T5). Đến năm 2013
nhận chuyển nhượng ngang 5m, dài 24m với giá chuyển nhượng hai lần khoảng
180.000.000đ. làm hợp đồng chuyển nhượng giấy tay chỉ ban lãnh đạo khu phố
xác nhận, có vợ chồng ông T ký nhưng V2 biết anh em ông T họp mặt thống nhất
chuyển nhượng cho V2, cho V2 xem biên bản họp mặt gia đình khoảng năm
2008. V2 đến UBND thị trấn A để xin đăng nhưng UBND thị trấn A xác định
đất này không đủ diện tích tách thửa.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất thì bà V2 cho con là Thu B1 và em ruột là Quốc
T5 cất nhà ở, việc tặng cho chỉ làm giấy tay. V2 yêu cầu công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông T với bà V2. Trường hợp bị tuyên
vô hiệu hợp đồng thì yêu cầu vợ chồng ông T trả lại tiền chuyển nhượng đã nhận và bồi
thường thiệt hại theo quy định pháp luật. Đối với căn nhà cũng phải bồi thường theo kết
quả định giá.
- Thị Thu B1 chồng ông Văn L trình bày: Nđất vợ chồng
đang sử dụng do mẹ là bà Trần Thu V2 cho đất, làm giấy tay cho đất ngày
22/12/2015. Sau khi được mẹ cho thì vchồng cất nhà như hiện nay. Đất này do
mẹ mua của ông T nhưng mua vào thời gian nào tổng diện tích bao nhiêu thì
không rõ. Bà không có tranh chấp gì với mẹ bà, vì đất này do mẹ bà mua của ông T nên
mọi quyết định do mbà, hoàn toàn thống nhất với ý kiến của mẹ. Trường hợp
Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông H thì về phần đất giao mẹ quyết định. Về nhà do
vợ chồng bà cất thì yêu cầu ông H, bà B bồi thường theo kết quả định giá.
- Ông Văn L (Chồng Thu B1) thống nhất theo ý kiến yêu cầu của vợ
bà Thu B1, không có yêu cầu gì khác.
- Ông Trần Quốc T5 trình bày: Nhà và đất ông đang sử dụng do chị ruột bà Trần
Thu V2 cho đất, làm giấy tay cho đất ngày 09/01/2015 xác nhận của Ban nhân
dân ấp ngày 07/6/2015. Sau khi được bà V2 cho đất thì khoảng 01 năm sau ông cất nhà
như hiện nay. Đất này do V2 mua của ông T nhưng mua vào thời gian nào tổng
diện tích bao nhiêu thì ông không rõ. Ông không tranh chấp với V2, đất này
do V2 mua của ông T nên mọi quyết định do bà V2, ông hoàn toàn thống nhất với
ý kiến của V2. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông H thì ông về phần đất
ông giao V2 quyết định. Về nhà do vợ chồng ông cất ông yêu cầu ông H, bà B bồi
thường theo kết quả định giá.
- Bà Võ Kim P3 (Vợ ông Trần Quốc T5): Thống nhất với ý kiến và trình bày của
ông T5, không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm.
- Bà Nguyễn Điền T6 do ông Trần Thành C2 đại diện theo ủy quyền trình bày:
Nhà và đất bà T6 đang sử dụng do vợ chồng bà T6 nhận chuyển nhượng của bà Bùi Thị
N3 (Là chị ruột ông T). T6 mua khoảng năm 2010-2011, mua bằng miệng không
làm giấy tờ với diện tích 5x10m, giá 45.000.000đ. T6 đã giao đủ tiền cho N3
nhưng không làm biên bản giao nhận tiền, khi giao ông T chứng kiến. Sau khi mua
vợ chồng T6 cất nhà hết phần đất không ai tranh chấp. Ông T biết vị trí
phần đất bà N3 bán cho bà T6 là do mẹ ruột của bà N3 cho bà N3. Trước khi bán cho bà
T6 thì bà N3 cất nhà ở, sau khi mua thì bà T6 dỡ căn nhà của bà N3 để cất nhà như hiện
11
nay. Việc mẹ bà N3 cho đất bà N3 có bà T6 và ông T chứng kiến, việc cho đất này cũng
chỉ nói miệng.
T6 không biết việc mua bán giữa ông H với vợ chồng ông thơm. Khi vợ chồng
T6 tất cả các gia đình khác xây cất trên phần đất này tkhông thấy ông H ngăn
cản hay tranh chấp. Việc tranh chấp giữa ông H với vợ chồng ông T T6 đề nghị giải
quyết theo pháp luật. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông H thì bà T6
kiến về đất T6 yêu cầu N3 bồi thường theo định giá. Về nhà người nào được giao
đất thì bồi thường theo định giá.
- Thị N4 (Đã chết), tại biên bản lấy lời khai ngày 16/12/2019 trình bày:
Nhà và đất bà đang s dụng do chồng Huỳnh Thanh T10 (Đã chết) chuyển
nhượng của vợ chồng ông T, bà nhận chuyển nhượng 02 lần. Lần thứ nhất ngày
13/5/2010 nhận chuyển nhượng diện tích ngang mặt trước 12m, mặt sau 11m, dài
20m với giá 74.000.000đ. Cũng trong tháng 5/2010, nhận chuyển nhượng thêm phần
đất phía trước giáp ranh với phần đất đã nhận chuyển nhượng ngày 13/5/2010 với diện
tích ngang 6x 20m với giá 34.000.000đ. Sau khi mua thì vợ chồng nhập chung 02
diện tích đất này lại. Thực tế trước khi ký giấy tờ mua bán đất thì vợ chồng ông T thiếu
nợ vợ chồng bà nên khi trả tiền mua đất có cấn trừ một số tiền nợ trước đó. Đến khi giao
đợt tiền cuối cùng thì vợ chồng với vợ chồng ông T mới làm giấy sang nhượng đất.
Do đó, vợ chồng bà cất nhà ở trước khi làm giấy sang nhượng đất. Bà cất 01 căn nhà để
vợ chồng bà ở trước khi làm giấy sang nhượng đất ngày 13/5/2010 với vợ chồng ông T.
Năm 2013, Huỳnh L1 gia đình nên cho L1 cất căn nhà phía sau nhà bà, đã
giao đủ tiền cho vợ chồng ông T.
không biết việc mua bán giữa ông H với vợ chồng ông T. Khi vợ chồng bà
tất cả các gia đình khác xây cất trên phần đất này thì không thấy ông H ngăn cản hay
tranh chấp. Việc tranh chấp giữa ông H với vợ chồng ông T, H1 thì đnghị giải
quyết theo pháp luật. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông H thì yêu cầu vợ
chồng ông T bồi thường theo định giá. Về nhà yêu cầu người nào được giao đất phải
bồi thường cho bà theo kết quả định giá.
- Anh Huỳnh L1 trình bày: Nhà và đất anh đang sử dụng do mẹ anh bà
Thi N8 cho đất cất nhà năm 2013. Đất này do cha mẹ anh nhận chuyển nhượng của v
chồng ông T nhưng việc chuyển nhượng như thế nào anh không rõ. Mẹ anh nói miệng
cho đất để anh cất nhà nhưng mẹ chưa làm giấy tờ cho đất cho anh. Việc tranh chấp
giữa ông H với vợ chồng ông T anh đề nghị giải quyết theo pháp luật. Trường hợp Tòa
án chấp nhận yêu cầu của ông H thì anh ý kiến về đất thì của mẹ anh không yêu
cầu bồi thường, mọi quyết định của mẹ anh, anh không tranh chấp gì. Về nhà anh
yêu cầu người nào được giao đất phải bồi thường nhà theo định giá.
- Chị Đào Thị Kim H5 (Vợ anh Huỳnh Vũ L1): Thống nhất ý kiến trình bày của
anh L1, không ý kiến hay yêu cầu gì thêm.
- Anh Huỳnh Minh Đ1 trình bày: Anh là con bà Võ Thị N4. Mẹ anh có ba người
con Huỳnh L1, Huỳnh Minh C3 anh. Còn cha anh đã chết. Sau khi mẹ anh chết
thì anh em của anh đã tháo dỡ căn nhà mẹ anh xây, còn căn nhà của Huỳnh L1
thì vẫn còn. Anh thống nhất với phần trình bày của mẹ anh trước đây, không có bổ sung
gì thêm.
- Anh Huỳnh Minh C3 trình bày: Anh là con bà Võ Thị N4. Mẹ anh có ba người
con Huỳnh L1, Huỳnh Minh Đ1 anh. n cha anh đã chết. Việc chuyển nhượng
đất giữa mẹ anh vợ chồng ông T anh nghe nhưng không trực tiếp chứng kiến.
Sau khi mẹ anh chết thì anh em của anh đã tháo dỡ căn nhà mà mẹ anh xây, còn căn nhà
12
của Huỳnh L1 thì vẫn còn. Anh không yêu cầu độc lập trong vụ án, sau khi Tòa
xử xong nếu quyền lợi của anh bị ảnh hưởng thì anh sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác.
- Anh Trần Thành C2 người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời
đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Điền T6 trình bày: Trên đất tranh chấp T6
xây dựng 01 căn nhà, ngoài căn nhà này ra T6 không xây dựng hay trồng trọt
thêm. Căn nhà này khoảng 03 năm trước bà T6 chồng ông C1 đã chuyển
nhượng lại cho vợ chồng anh với giá 450.000.000đ. Hai bên làm hợp đồng giấy tay
với nhau. Anh đã giao đủ tiền T6 đã giao nhà đất cho anh quản lý, sử dụng. Anh
không yêu cầu giải quyết hợp đồng giữa anh với bà T6 trong vụ án này. Khi nào Tòa xử
xong nếu quyền lợi của anh bị ảnh hưởng thì anh sẽ kiện vợ chồng bà T6 bằng một vụ
án khác. Bà T6 cũng không có yêu cầu độc lập gì trong vụ án này, khi nào quyền lợi của
T6 bị ảnh hưởng thì bà T6 sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
- Chị Nguyễn Thị Mộng T7 (Vợ anh C2): Thống nhất với lời trình bày của anh
C2, không yêu cầu gì thêm.
- Ủy ban nhân dân phường A trình bày: Quyền sdụng đất các bên đang
tranh chấp đã được cấp giấy CNQSD đất s100225, ngày 22/3/1994. Năm 2004, giữa
hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng QSD đất với nhau đã được UBND thị trấn (Nay
phường) An Thới chứng thực ngày 10/9/2004. Qua kiểm tra Bản đồ địa chính m
1994 (Sơ đồ 14), thửa đất các bên tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng ngày 10/9/2004,
thửa đất được khai đo đạc ghi tên Thị T9, thửa đất số 98, tờ bản đồ số 4, diện
tích 5.714m
2
, vị trí đất tại ấp D (Nay khu phố D), phường A Hơn nữa, việc mua bán
chuyển nhượng giữa đôi bên diễn ra từ năm 2004. Đồng thời, việc tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng giữa đôi bên đã được UBND phường A tổ chức hòa giải. Do vậy, việc
Tòa án đưa UBND phường A vào tham gia tố tụng với cách người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan chưa phù hợp, quyền sử dụng đất này đã được UBND huyện P
cấp giấy cho hộ gia đình, cá nhân cụ thể cấp cho bà Thị T9. UBND phường A
đề nghị Tòa án tổ chức thẩm tra, xác minh, giải quyết theo quy định.
- Luật sư Phạm Hữu P bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn có ý kiến tại
phiên toà thẩm: Hợp đồng chuyển nhượng ngày 10/9/2004 không hợp pháp, vi
phạm điều cấm vì: Theo Điều 188 Luật Đất đai thì điều kiện chuyển nhượng QSD đất
phải được cấp giấy chứng nhận QSD đất, tại thời điểm chuyển nhượng đất đứng tên cụ
T9, cụ T9 chết không để lại di chúc, các đồng thừa kế chưa phân chia di sản thừa kế nên
chưa đủ cơ sở để xác lập hợp đồng.
Hợp đồng có chữ ký của bà H5, theo giám định đã xác định không phải chữ ký của
H5. Tại phiên tòa, nguyên đơn cũng xác nhận tại thời điểm hợp đồng không
mặt bà H5 mà cơ quan xác nhận vẫn xác nhận hợp đồng là vi phạm nghiêm trọng.Trong
hợp đồng ghi thanh toán một lần bằng tiền mặt, nhưng tại phiên tòa nguyên đơn thừa
nhận không có trả tiền theo hợp đồng chuyển nhượng mà trừ số nợ của vợ chồng bà H5
nợ trước đó. Đồng thời, việc chuyển nhượng không có thực tế, vì chưa giao đất, nguyên
đơn cho rằng có giao đất và cho bị đơn ở nhờ nhưng không có chứng cứ chứng minh.Do
đó, hợp đồng hiệu do vi phạm điều cấm theo Điều 123, 124 BLDS năm 2015. Đề
nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
* Tại bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 29/01/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Thanh H
đối với bị đơn ông Bùi Văn T, Thị Thu H1 v“Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
13
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bđơn ông Bùi Văn T, bà Thị Thu H1 đối
với nguyên đơn ông Lê Thanh H.
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Bùi Văn T,
Thị Thu H1 với ông Thanh H được UBND thị trấn A, huyện P (Nay UBND
phường A, thành phố P), tỉnh Kiên Giang chứng thực ngày 10/9/2004 vô hiệu.
Buộc ông Thanh H Huỳnh Thị B nghĩa vụ hoàn trả cho bà Thị
Thu H1 và những thừa kế của ông Bùi Văn T gồm anh Bùi Thanh V1, chị Bùi Thị H2
và chị Bùi Thị N giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I00225, cấp ngày 22/3/1994 tên
Lê Thị T9, diện tích 5.714,0m
2
, thửa số 78, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp D, thị trấn
A, huyện P (Nay là khu phố D, phường A, thành phố P), tỉnh Kiên Giang.
Trường hợp ông H, B không tnguyện giao trả giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nói trên cho bà H1 những người thừa kế của ông T tH1 những
người thừa kế của ông T quyền yêu cầu quan nhà nước về quản đất đai cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Bùi Văn T, Lê Thị Thu H1 tự nguyện hoàn trả
cho ông Lê Thanh H, bà Huỳnh Thị B số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi
hành án xong khoản tiền trên, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của những người quyền lợi, nghĩa vliên quan
ông Nguyễn Huy Q và vợ Nguyễn Thị Tú A; ông Nguyễn Trung C vợ Nguyễn
Thị M; ông Vũ Đình P1 và vợ bà Lê Thị O và ông Trần Văn Q1.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất cho ông Nguyễn Huy Q vợ Nguyễn Thị
A quản lý, sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế 456,9m
2
, tọa lạc tại khu phố D,
phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất cho ông Nguyễn Trung C vợ bà Nguyễn
Thị Mãoquản L6, sdụng diện tích đất đo đạc thực tế 291,9m
2
, tọa lạc tại khu phố D,
phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất cho ông Đình P1 vợ Thị O quản
lý, sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế 507,1m
2
, tọa lạc tại khu phố D, phường A, thành
phố P, tỉnh Kiên Giang.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất cho ông Trần Văn Q1 quản lý, sử dụng diện
tích đất đo đạc thực tế 1230,5m
2
, tọa lạc tại khu phố D, phường A, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang.
Diện tích đất của các đương sự được thể hiện tại Biên bản xem xét, thẩm định tại
chỗ ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang Tờ
trích đo địa chính đất tranh chấp số TĐ: 51-2020, ngày 01/4/2020 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố P, tỉnh Kiên Giang (Kèm theo).
Các đương sự quyền, nghĩa vụ tự liên hệ quan nhà nước thẩm quyền để
tách thửa, sang tên quyền sử dụng đất khi đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
đất đai.
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và báo quyền kháng
cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 01/02/2024, nguyên đơn ông Lê Thanh H có đơn kháng cáo với nội dung:
14
Yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 11/9/2004
(Hợp đồng đã được UBND thị trấn A (N là phường A) chứng nhận. Buộc bà Lê Thị Thu
H1 và các thừa kế ông Bùi Văn T giao trả diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 78 năm 1994. Buộc những người đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau
này di dời toàn bộ công trình xây dựng để trả lại cho ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Thanh H giữ nguyên kháng cáo và đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo.
Phía bị đơn không kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án
thẩm s11/2024/DS-ST ngày 29/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc,
tỉnh Kiên Giang.
*Ông Bùi Hồng Đ đại diện nguyên đơn tranh luận: Hợp đồng chuyển nhượng
giữa ông H ông T đã được UBND An Thới xác nhận, diện tích đất mà ông T chuyển
nhượng đã giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do T9 mẹ ông T đứng tên. Hợp
đồng chuyển nhượng này là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật tại thời điểm đó.
T9 chết năm 1994 không để lại di chúc, gia đình đã biên bản họp thống nhất giao
lại cho ông T, ông T chuyển nhượng cho ông H đúng pháp luật. Mặc ông T chưa
đứng tên nhưng theo quy định của pháp luật về thừa kế là hợp pháp.
Giá chuyển nhượng 70 triệu, trong đó đất 50 triệu, thành quả 20 triệu. Ông H đã
giao đủ tiền thông qua các biên nhận. Khi ông T thiếu tiền ông H thế chấp giấy đất,
hết thời hạn ông T không trả được tiền cho ông H nên ông H giải chấp có cơ sở. Hợp
đồng này các bên đã giao nhận đất và tiền xong. Tuy nhiên sau đó ông T ợn lại để ở.
H1 cho rằng chỉ thiếu 20 triệu đồng là không đúng. Thời điểm 2005, 2006 ông T
H1 lại bán cho người khác, khi đó ông H đã thưa lên chính quyền địa phương. Tại biên
bản hòa giải của UBND An Thới vào năm 2006 H1 cũng thừa nhận bà đã nhận 70
triệu và thế chấp giấy đất. Lời thừa nhận tại biên bản này phù hợp với lời khai ông H.
Án sơ thẩm cho rằng hợp đồng vô hiệu là không có cơ sở. Bà H1 thiếu tiền ông H và có
cam kết trong thời hạn nhất định không trả thì sẽ dùng giấy đất cấn trừ. Gần ba năm ông
H mới giải chấp. Đề nghị HĐXX công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng
đất giữa ông T ông H, yêu cầu gia đình H1 giao lại đất cho ông H. Những người
đã nhận chuyển nhượng thì yêu cầu di dời trả lại hiện trạng đất cho ông H. Đề nghị chấp
nhận kháng cáo của ông Lê Thanh H.
*LS Phạm Phú V trình bày tranh luận: Hoàn toàn thống nhất với luật Đ, Bản
án thẩm tuyên hợp đồng vô hiệukhông có cơ sở. do phần nhận định nhận định
hợp đồng không đúng pháp luật nhưng lại công nhận yêu cầu đọc lập là mâu thuẫn. Các
chứng cứ mới nguyên đơn cung cấp là có cơ sở. Đề nghị chấp nhận kháng cáo.
*LS Phạm Hữu P trình bày tranh luận: Bản án sơ thẩm đã tuyên là có cơ sở.
Về chứng cứ mới giấy thế chấp. Hợp đồng các bên đã thực hiện chưa, đã giao
nhận với nhau chưa. Theo tôi là hợp đồng hiệu do vi phạm điều cấm. Thứ nhất biên
bản họp gia đình lập năm 2002, có 7 người thì có 6 người đúng họ tên còn một người là
không đúng, biên bản không nói thửa đất nào, không nói về thân nhân, chỉ ủy quyền
cho ông T đứng tên trên giấy, không ủy quyền cho ông T có quyền chuyển nhượng. Ông
T không có quyền đối với quyền sử dụng đất,
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang nêu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa
và việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự, từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội
đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự.
15
- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên
đơn ông Thanh H, sửa bản án dân sự thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 29/01/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang theo hướng miễn toàn bộ án
phí cho ông H.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra công bố
công khai tại phiên tòa căn cứ kết quả tranh luận, trên sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Thanh H về nội dung,
quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo thời hạn kháng cáo đã đúng quy định tại các
Điều 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xchấp nhận xem
xét giải quyết kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm những người vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt nên áp
dụng khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xvắng mặt theo
quy định.
Đối với quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ kiện, theo yêu cầu phản tố của bị đơn
đó là yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất nhưng cấp sơ thẩm thụ lý yêu
cầu đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử
sửa lại phần xác định quan hệ pháp luật tranh chấp nhưng không ảnh hưởng tới nội dung
của vụ án.
[2] Về nội dung kháng cáo của bản án sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Lê Thanh H có đơn kháng cáo với nội dung: Yêu cầu công nhận
hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất ngày 11/9/2004 (Hợp đồng đã được
UBND thị trấn A (N phường A) chứng nhận. Buộc Thị Thu H1 các thừa kế
ông Bùi Văn T giao trả diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 78 năm
1994. Buộc những người đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau này di dời toàn
bộ công trình xây dựng để trả lại cho ông.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/9/2004, giữa ông H với
ông T, H1 thấy rằng: Hợp đồng được lập thành văn bản, chứng thực của UBND
thị trấn A theo đúng quy định về hình thức hợp đồng tại Điều 691 Bộ luật Dân sự năm
1995 điểm b khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai năm 2003. Tuy nhiên, đến nay ông H
vẫn chưa đăng ký biến động sang tên theo quy định pháp luật.
Về nội dung hợp đồng thể hiện: Ông Bùi Văn T chuyển nhượng cho ông
Thanh H diện tích đất 5.714m
2
, thửa số 78, tờ bản đồ số 4, với giá 50.000.000đ, tài sản
trên đất 20.000.000đ, tổng 70.000.000đ, thời điểm thanh toán tiền mặt một lần. Đại diện
bên chuyển nhượng ký tên “Lê Thị Thu H1” “Thơm”.
Ông T, bà H1 cho rằng ông không hợp đồng chuyển nhượng ngày
10/9/2004 cho ông H, B do vợ ông thiếu bà B 20.000.000đ nên đã giao giấy
chứng nhận quyền sdụng đất cho vchồng ông H. Đồng thời, năm 2004 người đứng
tên giấy đất là mẹ ông tên Lê Thị T9, khi cha mẹ ông chết không để lại di chúc nên thửa
đất trên thuộc quyền thừa kế chung của 06 anh chị em của ông, nên vợ chồng ông không
có quyền chuyển nhượng.
Xét lời khai nại của ông T thấy rằng: Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của cụ
Bùi Văn M1 và cụ Lê Thị T9 khai khẩn. Năm 1982, cụ M1 chết. Năm 1994, cụ T9 được
cấp giấy chứng nhận QSD đất diện tích 5.714m
2
, thuộc thửa số 78, tờ bản đồ số 4, tọa
16
lạc tại ấp D, thị trấn A, huyện P (Nay là khu phố D, phường A, thành phố P), tỉnh Kiên
Giang, theo giấy chứng nhận QSD đất số I 00225, do UBND huyện P cấp ngày
22/3/1994. Năm 1996, cụ T9 chết không để lại di chúc.
Cụ M1 cụ T9 tất cả 06 người con gồm: Bùi Thị D, Bùi Thị N3,
Bùi Thị Ú, Bùi Thị H3, Bùi Thị T3 ông Bùi Văn T.Ngày 07/01/2008, các con
của cụ M1 cụ T9 gồm các ông trên lập biên bản họp mặt gia đình với nội dung
thống nhất để lại thửa đất của cụ M1 cụ T9 cho ông Bùi Văn T vợ bà Thị Thu
H1 được toàn quyền quyết định sử dụng. Biên bản được chứng thực tại UBND thị
trấn A cùng ngày. Tuy nhiên, đến nay ông T bà H1 vẫn chưa làm thủ tục sang tên
giấy chứng nhận QSD đất theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa thẩm, nguyên đơn cung cấp biên bản họp gia đình ngày
15/9/2002, với nội dung các anh chị em ông T đồng ý để thửa đất lại cho ông T sở hữu.
Tuy nhiên, qtrình xác minh các anh chị em ông T gồm N3, D, Ú H3
đều chỉ thừa nhận biên bản họp gia đình năm 2008 có UBND thị trấn A xác nhận. Đồng
thời, tại biên bản họp gia đình năm 2002 tên Bùi Thị S một trong những người
con của cụ T9, không có tên bà Bùi Thị D. Nhưng các anh chị em ông T và cả ông T, bà
H1 xác nhận, anh em ông T gồm có bà Bùi Thị D, Bùi Thị N3, ông Bùi Văn H8 (Đã
chết), Bùi Thị Ú, bà Bùi Thị H3, Bùi Thị T3 và ông Bùi Văn T, không ai tên
Bùi Thị S. Do đó, biên bản họp gia đình năm 2002 nguyên đơn cung cấp không
giá trị pháp lý (BL 85, 86, 341,344, 147).
Ông T cho rằng hợp đồng chuyển nhượng QSD đất ngày 10/9/2004, không phải
chữ của ông T, H1 yêu cầu giám định chữ ký. Tại kết luận giám định số
548/KL-KTHS ngày 11/8/2020 của Phòng K2 Công an tỉnh K kết luận: Chữ viết ghi h
tên “Lê Thị Thu H1” trên mẫu cần giám định hiệu A so với chữ viết ghi htên
Thị Thu H1trên các mẫu so sánh hiệu từ M1 đến M7 không phải do cùng một
người viết ra. Chữ dạng đọc được “Thơmmang tên Bùi Văn T trên mẫu cần giám
định hiệu A so với chữ dạng đọc được “Thơm” chmang tên Bùi Văn T
trên các mẫu so sánh hiệu M5, M6 từ M9 đến M16 do cùng một người ký ra (BL
248, 249).
Như vậy, thời điểm hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng giấy chứng nhận QSD
đất vẫn còn đứng tên cụ Lê Thị T9, cụ T9 chết không để lại di chúc và những hàng thừa
kế của cụ T9 chưa chia thừa kế, do đó thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng ông T, bà
H1 chưa phải chủ sở hữu quyền sử dụng đất trên. Chữ trên hợp đồng chuyển
nhượng không phải chữ ký của bà H1. Tới thời điểm hiện nay ông H8 vẫn chưa làm th
tục biến động sang tên theo quy định của pháp luật. Đồng thời, tại biên bản xác minh
ông Huỳnh Văn H7 khẳng định không chứng kiến việc hai bên kết hợp đồng
chuyển nhượng ngày 10/9/2004 (BL 465).
Ông H8 cho rằng ông đã giao đủ tiền cho ông T ông T đã giao đất cho ông,
nhưng do ông H8 S nên nhờ ông T giữ đất. Tuy nhiên, việc giao nhận tiền cũng như
giao đất ông H8 không chứng cứ chứng minh. Đồng thời, tại phiên tòa thẩm ông
H8 thừa nhận ông không có giao tiền cho vợ chồng ông T số tiền 70.000.00theo hợp
đồng chuyển nhượng mà do vợ chồng ông T nợ tiền ông nên trừ số nợ này. Như vậy, hai
bên không có giao nhận tiền thực tế theo hợp đồng chuyển nhượng đã ký kết. Mặt khác,
đất này ông T, H1 vẫn sử dụng tđó cho đến nay và đã chuyển nhượng cho nhiều
người những hộ nhận chuyển nhượng đã sử dụng xây dựng nhà trên đất trên 10
căn nhà từ năm 2008 đến nay nhưng ông H8 không ý kiến gì, mặc dù ông khai rằng
17
ông S nhưng địa chỉ thường trú ông cung cấp trong hkhởi kiện ông vẫn tổ B,
khu phố H, phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang, gần với phần đất tranh chấp.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy hợp đồng chuyển nhượng
QSD đất ngày 10/9/2004 xác lập giữa ông T với ông H8 hiệu do vi phạm điều cấm
của luật theo quy định tại Điều 136, 137 Bộ luật Dân sự năm 1995 Điều 106 Luật
Đất đai năm 2003.
[5] Về hậu quả của hợp đồng hiệu: Theo Điều 146 Bộ luật Dân sự năm 1995
thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ
thời điểm xác lập. Khi giao dịch dân sự hiệu các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những đã nhận, không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải
hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Về nghĩa vụ hoàn trả: Ông H8 cho rằng chuyển nhượng diện tích trên với giá
50.000.000 đồng công trình 20.000.000 đồng, tổng cộng 70.000.000 đồng. Đã giao
đủ tiền nhưng không làm biên nhận. Tại phiên tòa ông cho rằng không giao tiền theo
hợp đồng chuyển nhượng trừ số nợ vợ chồng ông T đã nợ ông trước đó. Ông T,
H1 không thừa nhận chuyển nhượng cho ông H8 không thừa nhận nhận tiền
chuyển nhượng, ông cho rằng chỉ mượn của vợ ông H8 bà B số tiền
20.000.000đ, ông bà đồng ý trả số tiền này cho vợ chồng ông H8. Xét thấy, ông H8 cho
rằng đã trả đủ tiền chuyển nhượng nhưng không có chứng cứ chứng minh, bị đơn không
thừa nhận nên không căn cứ buộc ông T, H1 hoàn trả số tiền chuyển nhượng
70.000.000 đồng cho ông H8.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông T, H1 đồng ý trả số tiền 20.000.000đ cho ông
H8, bà B.
Do ông H8 chưa nhận đất đất hiện tại vẫn do ông T, H1 quản nên không
buộc ông H8 phải hoàn trả đất chuyển nhượng.
Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Quá trình giải quyết vụ án, ông H8 không
yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hợp đồng vô hiệu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Xét yêu cầu độc lập của những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Huy Q vợ bà Nguyễn Thị A; ông Nguyễn Trung C và vợ bà Nguyễn Thị
M; ông Vũ Đình P1 và vợ bà Lê Thị O và ông Trần Văn Q1, Hội đồng xét xử xét thấy:
Đối với ông Nguyễn Huy Q và vợ Nguyễn Thị A thì năm 2006, nhận
chuyển nhượng 456,9m
2
đất của vợ chồng ông T, H1, với giá 20.000.000đ, đã trả đủ
tiền nhận đất sdụng. Việc mua bán hai bên làm hợp đồng chuyển nhượng,
xác nhận của trưởng ấp. Đến năm 2008, ông cất một căn nhà cấp 4 đến nay. Yêu
cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 07/6/2006 giữa ông với vợ chồng
ông T, H1. Trường hợp xgiao đất cho nguyên đơn thì yêu cầu buộc vchồng ông
T, H1 phải bồi thường giá trị diện ch đất 456,9m
2
đã chuyển nhượng theo giá thẩm
định của Tòa án. Buộc nguyên đơn ông H8 bồi thường giá trị căn nhà vật kiến trúc
theo định giá là 147.631.000đ; cây trồng trị giá 1.068.000đ.
Đối với ông Nguyễn Trung C và bà Nguyễn Thị M thì năm 2018, ông bà có nhận
chuyển nhượng 295,2m
2
đất của vợ chồng ông Bùi Văn T2 và bà Trương Thị Nguyệt Y,
với giá 1,4 tđồng. Đã trả đủ tiền nhận đất sử dụng, việc mua bán trên hai bên
làm hợp đồng chuyển nhượng, có xác nhận của trưởng khu phố ngày 09/5/2018. Sau khi
mua đất ông tiến hành cất một căn nhà để và cất 07 phòng trọ cho thuê, từ khi xây
cất nhà cho đến nay không ai ngăn cản hay tranh chấp. Về nguồn gốc đất, năm 2015 vợ
chồng ông T2, Y nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông T, sau đó chuyển nhượng lại
cho vợ ông bà năm 2018. Tại thời điểm chuyển nhượng với vợ chồng ông T2, ông bà có
18
hỏi tìm đến vchồng ông T được vợ chồng ông T cho xem biên bản họp mặt gia
đình ghi ngày 07/01/2008 giữa anh chị em ông T, giao cho ông T toàn quyền định đoạt
khu đất của cha mẹ để lại. Nay ông yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất
ngày 09/5/2018 giữa ông với vợ chồng ông Bùi Văn T2, Trương Thị Nguyệt Y.
Trường hợp Tòa án xử giao đất cho nguyên đơn thì yêu cầu buộc vợ chồng ông T2,
Y phải bồi thường cho giá trị diện tích đất 291,9m
2
theo thẩm định của Tòa án. Buộc
nguyên đơn ông H8 bồi thường giá trị các căn nhà vật kiến trúc theo định giá là
1.029.586.000đ.
Đối với ông Đình P1 Thị O tnăm 2008, ông nhận chuyển
nhượng diện tích đất ngang 05m, dài 90m, tổng diện tích 450m
2
của ông Nguyễn Thanh
N1 vợ bà Phan Thị Năng . Đã trả đủ tiền và nhận đất sử dụng. Việc mua bán trên hai
bên làm hợp đồng chuyển nhượng, xác nhận của trưởng khu phố ngày 31/5/2008.
Sau khi mua đất, ông trồng cây Tràm, đến năm 2017 thì thu hoạch, sau đó xây dựng
05 phòng trọ cho thuê.Nguồn gốc đất vào năm 2006, vợ chồng ông N1, N2 nhận
chuyển nhượng từ vợ chồng ông T, sau đó chuyển nhượng lại cho ông bà năm 2008. Tại
thời điểm chuyển nhượng với vợ chồng ông N1, ông bà có hỏi và tìm đến vợ chồng ông
T và được ông bà cho biết phần đất ông bà định chuyển nhượng đúng là đất do ông T đã
chuyển nhượng cho vợ chồng ông N1 cho xem biên bản họp mặt gia đình ghi ngày
07/01/2008 giữa anh chị em ông T giao cho ông T toàn quyền định đoạt khu đất của cha
mẹ để lại. Nay ông yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 31/5/2008
giữa ông bà với vợ chồng ông N1, bà N2. Trường hợp Tòa xử giao đất cho nguyên đơn
thì yêu cầu buộc vợ chồng ông N1, bà N2 phải bồi thường cho giá trị diện tích đất
450m
2
đã chuyển nhượng theo giá thẩm định của Tòa án. Buộc nguyên đơn ông H8 bồi
thường giá trị căn nhà và vật kiến trúc theo định giá 544.483.000đ; cây trồng trị giá
580.000đ.
Đối với ông Trần Văn Q1 thì năm 2008, ông Q1 nhận chuyển nhượng một
phần đất ngang 14m, dài 92m, tổng diện tích 1288m
2
của vợ chồng ông T, bà H1, với
giá 252.000.000đ. Việc mua bán hai bên làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ghi ngày 26/6/2008, xác nhận của trưởng ấp. Ông Q1 đã trả đủ tiền cho vợ
chồng ông T nhận phần đất trên quản sử dụng tđó đến nay. Ông yêu cầu công
nhận hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 26/6/2008 giữa ông với vchồng ông T,
H1. Trường hợp Tòa án xử giao đất cho nguyên đơn thì ông yêu cầu buộc vợ chồng ông
T, bà H1 phải bồi thường giá trị diện tích đất 1288m
2
theo giá thẩm định của Tòa án.
Xét thấy, hợp đồng chuyển nhượng giữa các đương sự hợp đồng tay, không
công chứng chứng thực theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các bên đều thừa nhận
đã nhận đủ tiền đã giao đất cho các đương squản lý, sdụng từ khi nhận chuyển
nhượng cho đến nay. Các hộ đã xây dựng nhà, công trình kiên cố sinh sống ổn định,
thực hiện nghĩa vụ thuế cho nhà nước, những hộ đã đi khai đứng tên đồ địa
chính. Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, phía bị đơn ông T, H1 không
tranh chấp đối với các đương sự này cũng đồng ý giao đất đã chuyển nhượng cho
họ, nên cần giữ nguyên hiện trạng nhà, đất hiện nay cho các hộ quản lý, sử dụng. Các
đương sự quyền, nghĩa vụ tự liên hệ quan nhà nước thẩm quyền để tách thửa,
sang tên quyền sử dụng đất khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật đất đai.
Tại phiên tòa cấp phúc thẩm, nguyên đơn ông Thanh Hoàng cung C4 chứng
cứ mới giấy thế chấp đối với số tiền 70 triệu đồng nhưng không được phía bị đơn
thừa nhận, do cấp sơ thẩm nguyên đơn không có yêu cầu này nên Tòa án cấp sơ thẩm đã
không xem xét. Nguyên đơn cung cấp chứng cứ giấy thế chấp ngày 19/10/2001 nếu
19
yêu cầu thì sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện khác đối với số tiền 70 triệu theo giấy
thế chấp này.
[7] Bản án thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H8;
chấp nhận yêu cầu phản tcủa bị đơn ông T, H1; chấp nhận một phần yêu cầu độc
lập của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là sở, phù hợp với quy định của
pháp luật.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thảo luận nghị án, Hội đồng
xét xử thống nhất chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận nội
dung kháng cáo của nguyên đơn ông Thanh H, sửa bản án sơ thẩm số 11/2024/DS-
ST ngày 29 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang về phần án phí.
[8] Về chi phí tố tụng:
Ông H khởi kiện không được chấp nhận nên phải chịu chi phí xem xét thẩm định
tại chỗ 5.938.000đ, chi phí thẩm định g21.110.997đ. Tổng cộng 27.048.997đ. Ông H
đã nộp xong.
Về chi phí giám định số tiền 5.140.000đ, do ông Nguyễn Huy Q tạm ứng chi.
Ông H khởi kiện không được chấp nhận nên phải chịu chi phí giám định. Buộc ông H
phải hoàn trả cho ông Nguyễn Huy Q số tiền 5.140.000đ.
[9] Về án phí dân sự:
[9.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông H khởi kiện không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự không giá
ngạch số tiền 600.000đ. Tuy nhiên ông H người cao tuổi nên được miễn án phí. Trả
lại cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ, theo biên lai thu số 0006702,
ngày 11/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú QuốP5 (N thành phố P),
tỉnh Kiên Giang.
Ông T, bà H1 yêu cầu phản tố được chấp nhận nên không phải chịu án phí đối với
yêu cầu phản tố. H1 những người thừa kế của ông T phải chịu án ptrên số tiền
phải hoàn trả 20.000.000đ nên án phí phải chịu 1.000.000đ và án phí đối với yêu cầu
độc lập của những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được chấp nhận số tiền
1.200.000đ. Tổng cộng 2.200.000đ. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí ông T, H1 đã
nộp 600.000đ, theo biên lai thu số 0007760 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, H1 những người thừa kế của ông T còn
phải tiếp tục nộp số tiền 1.600.000đ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Huy Q, Nguyễn Thị Tú A
yêu cầu độc lập được chấp nhận nên không phải chịu án phí. Hoàn trả số tiền tạm ứng
án phí ông Q, bà Tú A đã nộp 34.429.000đ, theo biên lai thu số 0007561, ngày
21/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đình P1 bà Thị O yêu cầu
độc lập được chấp nhận nên không phải chịu án phí. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí
ông P1, bà O đã nộp 38.756.000đ, theo biên lai thu số 0007545, ngày 20/10/2020 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trung C Nguyễn Thị
M yêu cầu độc lập được chấp nhận nên không phải chịu án phí. Hoàn trả số tiền tạm
ứng án phí ông C, bà M đã nộp 37.626.000đ, theo biên lai thu số 0007546, ngày
20/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn Q1 yêu cầu độc lập được
chấp nhận nên không phải chịu án phí. Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí ông Q1 đã nộp
20
55.733.676đ, theo biên lai thu số 0000072, ngày 22/01/2021 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang.
[9.2] Án phí dân sự phúc thẩm:
Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn ông Thanh H
phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên do ông H người cao tuổi
nên không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Thanh H
- Sửa bản án dân sthẩm số 11/2024/DS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang về phần án phí.
Căn cứ các Điều 5, 26, 35, 147,157, 161, 165, 271,273 280 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;Điều 136, 137, 146 và 691 BLDS năm 1995; Điều 106 và khoản 1 Điều 127
Luật Đất đai năm 2003; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Thanh H
đối với bị đơn ông Bùi Văn T, Thị Thu H1 v“Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Bùi Văn T, Thị Thu H1 đối
với nguyên đơn ông Lê Thanh H.
Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Bùi Văn T,
Thị Thu H1 với ông Thanh H được UBND thị trấn A, huyện P (Nay UBND
phường A, thành phố P), tỉnh Kiên Giang chứng thực ngày 10/9/2004 vô hiệu.
Buộc ông Thanh H Huỳnh Thị B nghĩa vụ hoàn trả cho bà Thị
Thu H1 và những thừa kế của ông Bùi Văn T gồm anh Bùi Thanh V1, chị Bùi Thị H2
và chị Bùi Thị N giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I00225, cấp ngày 22/3/1994 tên
Lê Thị T9, diện tích 5.714,0m
2
, thửa số 78, tờ bản đồ số 04, đất tọa lạc tại ấp D, thị trấn
A, huyện P (Nay là khu phố D, phường A, thành phố P), tỉnh Kiên Giang.
Trường hợp ông H, B không tnguyện giao trả giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nói trên cho bà H1 những người thừa kế của ông T tH1 những
người thừa kế của ông T quyền yêu cầu quan nhà nước về quản đất đai cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Bùi Văn T, Lê Thị Thu H1 tự nguyện hoàn trả
cho ông Lê Thanh H, bà Huỳnh Thị B số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi
hành án xong khoản tiền trên, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của những người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Nguyễn Huy Q vNguyễn Thị A; ông Nguyễn Trung C vợ
Nguyễn Thị M; ông Vũ Đình P1 và vợ bà Lê Thị O và ông Trần Văn Q1.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất cho ông Nguyễn Huy Q vợ Nguyễn Thị
A quản lý, sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế 456,9m
2
, tọa lạc tại khu phố D,
phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
21
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất cho ông Nguyễn Trung C vNguyễn
Thị M quản lý, sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế 291,9m
2
, tọa lạc tại khu phố D,
phường A, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất cho ông Đình P1 vợ Thị O quản
lý, sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế 507,1m
2
, tọa lạc tại khu phố D, phường A, thành
phố P, tỉnh Kiên Giang.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất cho ông Trần Văn Q1 quản lý, sử dụng diện
tích đất đo đạc thực tế 1230,5m
2
, tọa lạc tại khu phố D, phường A, thành phố P, tỉnh
Kiên Giang.
Diện tích đất của các đương sự được thể hiện tại Biên bản xem xét, thẩm định tại
chỗ ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang Tờ
trích đo địa chính đất tranh chấp số TĐ: 51-2020, ngày 01/4/2020 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố P, tỉnh Kiên Giang (kèm theo).
Các đương sự quyền, nghĩa vụ tự liên hệ quan nhà nước thẩm quyền để
tách thửa, sang tên quyền sử dụng đất khi đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
đất đai.
4. Về chi phí tố tụng:
Buộc ông Thanh H phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 5.938.000
đồng, chi phí thẩm định giá 21.110.997 đồng. Tổng cộng 27.048.997 đồng (Hai mươi
bảy triệu không trăm bốn mươi tám nghìn chín trăm chín mươi bảy đồng). Ông H đã
nộp xong.
Buộc ông Lê Thanh H phải hoàn trả cho ông Nguyễn Huy Q chi phí giám định số
tiền 5.140.000 đồng (Năm triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng).
5. Về án phí dân sự:
5.1 Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Thanh H không phải chịu. Hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã
nộp 300.000 đồng, theo biên lai thu số 0006702, ngày 11/9/2019 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Phú QuốP5 (N là thành phố P), tỉnh Kiên Giang.
Thị Thu H1 những người thừa kế của ông Bùi Văn T gồm anh Bùi
Thanh V1, chị Bùi Thị H2 chị Bùi Thị N phải chịu án phí số tiền 2.200.000 đồng.
Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 600.000 đồng, theo biên lai thu số 0007760 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, bà Lê Thị
Thu H1 những người thừa kế của ông i Văn T gồm anh Bùi Thanh V1, chị Bùi
Thị H2 chị Bùi Thị N còn phải tiếp tục nộp án phí số tiền 1.600.000 đồng (Một triệu
sáu trăm nghìn đồng).
Hoàn trả cho ông Nguyễn Huy Q Nguyễn Thị A số tiền tạm ứng án phí
đã nộp 34.429.000 đồng (Ba mươi bốn triệu bốn trăm hai mươi chín nghìn đồng), theo
biên lai thu số 0007561, ngày 21/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang.
Hoàn trả cho ông Đình P1, Thị O s tiền tạm ứng án phí đã nộp
38.756.000 đồng (Ba mươi tám triệu bảy trăm m mươi sáu nghìn đồng), theo biên lai
thu số 0007545, ngày 20/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phú
QuốP5, tỉnh Kiên Giang.
Hoàn trả cho ông Nguyễn Trung C và Nguyễn Thị M số tiền tạm ứng án phí
đã nộp 37.626.000 đồng (Ba mươi bảy triệu sáu trăm hai mươi sáu nghìn đồng), theo
biên lai thu số 0007546, ngày 20/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang.
22
Hoàn trả cho ông Trần Văn Q1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp 55.733.676 đồng
(Năm mươi lăm triệu bảy trăm ba mươi ba nghìn sáu trăm bảy mươi sáu nghìn đồng),
theo biên lai thu số 0000072, ngày 22/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Phú QuốP5, tỉnh Kiên Giang.
5.2 Án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyên đơn ông Lê Thanh H không phải chịu. Trả lại cho ông H số tiền tạm ứng
án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0006757 ngày 01
tháng 02 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phú QuốP5, tỉnh Kiên
Giang
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân
sự sửa đổi, bổ sung thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi hành án dân
sự sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- TAND TP Phú Quốc;
- THA dân sự TP Phú Quốc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Bá Kha
23
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán
Thẩm phán
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa
Trần Bá Kha
Tải về
Bản án số 189/2024/DS-PT Bản án số 189/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 189/2024/DS-PT Bản án số 189/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất