Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST ngày 20/08/2024 của TAND huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 17/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST ngày 20/08/2024 của TAND huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Quỳ Châu (TAND tỉnh Nghệ An) |
Số hiệu: | 17/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | LÔ THỊ N - LỘC VĂN T, LY HÔN, NUÔI CON VÀ NGHĨA VỤ CẤP DƯỚNG NUÔI CON |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

Mẫu số 52-DS theo NQ số 01/2017/NQ-HĐTP
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN QUỲ CHÂU Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NGHỆ AN
Bản án số: 17/2024/HNGĐ-ST
Ngày 20/8/2024
V/v ‘‘Tranh chấp hôn nhân và gia đình’’
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU - TỈNH NGHỆ AN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà : Ông Lô Văn Linh
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Phan Thị Duệ và ông Hà Văn Đức
- Thư ký phiên toà: Ông Tăng Thành Vương - Thư ký Toà án nhân dân
huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An tham
gia phiên toà: Bà Trần Hoàng Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 8 năm 2024, tại Phòng xử án Toà gia đình và người chưa
thành niên, Toà án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An tiến hành xét xử sơ
thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2024/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2024
về ‘‘Tranh chấp hôn nhân và gia đình’’ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử (lần
thứ hai) số 38/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2024, giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn: Chị Lô Thị N. Sinh năm 2000.
Trú tại: Bản Ch P, xã Ch Th, huyện Q C, tỉnh N A.
Tạm trú: Bản H T 2, xã C T, huyện Q C, tỉnh N A.
Vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Lộc Văn T. Sinh năm 1998.
Trú tại: Bản Ch P, xã Ch Th, huyện Q C, tỉnh N A.
Vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/5/2024, lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án, nguyên đơn chị Lô Thị N trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lô Thị N và anh Lộc Văn T chung sống với nhau
như vợ chồng từ tháng 02/2017, đến ngày 29/11/2018 mới tiến hành đăng ký kết
hôn theo quy định của pháp luật tại UBND xã Châu Thuận, huyện Qùy Châu, tỉnh
Nghệ An. Sau khi kết hôn, chị Nghĩa và anh Thái về chung sống cùng gia đình bố
mẹ chồng tại bản C P, xã C T, huyện Q C, tỉnh N A. Qúa trình chung sống không
hòa hợp, không có sự san sẻ, tôn trọng, vun đắp để xây dựng hạnh phúc gia đình,
thường xuyên bất đồng quan điểm, sống không hạnh phúc nên từ tháng 02/2023,
chị N đã trở về nhà bố mẹ đẻ tại bản H T 2, xã C T, huyện Q C, tỉnh N A để sinh
sống. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, quan hệ vợ chồng không còn
tình cảm và không còn hạnh phúc. Vì vậy, chị Lô Thị N đã làm đơn yêu cầu Tòa
án giải quyết ly hôn với anh Lộc Văn T.
2
- Về quan hệ con cái: Chị Lô Thị N và anh Lộc Văn T có 01 người con chung
là Lộc Thị Yến N, sinh ngày 21/11/2017, ngoài ra chị N không có con riêng và vợ
chồng không nhận ai làm con nuôi. Hiện nay cháu N đang sinh sống cùng với anh
T và bố mẹ của anh T tại bản C P, xã C T, huyện Q C, tỉnh N A. Quá trình nộp
đơn khởi kiện chị N đề nghị giao con chung cho anh T nuôi dưỡng và sẽ cấp
dưỡng nuôi con chung cho anh T mỗi tháng 500.000
đ
(Năm trăm nghìn đồng).
Quá trình lấy lời khai, chị N và anh T thống nhất chị N sẽ cấp dưỡng nuôi con
chung mỗi tháng 1.000.000
đ
(Một triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi,
trưởng thành. Tuy nhiên, quá trình kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ
và hòa giải thì anh T không có mặt tại Tòa án để làm việc và hiện nay đi làm ăn
xa, không biết đi đâu, làm gì, không rõ thời điểm trở về nên chị N thay đổi một
phần yêu cầu khởi kiện đó là yêu cầu được giao nuôi dưỡng con chung và không
yêu cầu anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị N cũng trình bày thêm
rằng nếu trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án mà anh T tiếp tục có mặt tham
gia, đồng thời anh T vẫn giữ nguyên yêu cầu được nhận nuôi dưỡng con chung
cũng như cấp dưỡng nuôi con thì chị N vẫn đồng ý nhường cho anh T được nuôi
dưỡng con chung và sẽ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T mỗi tháng 1.000.000
đ
(Một triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành.
- Về tài sản và nợ: Chị Lô Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra,
chị N không yêu cầu bố mẹ của anh T là ông Lộc Văn H và bà Vi Thị L phải trích
chia công sức đóng góp trong thời gian làm dâu trong gia đình.
* Theo biên bản lấy lời khai được lập vào ngày 07/6/2024 có trong hồ sơ vụ
án, bị đơn anh Lộc Văn T trình bày: Anh T đã nhận được bản sao đơn khởi kiện và
các tài liệu kèm theo do chị N gửi qua đường bưu điện, đồng thời đã nhận được
Thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án, không có tài liệu chứng cứ gì giao nộp
trong quá trình giải quyết vụ án.
- Về quan hệ tình cảm: Anh T và chị N làm đám cưới và về chung sống với
gia đình bố mẹ của anh T tại bản C P, xã C T, huyện Q C, tỉnh N A từ tháng
02/2017, đến ngày 29/11/2018 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Châu Thuận,
huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vợ chồng chung sống với gia đình bố mẹ anh T
đến cuối năm 2018 thì làm nhà và ra sinh sống riêng tại bản C P, xã C T, huyện Q
C, tỉnh N A. Quá trình chung sống hạnh phúc, cuộc sống chung diễn ra bình
thường không có mâu thuẫn gì trầm trọng, anh Thái cũng không đánh đập gì chị
N. Anh T cho rằng chị N muốn ly hôn là do từ khi chị N đi làm ăn ở các tỉnh phía
bắc từ khoảng tháng 5 năm 2023 thì sau đó có quen biết và có tình cảm yêu đương
với người đàn ông khác nên muốn ly hôn với anh T để đi lấy người đàn ông khác.
Anh T và chị N ly thân nhau từ tháng 12 năm 2023 cho đến nay, nhưng anh T cho
rằng hiện nay bản thân vẫn còn tình cảm với chị N nên không đồng ý ly hôn.
- Về quan hệ con cái: Anh T thống nhất như chị N trình bày về con chung,
ngoài ra anh T không có con riêng và vợ chồng không nhận con nuôi. Hiện nay
con chung đang sinh sống với anh T và bố mẹ của anh T tại bản C P, xã C T,
huyện Q C, tỉnh N A. Anh T làm nghề lao động tự do, thường ngày đi xẻ gỗ, khai
thác cây keo thuê, thu nhập trung bình hàng tháng khoảng 4.000.000
đ
(Bốn triệu
đồng), có nhà cửa, nơi ở ổn định nên nếu ly hôn thì anh T yêu cầu được nhận nuôi
dưỡng con chung và yêu cầu chị N phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung
mỗi tháng 1.000.000
đ
(Một triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng
thành.
3
- Về tài sản và nợ: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã trực tiếp giao cho anh T Thông báo về
phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng
sau đó anh T đã không có mặt để tham gia làm việc mà không có lý do. Tòa án
tiếp tục gửi Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai
chứng cứ và hòa giải cho anh T thông qua chính quyền địa phương tống đạt nhưng
anh T vẫn không có mặt tham gia. Cán bộ Tòa án tiến hành xác minh tại UBND xã
thì được biết, sau khi nhận được Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp
tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án thì cán bộ UBND xã đã tiến
hành tống đạt cho anh T nhưng do anh T không có mặt ở nhà và vắng mặt khỏi địa
phương nên đã không tống đạt trực tiếp được, vì vậy đã gọi điện thoại thông báo
cho anh T biết nội dung văn bản tố tụng của Tòa án. Quá trình chuẩn bị xét xử,
cán bộ Tòa đã trực tiếp tiến hành giao Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy
triệu tập phiên tòa, tuy nhiên do anh T không có mặt ở nhà và địa phương nên đã
tiến hành lập biên bản về việc không tống đạt được các văn bản tố tụng nêu trên và
niêm yết theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và
đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng
các quy định của pháp luật. Bị đơn có mặt trong quá trình giải quyết vụ án đến
thời điểm trước khi bắt đầu tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải thì vắng mặt cho đến khi xét xử, bị đơn đã cố tình
không chấp hành, trốn tránh, đi khỏi địa phương, gây khó khăn cho quá trình giải
quyết vụ án, không thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn
nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Lô Thị N được ly
hôn với anh Lộc Văn T; đề nghị giao con chung là Lộc Thị Yến N, sinh ngày 21
tháng 11 năm 2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến
khi trưởng thành, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lộc Văn
T. Đề nghị không xem xét, giải quyết về quan hệ tài sản và nợ. Áp dụng điều 147
Bộ luật tố tụng dân sự, buộc chị Lô Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo
quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là
vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình. Nguyên đơn và bị đơn đều có đăng ký
thường trú tại bản C P, xã C T, huyện Q C, tỉnh N A. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu theo quy định tại khoản 1
điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt phù hợp quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt
từ giai đoạn kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, vắng
mặt trong quá trình xét xử vụ án mặc dù đã được thông báo, tống đạt, niêm yết
hợp lệ các văn bản tố tụng của Toà án. Xét thấy, bị đơn có nơi cư trú rõ ràng, có
tham gia quá trình giải quyết vụ án nhưng không đầy đủ, cố tình trốn tránh, che
giấu địa chỉ, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, hiện nay đi làm ăn xa, không
4
có mặt tại địa phương, ngoài ra bị đơn không có yêu cầu phản tố. Do đó, căn cứ
vào điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a
khoản 2 điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên
đơn và bị đơn theo quy định.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ tình cảm: Hôn nhân giữa chị Lô Thị N và anh Lộc Văn T
được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có đăng ký kết hôn theo quy định
của pháp luật. Chị N cho rằng quá trình chung sống không hòa hợp, không có
tiếng nói chung, không có sự san sẻ, tôn trọng lẫn nhau, thường xuyên bất đồng
quan điểm, nay chị Nghĩa không còn quan tâm hay còn tình cảm với anh T nữa, vì
vậy chị N nhất quyết ly hôn với anh T. Còn anh T cho rằng cuộc sống chung hạnh
phúc, diễn ra bình thường không có mâu thuẫn gì trầm trọng và hiện nay đang còn
tình cảm với chị N nên không đồng ý ly hôn với chị N. Anh T có mặt trong quá
trình lấy lời khai nhưng vắng mặt từ giai đoạn kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công
khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời vắng mặt trong quá trình xét xử vụ án mà
không có lý do. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định được
hiện nay anh T không có mặt ở nhà và đi khỏi địa phương, cố tình trốn tránh, che
giấu địa chỉ, không hợp tác và gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, anh T đã
không chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật. Xét thấy, chị N và anh T đã
có một thời gian sống ly thân nhau, mặt khác chị N và anh T đều thừa nhận rằng
thời gian chị N đi làm ăn ở các tỉnh phía bắc thì đã quen biết và có tình cảm yêu
đương với người đàn ông khác, điều này đã chứng tỏ rằng hôn nhân giữa anh T và
chị N không còn hạnh phúc nữa, vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu
của chị N, cho chị Lô Thị N được ly hôn với anh Lộc Văn T, điều này là phù hợp
với thực tế cuộc sống và cũng là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân
và gia đình.
[2.2] Về quan hệ con cái: Chị Lô Thị N và anh Lộc Văn T có một người con
chung là Lộc Thị Yến N, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2017. Quá trình nộp đơn khởi
kiện, chị N yêu cầu giao con chung cho anh T nuôi dưỡng và bản thân sẽ cấp
dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 500.000
đ
(Năm trăm nghìn đồng). Quá trình giải
quyết vụ án thì chị N và anh T thống nhất chị N sẽ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi
tháng 1.000.000
đ
(Một triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, trưởng
thành. Tuy nhiên, sau đó anh T vắng mặt trong quá trình kiểm tra việc giao nộp
tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải hòa mà không có lý do, hiện nay anh T
không có mặt ở nhà và đi khỏi địa phương nên chị N yêu cầu được giao nuôi
dưỡng con chung và không yêu cầu anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy, việc giao nuôi dưỡng con chung chưa thành niên xuất phát từ việc cần
phải đảm bảo quyền lợi về mọi mặt để cho con có thể phát triển bình thường, ăn
học, khôn lớn và trưởng thành, đồng thời cũng xem xét đến khả năng của người
được giao nuôi dưỡng con chung. Thấy rằng hiện nay bản thân anh T không có
mặt tại địa phương, không rõ đi đâu, làm gì, không rõ về tình trạng sức khoẻ và
thu nhập như thế nào, không biết thời điểm trở về. Bản thân chị N có sức khỏe, thu
nhập ổn định, có nơi ở và hiện nay đang sinh sống ổn định tại địa phương. Do đó,
việc giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với điều
5
kiện thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu
của chị N, giao con chung cho chị N chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi
đủ 18 tuổi, trưởng thành và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh
Lộc Văn T. Sau này nếu giữa các bên có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con,
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn thì sẽ được xem xét, giải quyết bằng một
vụ án khác theo quy định của pháp luật.
[2.3] Về tài sản và nợ: Chị Lô Thị N và anh Lộc Văn T đều không yêu cầu
Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị N không yêu cầu bố mẹ của anh T là ông Lộc Văn
H và bà Vi Thị L trích chia công sức đóng góp trong thời gian làm dâu trong gia
đình nên miễn xét. Sau này nếu giữa các bên có yêu cầu giải quyết về chia tài sản
và nợ chung thì sẽ được xem xét, giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định
của pháp luật.
[3] Về án phí: Chị Lô Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;
khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Xử:
- Về quan hệ tình cảm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lô Thị N. Cho
chị Lô Thị N được ly hôn với anh Lộc Văn T.
- Về quan hệ con cái: Giao con chung là Lộc Thị Yến N, sinh ngày 21 tháng
11 năm 2017 cho chị Lô Thị N nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi đủ
18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Lộc
Văn T.
Anh Lộc Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản
trở. Vì lợi ích chung về mọi mặt của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu
thay đổi người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly
hôn theo quy định của pháp luật.
- Về án phí: Chị Lô Thị N phải chịu 300.000
đ
(Ba trăm nghìn đồng) án phí
dân sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009840 ngày 20 tháng 5 năm
2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Chị Lô Thị
N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. Các bên đều được
quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy
định.
T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- Nguyên đơn, bị đơn;
- VKSND h Quỳ Châu; VKSND tỉnh Nghệ An;
- Phòng KTNV&THAHS TAND tỉnh Nghệ An;
- Chi cục THADS huyện Quỳ Châu;
- UBND xã Châu Thuận, huyện Qùy Châu;
- Lưu hồ sơ vụ án; lưu VP.
Lô Văn Linh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm