Bản án số 165/2025/DS-PT ngày 19/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 165/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 165/2025/DS-PT ngày 19/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 165/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông S cho rằng ông D, bà T tự ý dời ranh, lấn đất nhưng không cung cấp được chứng cứ, chứng minh. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả phần đất diện tích 113m2 thuộc một phần thửa đất số 335, tờ bản đồ số 38 tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương là có căn cứ. Đối với phần đất diện tích 447m2 (1,36m x 328m) dọc theo ranh thửa đất 685, 329 với thửa đất 600, 337, bao gồm 246m2 thuộc thửa 337; 93,6m2 thuộc thửa 329; 30,9m2 thuộc thửa 685; 76,5m2 được chỉnh giảm từ thửa 338 chưa được cấp GCNQSDĐ là lối đi chung, theo các văn bản của cơ quan địa chính và chính quyền địa phương, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của mà ông S về tranh chấp là lối đi chung là có căn cứ. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 165/2025/DS-PT
Ngày: 19-03-2025
V/v tranh chấp
quyền sử dụng đất và
tranh chấp về lối đi chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Dũng;
Các Thẩm phán: Bà Đinh Thị Mộng Tuyết;
Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền.
- Thư phiên tòa: Thị Thanh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Phước - Kiểm sát viên.
Trong ngày 19 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 579/2024/TLPT-DS
ngày 06/11/2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất tranh chấp về lối đi
chung”.
Do Bản án dân sự thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2025/QĐ-PT ngày 23 tháng 01
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Mai Văn S, sinh năm 1964; địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện
B, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1949; vắng mặt;
2. Ông Đào Văn D, sinh năm 1980; có mặt;
Cùng địa chỉ: tổ A, ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Mai Vương L, sinh năm 1988; vắng mặt;
2. Ông Mai Văn D1, sinh năm 1991; vắng mặt;
2
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
3. Cháu Mai Vương T1, sinh ngày 03/11/2006; địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện
B, tỉnh Bình Dương;
Người đại diện hợp pháp của cháu Mai Vương T1: Ông Mai Văn S, sinh
năm 1964; địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương (là bố); có mặt.
4. Bà Hoàng Thị V, sinh năm 1945 (chết ngày 22/02/2022);
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Hoàng Thị V: Ông Nguyễn
Thanh T2, sinh năm 1973 vàNguyễn Thị H, sinh năm 1982; cùng địa chỉ: Ấp
V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương vắng mặt.
5. Bùi Thị K, sinh năm 1979; địa chỉ: tổ A, ấp V, T, huyện B, tỉnh
Bình Dương; vắng mặt.
6. Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: Khu phố B, thị trấn
T, huyện B, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Mai Văn S.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 21/12/2020, đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi
kiện ngày 12/7/2022, 16/12/2022 lời khai trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn ông Mai Văn S trình bày:
Ông Mai Văn S chủ quyền sử dụng đất (QSDĐ) đối với các thửa 329,
685, 335 678, tờ bản đồ số 38 tại T, huyện B, tỉnh Bình Dương theo các
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AO 968698, số vào sổ H
02203 ngày 29/6/2009 đối với thửa 329 diện tích 11.909m
2
; GCNQSDĐ số BE
701711, số vào sổ CH00774 ngày 04/01/2012 đối với thửa 685 diện tích 2.657m
2
;
GCNQSDĐ số BB 263271, số vào sổ CH00122 ngày 31/5/2010 thửa 335 và 685
diện tích 5.839m
2
. Thửa 329685 được cha mẹ vợ ông khai phá từ khoảng năm
1982; thửa đất 335 và 678 được ông và vợ là bà Nguyễn Thị T3 (chết năm 2011)
khai phá từ khoảng năm 1992. Ba mẹ vợ ông chia cho vợ chồng ông một phần
thửa đất 685; chia cho anh vợ là ông Nguyễn Phi H1 thửa đất 329, năm 2009 ông
H1 cho lại vợ chồng ông.
Giữa thửa đất 685, 329 với thửa 335 thửa 600 cấp cho ông Đào Văn D,
thửa 337 cấp cho bà Nguyễn Thị T. Giữa thửa đất 685 và 329 với thửa 337 có lối
đi bộ chiều ngang khoảng 1,2 mét đến 1,5 mét kéo dài từ đường đất (nay Đường
T) đến cuối ranh đất vào thửa 330. Lối đi này lối đi nội bộ của gia đình được
ba mẹ vợ của ông chừa làm lối đi có từ khoảng năm 1990, sau đó được bà con sử
dụng để đi lại. Gia đình bà T, ông D trước khi mua thửa đất 600 cũng sử dụng lối
đi này. Khi kê khai, đăng ký để được cấp GCNQSDĐ, gia đình vợ ông không kê
khai đất được dùng làm lối đi. Quá trình sử dụng đất thửa 685, 329 335, gia
đình ông trồng cao su, cắm mốc ranh ràng. Ranh đất gia đình ông với gia
đình bà T có một hàng cây tràm, cây mít và cây rừng.
3
Về ranh đất thửa 335 với 337: Năm 2006, gia đình bà T xây dựng hàng rào
làm ranh. Năm 2010, ông S thực hiện thủ tục để được cấp GCNQSDĐ thửa đất
678 (thửa 678 giáp ranh thửa 335). Ông S đo đạc lại thửa 335 căn cứ cột mốc năm
2006 của gia đình bà T cắm.
Quá trình sử dụng đất thửa 600 337, lợi dụng việc ông S không mặt
thường xuyên đất nên ông D T tự ý dời cột mốc, xây dựng hàng rào lấn
chiếm lối đi và trồng ranh trụ, lấn chiếm thửa 685, 329 và 335; kê khai luôn phần
đất dùng làm lối đi và đã được cấp GCNQSDĐ đối với đất này.
Buổi hòa giải ngày 09/5/2024, ông S trình bày: Quá trình quản lý, sử dụng
đất các thửa 685, 329 và 335: Thửa đất 329 theo thực tế quản lý, sử dụng, gia đình
ông không đo đạc thực tế, sang nhượng QSDĐ theo sổ; thửa 335 trước đây ông
chỉ đo phần tiếp giáp thửa 678 để điều chỉnh cho đúng, phần còn lại của thửa 335
chưa từng đo thực tế. Riêng thửa 685 có đo đạc khoảng năm 2014. Khi chỉ đo
cắm ranh, ông chừa phần đất chiều ngang 1,3m tính từ phần tiếp giáp đường
đất rào ranh đất như hiện trạng. Từ khoảng năm 2009, ông S không còn thấy
ai sử dụng lối đi này. Ranh đất tiếp giáp thửa 329, ông D tự rào dọc theo ranh đất
bắt đầu từ phần tiếp giáp thửa 685 ông đã rào nhưng không chừa lối đi đã
từ trước. Phần ranh đất giữa thửa 335 với 337 ông S ông D đã thống nhất từ
khoảng năm 2006, nhưng từ khoảng năm 2016, ông D tự ý dời cột mốc, dời trụ
ranh nên giữa các bên phát sinh tranh chấp. Do đó, ông S khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết các vấn đề sau:
1. Trả cho ông S phần đất diện tích 113m
2
thuộc một phần thửa đất số 335,
tờ bản đồ số 38 tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
2. Công nhận ông S chủ sử dụng hợp pháp đối với QSDĐ diện tích 10,6m
2
thuộc một phần thửa đất số 337, tờ bản đồ số 38, tại T, huyện B, tỉnh Bình
Dương. Ông S được quyền khai đăng để được cấp GCNQSDĐ đối với phần
đất này;
3. Công nhận phần đất diện tích 447m
2
(1,36 mét x 328 mét) dọc theo ranh
thửa đất 685, 329 với thửa đất 600, 337 gồm: 246m
2
thuộc thửa 337; 93,6m
2
thuộc
thửa 329; 30,9m
2
thuộc thửa 685; 76,5m
2
được chỉnh giảm từ thửa 338 chưa được
cấp GCNQSDĐ là lối đi chung.
4. Yêu cầu Tòa án buộc bà T và ông D phải tháo dỡ hàng rào lưới B40, trụ
mốc để trả lại hiện trạng lối đi chung diện tích 447m
2
nêu tại yêu cầu 3.
5. Kiến nghị thu hồi, chỉnh giảm các GCNQSDĐ bao gồm các phần đất
thuộc QSDĐ hợp pháp của ông S và đất thuộc lối đi chung để cấp lại theo hướng
không bao gồm các phần đất này.
Diện tích đất ông D và bà T lấn chiếm theo kết quả đo đạc thực tế do ông S
chỉ ranh thể hiện tại Mảnh trích lục địa chính đo đạc chỉnh số 579-2021 ngày
12/5/2021 và 1626-2022 ngày 05/10/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện B.
4
Chứng cứ nguyên đơn cung cấp là bản sao hồ sơ cấp GCNQSDĐ các thửa
đất 685, 329, 337, 600, 678, Biên bản xác minh Biên bản hòa giải sở của
UBND xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Tại Bản tự khai ngày 30/01/2023 lời khai trong quá trình giải quyết vụ
án, bị đơn ông Đào Văn D trình bày:
Năm 1988, ông D T khai phá thửa đất số 337 để trồng điều; năm 2000,
T được cấp GCNQSDĐ. Năm 2006, thanh lý cây điều, trồng cây cao su, đồng
thời ông kéo lưới rào B40 để chăn nuôi, bảo quản tài sản và sử dụng ổn định từ
đó cho đến nay. Trước đây, có lối đi từ đường đất vào dọc ranh giữa thửa 685
600 để đi vào thửa 337 của T. Khi ông S cắm mốc, đo đạc và rào thửa đất 685
thì ông D lấy cột mốc ranh do ông S làm kết hợp với cột mốc có từ năm 2006 và
hàng rào kẽm gai để làm ranh. Năm 2010, ông S đo đất, cắm mốc ranh giới thửa
đất 685 với 600. Năm 2012, ông S làm đơn tranh chấp về đường nước chảy
ranh đất, thời điểm này ranh đất là cột mốc bê tông và hàng rào kẽm gai do ông S
kéo, không lối đi. Thửa đất 329, cạnh giáp ranh thửa 337 ông S nhận từ ông
H1 năm 2010 nhưng được ông D rào từ năm 2006. Năm 2015, ông dỡ hàng rào
kẽm gai và làm lưới B40 như hiện trạng. Ông rào đất theo thực tế sử dụng từ khi
khai phá, chưa từng đo thực tế. Do đó, bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Bị đơn không yêu cầu phản tố. Ông D đã nhận được kết quả đo đạc, ông
đồng ý và không đề nghị đo đạc lại, không đề nghị đo đạc bổ sung.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 15/01/2024, bị đơn Nguyễn Thị T trình
bày: T đã giao đất cho ông D quản lý, sử dụng từ khoảng 03 năm nay do bà đã
lớn tuổi. Từ nhà bà T với nhà ông S có đường đất đi thẳng lên ng trường, lối đi
này từ thời điểm T khai phá đất, lối đi tự có. Phần đất trên đỉnh đồi đất
giáp đất ông S không lối đi chung. không còn quản đất nên không biết
tình trạng như thế o, T không yêu cầu về việc giải quyết vụ án, đề nghị
Tòa án giải quyết vắng mặt bà.
Tại Bản tự khai ngày 09/5/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Bùi Thị K trình bày: Bà là vợ của ông D, bà thống nhất với lời khai của ông D
không có ý kiến khác.
Tại Bản tự khai ngày 19/5/2024, những người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Mai Vương L, Mai Văn D1, Mai Vương T1 trình bày: Thửa đất 329 của
cha mẹ các ông là ông S, bà T3 được cậu ruột là ông H1 tặng cho năm 2009 diện
tích 11.909m² và được cấp GCNQSDĐ ngày 29/06/2009. Thửa đất số 335, 678
được ông S, bà T3 khai phá năm 1991 và được cấp GCNQSDĐ số BB263271, số
vào số CH 00122 ngày 31/5/2010. Thửa đất số 329 tiếp giáp với lối đi chung tự
mở, rộng khoảng 1,3m. Lối đi tự mở được hình thành từ khoảng năm 1985, 1986,
điểm tiếp giáp với đường đất (nay đường T 75 rộng 10m), phục vụ cho
con đi lại làm vườn các thửa đất số 685, 337, 329 các thửa đất phía trong. Ranh
giới thửa đất số 335 thửa số 678, 337 do các bên tự thỏa thuận. Chúng tôi không
có ý kiến khác.
5
Tại Bản tự khai ngày 19/5/2024, người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Thị V là ông Nguyễn Thanh T2
Nguyễn Thị H trình bày: Lời khai của V, ông T2 H nội dung
giống lời trình bày của Mai Vương L, Mai Văn D1, Mai Vương T1.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 17/01/2024, người làm chứng bà Hoàng Thị
T4, ông Nguyễn Thanh T2, bà Nguyễn Thị H (ông T2 và bà H đồng thời là người
kế thừa quyền nghĩa vụ của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị
T3 trình bày: Ông S cháu rể của bà T4, ông T2 là em vợ của ông S, bà H là em
vợ của ông S, bà L1 em dâu của ông S. Các ông sống gần đất bị tranh chấp
nên biết sự việc như sau: Từ khoảng năm 1986, lối đi chiều ngang khoảng 1,2m
1,4m từ đường T 75 đến đất nông trường trên phần đất hiện các bên tranh chấp;
lối đi này không còn. Lối đi này được các hộ dân xung quanh sử dụng đi lại nhưng
thuộc đất của ai; không n sử dụng từ khi nào; Ai xây rào, làm ranh thì ông,
đều không biết.
Kết quả đo đạc thể hiện tại Mảnh trích lục địa chính đo đạc chỉnh số
579-2021 ngày 12/5/2021 thể hiện đất tranh chấp diện tích 483,8m
2
. Kết quả đo
đạc thể hiện tại Mảnh trích lục địa chính đo đạc chỉnh số 1626-2022 ngày
05/10/2022 thể hiện đất tranh chấp diện tích 514,1m
2
.
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 09/4/2021 và 07/9/2022 của Tòa
án thể hiện: Thửa đất 337 cấp cho bà T có ranh như sau:
Hướng bắc ranh trụ tông, dây kẽm gai tính từ phần tiếp giáp thửa
đất 600 với 685 từ đường đất do ông S trồng năm 2014. Ông S cho rằng đây không
phải ranh, ông D1 thừa nhận ranh. Phần ranh tiếp giáp thửa 337 với 329 do
nguyên đơn chỉ là các trụ sắt do nguyên đơn cắm tại thời điểm đo đạc; ranh do bị
đơn chỉ ranh hiện hữu trụ tông rào lưới B40 được ông D1 dựng tiếp
theo phần ranh ông S lập. Trên đất có 01 cây huỳnh đường trồng năm 2010, 8 cây
xoan trồng năm 2010, 3 cây mít 10 năm tuổi, 3 cây mít 5 năm tuổi, 01 cây tràm
trồng năm 1996. Toàn bộ cây này ông S thừa nhận ông D1 và bà T trồng;
Hướng nam ranh do nguyên đơn chỉ các trụ sắt do nguyên đơn cắm
tại thời điểm đo đạc; ranh do bị đơn chỉ là trụ bê tông, hàng rào dây kẽm gai trồng
năm 2006, lưới B40 giăng năm 2019. Trên đất có 01 cây huỳnh đường trồng năm
1996, 3 cây cao su trồng m 2006. Các bên thống nhất cây này do T ông
D1 trồng; Hướng đông và hướng tây không tiếp giáp đất tranh chấp.
Ông S xác định phần đất đến hàng rào ông đã rào thửa đất 685 ông D1
rào phần tiếp giáp với thửa 329 là đất ông S; đất từ hàng rào đến cột mốc do ông
S chỉ đo khi tranh chấp là đất thuộc lối đi chung.
Công văn số 4003/UBND-NC ngày 01/11/2021 của UBND huyện B cung
cấp thông tin như sau:
- Việc cấp GCNQSDĐ số H02203 ngày 29/6/2009 choT3 và ông S đối
với thửa đất 329; GCNQSDĐ số 01027QSDĐ/TU và cấp đổi GCNQSDĐ số vào
sổ CS 03864 ngày 25/11/2019 cho T đối với thửa đất 337; cấp GCNQSDĐ
6
thửa 335 cho ông S và bà T3; GCNQSDĐ số vào sổ cấp CH00368 ngày
15/11/2010 cho ông D1, bà K thửa đất 600 không đo đạc thực tế chỉ n cứ
vào trích lục bản đồ địa chính, không có hồ sơ lấy ý kiến các chủ sử dụng đất liền
kề.
- Việc cấp GCNQSDĐ số CH00122 ngày 31/5/2010 cho ông S T3
đối với thửa đất số 685 đo đạc thực tế thể hiện tại Bản trích đo địa chính thửa
đất do Văn phòng đăng ký QSDĐ Tân Uyên xác lập ngày 18/12/2009.
Công văn số 363/UBND-ĐC ngày 11/5/2025 của UBND T cung cấp
thông tin cho Tòa án như sau: Người sử dụng đất từ năm 1990 cho đến nay đối
với đất tranh chấp diện tích 514,1m
2
ông S, bà T ông D1 nhưng không xác
định được người sử dụng cụ thể từng phần đất. Đất được chỉnh giảm từ thửa 334,
338 đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ cho người sử dụng ổn định. Đất tranh chấp diện
tích 447m
2
không thuộc đường do UBND T quản nên UBND T không
xác định được đất này có từng được sử dụng làm lối đi hay không.
Tại phiên tòa thẩm, ông S xác định: Đất tranh chấp dọc ranh thửa 329
với thửa 337 ông tranh chấp về lối đi chung, không tranh chấp QSDĐ đất này.
Đất tranh chấp giữa thửa 337 với 335 tranh chấp QSDĐ, đề nghị Tòa án xác
định đất này thuộc QSDĐ của ông, cấp cho T sai. Đề nghị Tòa án làm
diện tích đất tăng thêm từ 6.017m
2
thành 6.433m
2
của thửa đất 337 phải bao
gồm phần đất thuộc lối đi đất thuộc thửa 335 cấp cho ông S T3 hay
không. Ông S không tranh chấp QSDĐ diện tích 10,6m
2
thuộc một phần thửa đất
số 337.
Tại phiên tòa thẩm, bị đơn ông Đào Văn D xác định ông không đơn
phản tố, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông S.
Công văn số 3244/CNBTU-ĐK ngày 26/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện B cung cấp thông tin như sau: Diện tích thửa đất 337 tăng
từ 6.017m
2
thành 6.433m
2
không bao gồm phần đất trước đây thuộc thửa 329 mà
từ phần đất của thửa 336 theo GCNQSDĐ cấp cho ông Cao Xuân K1, được chỉnh
giảm theo Biên bản làm việc, xác minh thực tế sử dụng ngày 13/02/2008 Bản
trích đo do Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện Tân Uyên xác lập; thửa đất 335 cấp
cho ông S và bà T3 có đo đạc thực tế theo Bản trích đo địa chính thửa đất do Văn
phòng đăng QSDĐ huyện Tân Uyên xác lập ngày 08/12/2009; thửa đất 329
337 từ khi được cấp GCNQSDĐ đến nay chưa qua đo đạc thực tế.
Tại Bản án dân sự thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 27/6/2024, Tòa án nhân
dân huyện B, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp
quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 113m
2
thuộc thửa đất số 335 tờ bản
đồ số 38 tại T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị T
được quyền đi kê khai, đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp đã
được giải quyết theo bản án này.
7
(Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp lối đi
chung đối với quyền sử dụng đất diện tích 447m
2
gồm: 246m
2
thuộc thửa đất số
337: (125m
2
+ 46m
2
+ 4,9m
2
+ 23,8m
2
+ 29m
2
+ 17,3m
2
); 93,6m
2
thuộc thửa đất
số 329: (38m
2
+ 24m
2
+ 10,1m
2
+ 5,9m
2
+ 5,8m
2
+ 9,8m
2
; 30,9m
2
thuộc thửa đất
số 685; 76,5m
2
được chỉnh giảm từ thửa đất số 338 chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất: (51,3m
2
+ 25,2m
2
).
(Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, trách nhiệm thi hành
án và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 03/7/2024 nguyên đơn ông Mai Văn S
đơn kháng cáo toàn bộ Bản án thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 27/6/2024 của
Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương, đề nghTòa cấp phúc thẩm xét xử
lại vụ án theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
yêu cầu kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về tố tụng: Những người tiến hành ttụng và tham gia tố tụng đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Tại phiên tòa thẩm, ông S xác định không tranh chấp yêu
cầu công nhận ông S chủ sử dụng hợp pháp đối với diện tích 10,6m
2
đất thuộc
một phần thửa đất số 337, buộc T ông D phải tháo dỡ hàng rào lưới B40, trụ
mốc nhưng Tòa án cấp thẩm không đình chỉ đối với yêu cầu này thiếu
sót. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn kháng cáo xác định không kháng cáo
đối với phần nội dung này. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng
dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm theo hướng bổ sung thêm
phần đình chỉ đối với các yêu cầu này. Đối với các yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn, tại tòa án cấp phúc thẩm không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác
làm thay đổi nội dung vụ án nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của nguyên
đơn.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được thẩm
tra tại phiên toà, kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa, ý kiến đại diện
Viện kiểm sát,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Kháng cáo của nguyên đơn ông Mai Văn S trong thời hạn luật định.
Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
8
[1.2] Quá trình ttụng ti cp phúc thm, bđơn Nguyn ThT, ngưi
có quyn li, nghĩa vliên quan ông Mai Vương L, ông Mai Văn D1, bà Bùi Th
K, ngưi kế tha quyn nghĩa v tố tụng ca Hoàng ThV ông Nguyn
Thanh T2 Nguyn ThH vắng mt. Ngưi có quyn li, nghĩa vliên quan
y ban nhân dân huyn B có đơn gii quyết vng mt. Căn cvào Điu 296 ca
Bộ lut Ttụng dân s năm 2015, Tòa án cp phúc thm tiến hành xét xvắng
mặt các đương snày.
[1.3] Ti phiên a cp sơ thm, nguyên đơn ông Mai Văn S đã xác đnh li
rằng ông S tranh chp quyn s dụng đt đi vi diện tích 113m
2
thuộc một phần
thửa đất số 335, tờ bản đồ số 38 tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, không tranh
chấp đối với các phần đất khác và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về tranh chấp lối
đi chung Tòa án cấp thẩm đã chấp nhận việc thay đổi yêu cầu khởi kiện này
theo Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có căn cứ. Do đó, Tòa án
cấp phúc thẩm xét kháng cáo của ông S đối với phạm vi các yêu cầu khởi kiện
nêu trên.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Đối với phần đất diện tích 113m
2
thuộc một phần thửa đất số 335, tờ
bản đồ số 38 tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương:
Quá trình tố tụng, ông S cho rằng từ khoảng năm 2016 thì ông D1 tự ý dời
cột mốc, dời trụ ranh nên giữa các bên phát sinh tranh chấp. Theo Công văn số
3244/CNBTU-ĐK ngày 26/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai
huyện B, thửa đất số 335, tờ bản đồ số 38 tại T được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CH00122 ngày 31/5/2010 cho ông Mai Văn S Nguyễn
Thị T3 đo đạc theo Bản trích đo địa chính thửa đất do Văn phòng Đăng
quyền sử dụng đất huyện T xác lập ngày 08/12/2009 (bút lục 390). Tuy nhiên, căn
cứ theo khoản 3.9 mục 3 của Quyết định số 08/2008/QĐ-BTNMT ngày
10/11/2008 của Bộ Tài nguyên Môi trường ban hành quy phạm thành lập bản
đồ địa chính tỷ lệ 1:200, 1:500, 1:1000, 1:2000, 1:5000 1:10000, trước khi đo
vẽ chi tiết thửa đất thì phải lập Bản mô tả ranh giới, mốc giới sử dụng đất giữa
chủ sử dụng đất của thửa đất với các chủ sử dụng đất liền kề, có liên quan. Đồng
thời, căn cứ theo điểm 6.6 khoản 6 mục I của Thông số 09/2007/TT-BTNMT
ngày 02/8/2007 hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản hồ địa chính, việc lập
Bản trích đo địa chính cũng không có ý kiến hay xác nhận của những chủ sử dụng
đất liền kề thửa 335, trong đó ông Đào Văn D Nguyễn Thị T chủ sử
dụng thửa 337.
Căn cứ theo khoản 4 Điều 3 của Luật Đất đai năm 2024, Thửa đất là phần
diện tích đất được giới hạn bởi ranh giới tả trên hồ địa chính hoặc được
xác định trên thực địa”. Trong trường hợp này, để xác định ranh giới thì phải căn
cứ vào hiện trạng sử dụng đất thực tế cũng như quá trình quản lý, sử dụng giữa
các bên qua từng thời kỳ sự thừa nhận của các bên trong quá trình giải quyết
vụ án để xác định ranh giới của thửa 335 thửa 337. Quá trình tố tụng cấp
thẩm, ông S trình bày rằng gia đình T xây dựng hàng rào làm ranh vào năm
9
2006 đến năm 2010 thì ông S mới thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thửa 678 (giáp ranh thửa 335) và yêu cầu đo đạc lại thửa 335 theo cột
mốc năm 2006 của gia đình T cắm. Nguyên đơn và bị đơn cũng thừa nhân ranh
giới giữa thửa 335 thửa 337 được ông Đào Văn D lập vào năm 2006. Theo
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện
B, ranh giới giữa thửa 335 thửa 337 hiện tại trụ tông hàng rào ới
B40, cao 1,5 mét do ông D lập.
Xét thấy, ông S cho rằng ông D, bà T tự ý dời ranh, lấn đất nhưng không
cung cấp được chứng cứ, chứng minh. Do đó, Tòa án cấp thẩm không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn trả phần đất diện tích 113m
2
thuộc một phần thửa đất số 335, tờ bản đồ số 38 tại T, huyện B, tỉnh Bình
Dương là có căn cứ.
[2.2] Đối với phần đất diện tích 447m
2
(1,36m x 328m) dọc theo ranh thửa
đất 685, 329 với thửa đất 600, 337, bao gồm 246m
2
thuộc thửa 337; 93,6m
2
thuộc
thửa 329; 30,9m
2
thuộc thửa 685; 76,5m
2
được chỉnh giảm từ thửa 338 chưa được
cấp GCNQSDĐ là lối đi chung:
Xét thấy, phần đất ông S xác định tranh chấp lối đi chung không khớp
qua hai lần đo đạc theo Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý số 579-2021
ngày 12/5/2021 Mảnh trích lục địa chính đo đạc chỉnh 1626-2022 ngày
05/10/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B. Đồng thời, phần
đất ông S xác định tranh chấp cũng không phù hợp với thực tế quản lý, sử
dụng đất. Bởi lẽ, toàn bộ phần đất này hiện tại thuộc khuôn viên đất do bị đơn bà
Nguyễn Thị T, ông Đào Văn D quản lý, sử dụng, trên đất có cây trồng, tài sản của
ông Đào Văn D.
Theo Công văn số 363/UBND-ĐC ngày 11/5/2023 của Ủy ban nhân dân
T, phần diện tích đất tranh chấp này không được Ủy ban quản nên không
xác định được phần diện tích đất nêu trên từng được sử dụng làm lối đi hay
không. Kết quả đo đạc theo hai Mảnh trích lục địa chính có đo đạc chỉnh lý có áp
ranh theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng không thể hiện phần đất
mà ông S tranh chấp là lối đi. Đồng thời, ông S và gia đình cũng chưa từng đi kê
khai đăng đối với phần đất này. Quá trình tố tụng, ông S trình bày rằng lối đi
này lối đi nội bộ của gia đình được ba mẹ vợ của ông chừa ra từ khoảng năm
1990 sau đó được bà con sử dụng để đi lại, nhưng không cung cấp được chứng
cứ chứng minh. Theo Biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã T vào năm 2012
các bên tranh chấp ranh giữa thửa đất 329 với thửa đất 337, nhưng cũng không đề
cập đến lối đi này. Từ đó, Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu của mà
ông S về tranh chấp là lối đi chung là có căn cứ.
[3] Tại phiên tòa thẩm, ông S xác định không tranh chấp yêu cầu công
nhận ông S là chủ sử dụng hợp pháp đối với diện tích 10,6m
2
đất thuộc một phần
thửa đất số 337, buộc bà T ông D phải tháo dỡ hàng rào lưới B40, trụ mốc nhưng
Tòa án cấp sơ thẩm không đình chỉ đối với yêu cầu này là có thiếu sót. Tại phiên
tòa phúc thẩm, nguyên đơn xác định không kháng o đối với phần nội dung này.
10
Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, sửa bản án thẩm
theo hướng bổ sung phần đình chỉ đối với yêu cầu nguyên đơn không tranh
chấp tại phiên tòa thẩm gồm: không tranh chấp yêu cầu công nhận ông S là chủ
sử dụng hợp pháp đối với diện tích 10,6m
2
đất thuộc một phần thửa đất số 337,
buộc bà T, ông D phải tháo dỡ hàng rào lưới B40, trụ mốc.
Đối với các yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn tranh chấp phần diện tích
113m
2
thuộc thửa đất số 335, tờ bản đồ số 38 tại xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương
phần diện tích 447m
2
thuộc thửa đất số 337, thửa đất số 329, thửa đất số 685
thửa đất số 338 lối đi chung. Tuy nhiên, tại Tòa án cấp phúc thẩm nguyên
đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác làm thay đổi nội dung vụ
án nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
Tòa án cấp thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện các chứng cứ trong
hồ sơ vụ án, đảm bảo quyền và lợi ích các bên, xét xử phù hợp với quy định pháp
luật nên kháng cáo của nguyên đơn không có cơ sở.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn ông Mai Văn S phải chịu theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 148, khoản 2 Điều 308 và Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Mai Văn S.
2. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 27/6/2024
của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương như sau:
2.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tranh chấp
quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 113m
2
thuộc thửa đất số 335 tờ bản
đồ số 38 tại T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Ông Mai Văn S, bà Nguyễn Thị T
được quyền đi kê khai, đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất tranh chấp đã
được giải quyết theo bản án này.
(Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp lối đi
chung đối với quyền sử dụng đất diện tích 447m
2
gồm: 246m
2
thuộc thửa đất số
337: (125m
2
+ 46m
2
+ 4,9m
2
+ 23,8m
2
+ 29m
2
+ 17,3m
2
); 93,6m
2
thuộc thửa đất
số 329: (38m
2
+ 24m
2
+ 10,1m
2
+ 5,9m
2
+ 5,8m
2
+ 9,8m
2
; 30,9m
2
thuộc thửa đất
11
số 685; 76,5m
2
được chỉnh giảm từ thửa đất số 338 chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất: (51,3m
2
+ 25,2m
2
).
(Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).
2.2. Đình chỉ yêu cầu của ông Mai Văn S về việc công nhận ông Mai Văn
S là chủ sử dụng hợp pháp đối với quyền sử dụng đất diện tích 10,6m
2
thuộc một
phần thửa đất số 337, tờ bản đồ số 38 tại T, huyện B, tỉnh Bình Dương về
việc buộc bà T và ông D phải tháo dỡ hàng rào lưới B40, trụ mốc.
2.3. Về chi phí tố tụng: chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ
15.020.040 (Mười lăm triệu hai mươi nghìn bốn mươi) đồng, nguyên đơn ông
Mai Văn S phải chịu. Ông S đã nộp xong.
3. Về án phí dân sự thẩm: Ông Mai Văn S phải nộp 4.255.000 (Bốn triệu
hai trăm năm mươi lăm nghìn) đồng gồm 300.000 đồng đối với tranh chấp lối đi
chung 3.955.000 đồng về tranh chấp quyền sử dụng đất. Khấu trừ vào 2.900.00
đồng ông S đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
AA/2016/0054621 ngày 28/12/2020 số tiền 375.000 đồng; số AA/2021/0010206
ngày 11/01/2023 số tiền 2.525.000 đồng, ông S còn phải nộp 1.055.000 đồng.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Mai Văn S phải chịu 300.000 đồng
(Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm tại Biên lai số 0003821 ngày 03/7/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bình Dương.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS huyện B;
- TAND huyện B;
- Các đương sự;
- Tổ hành chính tư pháp;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trung Dũng
Tải về
Bản án số 165/2025/DS-PT Bản án số 165/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 165/2025/DS-PT Bản án số 165/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất