Bản án số 15/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 của TAND huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 15/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 15/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 15/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 của TAND huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tuyên Hóa (TAND tỉnh Quảng Bình) |
Số hiệu: | 15/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/04/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2021/TLST - HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST – HS ngày 14/4/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn P - Tên gọi khác: Không; sinh ngày: 28/4/1990 tại xã S, huyện H, tỉnh Quảng Bình; Nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn L (đã chết) và bà Hoàng Thị X (đã chết); Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Sinh ra và lớn lên được bố mẹ nuôi dưỡng cho ăn học đến lớp 6/12 thì bỏ học ở nhà cho đến ngày phạm tội. Bắt tạm giữ, tạm giam ngày 04/01/2021. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình. Theo lệnh trích xuất bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Đinh Xuân M, sinh năm 1958.
Trú tại: Tiểu khu 3, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt).
* Người Làm chứng: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1990.
Trú tại: Thôn K, xã S, huyện H, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt).
* Người chứng kiến: Ông Nguyễn Đức Q, sinh năm 1962.
Trú tại tiểu khu 3, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 03/01/2021 Trần Văn P trú tại thôn T, xã S, huyện H đến cầu Bệnh viện gần trường Đại học Quảng Bình, thành phố Đồng Hới gặp một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể, đặt vấn đề mua ma túy để sử dụng.
Người đàn ông này đồng ý bán cho P 05 viên ma túy loại hồng phiến với giá:
300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Sau khi có được ma túy, P bắt xe về xã S, huyện H, tỉnh Quảng Bình rủ chị Nguyễn Thị T ở cùng thôn đến nhà nghỉ Đức Trung, thuộc tiểu khu 3, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình thuê phòng số 306 để nghỉ. Sáng ngày 04/01/2021 P lấy 02 viên ma túy đưa vào nhà vệ sinh của phòng 306 để sử dụng.
Khoảng 17 giờ cùng ngày, tổ công tác Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người của Trần Văn P có một cuộn giấy màu trắng, bên trong chứa 03 viên nén hình tròn màu hồng, dạng thuốc tân dược. Trần Văn P khai nhận đó là ma túy, loại hồng phiến mua về để sử dụng. Công an huyện Tuyên Hóa đã thu giữ và niêm phong toàn bộ tang vật. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần văn P tại thôn T, xã S, huyện H Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình không phát hiện và thu giữ gì thêm.
Tại Bản kết luận giám định số: 60/GĐ-PC09 ngày 07/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 03 (Ba) viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có chữ “WY” do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa thu giữ trong túi quần bên phải đang mặc trên người của Trần Văn P có tổng khối lượng là: 0,303g (không phẩy ba trăm linh ba gam) sau khi giám định số ma túy còn lại có tổng khối lượng là: 0,209g (không phẩy hai trăm linh chín gam). Mẫu có thành phần Methamphetamine, nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự: 323; Danh mục II; Nghị định số: 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã thu giữ:
- 01 (một) phong bì ghi số: 60/GĐ – PC09, đã được niêm phong dán kín, có 03 dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và chữ ký của những người liên quan trên mép dán, bên trong là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng là 0,209g (không phẩy hai trăm linh chín gam). Mẫu ký hiệu A1; Một chai bằng nhựa trong suốt, có gắn một ống bằng gỗ trên thân chai; Một bật lửa gas màu đỏ có dòng chữ 555 víp.
Bản cáo trạng số: 12/CT – VKSTH – HS ngày 24/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã truy tố Trần Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Trần Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Văn P từ 12 đến 15 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 04/01/2021.
Vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì ghi số: 60/GĐ – PC09, đã được niêm phong dán kín, có 03 dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và chữ ký của những người liên quan trên mép dán, bên trong là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng là 0,209g (không phẩy hai trăm linh chín gam). Mẫu ký hiệu A1; Một chai bằng nhựa trong suốt, có gắn một ống bằng gỗ trên thân chai; Một bật lửa gas màu đỏ có dòng chữ 555 víp. Án phí áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và người chứng kiến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và Điều tra viên. Hành vi tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền. Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 04/01/2021 tại tiểu khu 3, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến cũng như lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và lời khai tại phiên tòa đều phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với tang vật đã thu được, phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra Công an huyện Tuyên Hóa đã thu thập được qua đó đã có căn cứ để xác định: Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 03/01/2021 Trần Văn P đến cầu Bệnh viện gần trường Đại học Quảng Bình, thành phố Đồng Hới gặp một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể, đặt vấn đề mua ma túy để sử dụng. Người đàn ông này đồng ý bán cho P 05 viên ma túy loại hồng phiến với giá: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) rồi P bắt xe về xã S, huyện H rủ chị Nguyễn Thị T ở cùng thôn đến nhà nghỉ Đức Trung, thuộc tiểu khu 3, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình thuê phòng số 306 để nghỉ. Sáng ngày 04/01/2021 P lấy 02 viên ma túy đưa vào nhà vệ sinh của phòng 306 để sử dụng. Khoảng 17 giờ cùng ngày, tổ công tác Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình tiến hành kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người của Trần Văn P có một cuộn giấy màu trắng, bên trong chứa 03 viên nén hình tròn màu hồng, dạng thuốc tân dược. Trần Văn P khai nhận đó là ma túy, loại hồng phiến mua về để sử dụng. Tại Bản kết luận giám định số: 60/GĐ-PC09 ngày 07/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 03 (Ba) viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng là: 0,303g (không phẩy ba trăm linh ba gam). Như vậy có đủ căn cứ để khẳng định Trần Văn P đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đúng như nội dung bản cáo trạng số: 12/CT – VKSTH – HS ngày 24/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã truy tố và lời phát biểu kết luận vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại ma túy, hành vi đó là nguy hiểm đối với xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa bàn gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để có mức án phù hợp với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục và làm gương cho người khác. Hội đồng xét xử thấy các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được áp dụng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người phạm tội đã khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải.
Liên quan trong vụ án còn có: Người đàn ông bán ma túy cho Trần Văn P hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, cơ quan điều tra đang tiến hành xác minh lúc nào có căn cứ sẻ xử lý sau. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với ông Đinh Xuân M là chủ nhà nghỉ Đức Trung thuộc tiểu khu 3, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình và chị Nguyễn Thị T là người thuê phòng nghỉ. Quá trình điều tra đã được làm rõ khi Trần Văn P vào phòng nghỉ đã mang theo ma túy để sử dụng chị Nguyễn Thị T và ông Đinh Xuân M không biết nên không cấu thành tội phạm. Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực mình quản lý quy định tại điểm a khoản 4 Điều 21 Nghị định số: 176/2013/NĐ- CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ đối với ông Đinh Xuân M chủ nhà nghỉ. Ngày 29/01/2021 Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống tệ nạn xã hội số tiền 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) và ông Đinh Xuân M đã nộp đủ, còn chị Nguyễn Thị T nhắc nhở, giáo dục. Hội đồng xét xử thấy việc xử lý hành chính đối với ông Đinh Xuân M là đúng quy định của pháp luật, quá trình điều tra ông Mánh không có khiếu nại gì, tại phiên tòa ông Đinh Xuân M vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về vật chứng vụ án: Cơ quan Công an huyện Tuyên Hóa đã thu giữ 0,303g (không phẩy ba trăm linh ba gam) ma túy loại Methamphetamine sau khi lấy mẫu giám định số ma túy còn lại là 0,209g (không phẩy hai trăm linh chín gam) Mẫu ký hiệu A1được niêm phong dán kín trong một bì thư; Một chai bằng nhựa trong suốt, có gắn một ống bằng gỗ trên thân chai; Một bật lửa gas màu đỏ có dòng chữ 555 víp. Hội đồng xét xử thấy đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng do đó cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy.
[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định nghĩa vụ chịu án phí trong vụ án hình sự buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trần Văn P 12 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (04/01/2021).
Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Văn P 45 ngày để đảm bảo thi hành án theo quyết định của Hội đồng xét xử.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu, tiêu hủy:
- 01 (một) phong bì ghi số: 60/GĐ – PC09 đã được niêm phong dán kín, có ba dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và chữ ký của những người liên quan trên mép dán. Bên trong là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,209g (Không phẩy hai trăm linh chín gam). Mẫu ký hiệu A.
- 01(một) bật lửa ga màu đỏ có dòng chữ 555 víp.
- 01 (một) chai bằng nhựa trong suốt, có gắn một ống bằng gỗ trên thân chai.
Số vật chứng này hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/3/2021 giữa Cơ quan Công an huyện Tuyên Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định nghĩa vụ chịu án phí trong vụ án hình sự buộc bị cáo Trần Văn P phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 28/4/2021 để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đinh Xuân Mánh thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!