Bản án số 14/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 14/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 14/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 14/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 14/2024/DS-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Thanh Miện (TAND tỉnh Hải Dương) |
Số hiệu: | 14/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyên đơn bà Vũ Thị L; Bị đơn ông Vũ Đình Q, bà Nguyễn Thị T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN M
TỈNH H
Bản án số: 14/2024/DS-ST
Ngày: 27-9-2024.
V/v Tranh chấp Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M - TỈNH H
- Thành phần Hội đồng xét xử (HĐXX) sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà N Thanh Nhàn.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà N Thị Hoài, Bà Đoàn Thị Chuyền
- Thư ký phiên toà: Ông Bùi Hoàng Anh - Thư ký Toà án nhân dân huyện
M, tỉnh H.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M tham gia phiên toà: Bà An
Thị Hà T1 - Kiểm sát viên.
Ngày 27/9/2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh H xét xử sơ
thẩm công kH3 vụ án dân sự thụ lý số 18/2024/TLST-DS ngày 14 tháng 10 năm
2022 về tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 23/2023/QĐXXST-DS ngày 19/12/2023, Quyết định
hoãn phiên toà, Quyết định tạm ngừng phiên toà, Thông báo tiếp tục tiến hành
phiên toà, Quyết định hoãn phiên toà và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên
toà, giữa các đương sự:
1. NguY đơn: Bà Vũ Thị L, sinh năm 1963.
Nơi cư trú: thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H; Có mặt.
2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà L: Bà N Thị Kiều T1, sinh năm
1994 - Luật sư, Văn phòng luật sư Công ty Luật TNHH Niềm tin công lý, Đoàn luật sư
thành phố Hà Nội; Có mặt.
3. Bị đơn:
Ông Vũ Đình Q, sinh năm 1963; Có mặt.
Bà N Thị T, sinh năm 1969; Có mặt.
Nơi cư trú: Thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H.
4. Người đại diện theo ủy quyền của ông Q, bà T:
Anh Vũ Đức N, sinh năm 1989.
Nơi cư trú: Tổ 5, thôn Phù Tải 1, xã G, huyện M, tỉnh H; Vắng mặt.
5. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Uỷ ban nhân dân huyện M, tỉnh H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông N T2 - Chức vụ: Chủ tịch UBND huyện.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông N T3 - Chức vụ: Trưởng phòng TÀI nguY và
Môi trường huyện M; Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
+ Ủy ban nhân dân xã G, huyện M, tỉnh H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Đình N - Chức vụ: Chủ tịch UBND xã G;
Vắng mặt, đề nghị xét xử vắng mặt.
2
+ Ông Vũ Đình D, sinh năm 1955 và bà N Thị M1, sinh năm 1958.
Nơi cư trú: Thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H; Có mặt.
+ Ông Vũ Đình X, sinh năm 1959.
Nơi cư trú: Thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H; Có mặt.
+ Ông Vũ Hữu Y, sinh năm 1961.
Nơi cư trú: thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H; Có mặt.
+ Anh Vũ Đình T4, sinh năm 1971; Có mặt.
Chị N Thị H1, sinh năm 1975; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Đội 14, thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H (Anh T4, chị H1 uỷ
quyền cho ông Vũ Hữu Y).
+ Anh Vũ Đức H2 và chị Vũ Thị Y1, sinh năm 1979.
Nơi cư trú: Đội 14, thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H; Vắng mặt.
6. Người đại diện theo ủy quyền của bà L, ông X: Ông Vũ Văn H3, sinh năm
1980, Nơi cư trú: Số nhà P24, phố Trần Văn Trứ, khu đô thị Hà Phương, thị trấn M,
huyện M, tỉnh H; Có mặt.
7. Người làm chứng:
- Ông Vũ Đình T5, sinh năm 1966; Nơi cư trú: thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh
H; Vắng mặt.
- Ông Phạm Văn S, sinh năm 1972; Nơi cư trú: thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh
H; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện, quá trình kH3 tại Tòa án và tại phiên toà, nguY
đơn bà Vũ Thị L và người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Năm 2008, vợ chồng bà L ông X đi công tác không ở nhà nên có nhờ ông
Vũ Đình T5 (em trai ông X) tìm hiểu và mua hộ một mảnh đất ở thôn Đan Giáp,
xã G. Sau đó ông T5 thông báo với vợ chồng bà là có mảnh đất của vợ chồng
ông Q bà T tại thửa số 126, tờ bản đồ số 03, diện tích 143m
2
rao bán với giá 85
triệu đồng. Vợ chồng bà nhờ ông T5 đến gặp vợ chồng ông Q hỏi mua đất và
hẹn ngày trả tiền. Ngày 09/8/2008, vợ chồng bà đến nhà ông Q bà T cùng với sự
có mặt của ông T5, ông S (Phó thôn), ông T4 (hàng xóm giáp ranh). Sau khi trao
đổi thống nhất xong, H3 bên lập Biên bản mua bán chuyển nhượng đất đai ngày
09/8/2008, với nội dung:
"Gia đình ông Vũ Đình Q có bán chuyển nhượng cho gia đình ông Vũ
Đình X mảnh đất với vị trí, hình thể và diện tích là:
+ phía Đông giáp dãnh nước của tập thể và đất ở của gia đình ông T4 có
chiều dài 24,3 m;
+ phía Tây giáp phần đất còn lại của gia đình ông Vũ Đình Q có chiều
dài: 24,3m;
+ phía Nam giáp trục đường của thôn có chiều dài 4,2m
+ phía bắc giáp đường vào chùa có chiều dài 4,2m
Tổng diện tích thửa đất nhượng bán là 102 m
2
Gia đình ông Vũ Đình Q và gia đình ông Vũ Đình X thỏa thuận nhượng
bán với tổng số tiền là 82.000.000 đồng.
Gia đình ông Q đã nhận đủ số tiền trên và gia đình ông X được toàn
quyền sử dụng mảnh đất trên từ ngày 09/8/2008
3
Lệ phí trước bạ sang tên bên mua chịu trách nhiệm, phía gia đình ông Q
phải tạo điều kiện giúp đỡ mọi thủ tục có liên quan để sang tên sử dụng. Các
công trình nằm trên phần đất nhượng bán gia đình ông Q phải tháo dỡ trả lại
mặt bằng cho gia đình ông X. Thời hạn cuối cùng ngày 31/12/2010...".
Vợ chồng bà đã giao tiền cho vợ chồng ông Q đủ 82 triệu đồng, những
người có mặt chứng kiến đều ký tên. Thửa đất này thực tế là của ông D bán cho
ông Q, nhưng vợ chồng bà không biết, chỉ biết là tại thời điểm mua bán thì vợ
chồng ông Q đang là người sử dụng mảnh đất này. Năm 2014, vợ chồng bà đã
xây nhà kiên cố H3 tầng khép kín, xây hết diện tích đất đã mua.
Sau đó, vợ chồng bà nhiều lần nói chuyện và yêu cầu vợ chồng ông Q
chuyển giao sổ đỏ để thực hiện thủ tục sang tên. Nhưng gia đình ông Q không
hợp tác. Có một lần ông Q đến UBND xã cùng với bà L hỏi thủ tục làm bìa đỏ,
nhưng đến lúc xã yêu cầu trình sổ đỏ ra, ông Q trả lời sổ đỏ đang để trong Ngân
hàng chưa trình ra được. Suốt thời gian từ năm 2008 đến nay, vợ chồng bà liên
tục đề nghị vợ chồng ông Q phối hợp sang tên sổ đỏ, nhưng gia đình ông Q
không hợp tác. Đồng thời, vợ chồng bà cũng nhiều lần đến UBND xã G hỏi thủ
tục và làm đơn đề nghị các ban, ngành có thẩm quyền để gia đình bà được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng đều được trả lời là không làm được.
Tại đơn khởi kiện ghi ngày 25/4/2022, nguY đơn bà Vũ Thị L yêu cầu
Toà án giải quyết những vấn đề sau: Công nhận một phần giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo Biên bản mua bán chuyển nhượng đất đai đã lập
ngày 09/8/2008, cụ thể: Công nhận quyền sử dụng hợp pháp của ông Vũ Đình X
bà Vũ Thị L đối với phần diện tích đất chuyển nhượng hợp pháp (Xc định theo
giá trị thực tế sau khi tiến hành đo đạc, thẩm định tại chỗ); Buộc ông Vũ Đình Q
và bà N Thị T bồi tH1 thiệt hại đối với phần diện tích đất nằm trong giao dịch
chuyển nhượng nhưng không được Nhà nước thừa nhận. Mức bồi tH1 được Xc
định theo giá trị thực tế định giá và diện tích đất nằm ngoài giấy chứng nhận,
tạm tính là: (102-60) x 17.000.000 = 714.000.000 đồng; Cho phép ông Vũ Đình
X bà Vũ Thị L được tự liên hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước để làm thủ tục
đăng ký biến động đất đai đối với phần diện tích đất chuyển nhượng hợp pháp.
Tại Đơn sửa đổi yêu cầu khởi kiện ngày 17/01/2024 và tại phiên toà, bà L
sửa đổi nội dung yêu cầu khởi kiện, bà đề nghị Tòa án giải quyết Công nhận
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 09/8/2008 giữa bên bán
là ông Vũ Đình Q, bà N Thị T với bên mua là ông Vũ Đình X, bà Vũ Thị L; Cho
phép bên mua là ông X bà L được tự liên hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước
để làm thủ tục đăng ký biến động đất đai đối với phần diện tích đất nhận chuyển
nhượng. Trên cơ sở Đơn sửa đổi yêu cầu khởi kiện, tại phiên toà bà L rút yêu
cầu đối với nội dung khởi kiện buộc ông Vũ Đình Q và bà N Thị T bồi tH1 thiệt
hại đối với phần diện tích đất nằm trong giao dịch chuyển nhượng nhưng không
được Nhà nước thừa nhận, mức bồi tH1 là 714.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Đình X nhất trí với ý kiến
của bà Vũ Thị L.
* Quá trình làm việc với Tòa án và tại phiên tòa, bị đơn ông Vũ Đình Q
và người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
4
Ông Xc định nguồn gốc thửa đất ông bán cho bà L ông X là đất do ông D
bà M1 trúng đấu giá của UBND xã G năm 1995. Ngày 21/9/2007, ông D đã viết
bản cam kết chuyển quyền sử dụng đất ở cho ông, và giao đất cho gia đình ông
sử dụng. Hiện trạng đất khi đó ông D giao cho gia đình ông là thửa đất ông D đã
trúng đấu thầu năm 1995. Sau đó gia đình ông chưa sang tên sổ đỏ. Ngày
09/8/2008, vợ chồng ông bán một phần diện tích thửa đất này cho bà L ông X,
thông qua Biên bản mua bán chuyển nhượng đất đai với giá 82 triệu đồng. Khi
ông bà bán đất cho bà L thì chỉ bán một phần của thửa đất, cụ thể là bán phần
diện tích đất có cạnh mặt đường và cạnh phía sau giáp ao Chùa là 4,2 mét; cạnh
chiều sâu H3 bên là 24,3 mét, diện tích đất bán cho vợ chồng bà L là 102m
2
. Khi
tiến hành giao đất, H3 bên chỉ đo mỗi cạnh mặt đường là 4,2 mét chạy thẳng hết
đất, còn các cạnh khác thì không đo. Khi vợ chồng bà L mua đất cũng không
yêu cầu xem sổ đỏ mà H3 bên chỉ thỏa thuận lập Biên bản mua bán viết tay,
không công chứng, chứng thực, không đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Khi mua bán vẫn là đất trống, sau đó vợ chồng bà L xây nhà H3 tầng
kiên cố và sinh sống trên thửa đất từ đó đến nay không có tranh chấp. Khi ông đi
làm thủ tục sang tên sổ đỏ cho vợ chồng bà L, chính quyền địa phương chỉ tiếp
nhận hồ sơ và chưa giải quyết việc sang tên sổ đỏ được, do vướng mắc nhiều
nguY nhân về đất đai ở địa phương.
Theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông D đối với
thửa đất ông D đã mua năm 1995 thì thửa đất này là thửa số 126, tờ bản đồ số 03
có tứ cạnh như sau: cạnh phía Bắc dài 13m; cạnh phía Tây dài 9m; cạnh phía
Đông dài 11m; cạnh phía Nam (giáp mặt đường chính của thôn) dài 12m. Tổng
diện tích thửa đất được cấp là 143m
2
. Ông Xc định thửa đất này có chiều dài các
cạnh không khớp với diện tích đất mà ông đã nhận từ ông D trên thực tế.
Nay bà L khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết công nhận Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 09/8/2008 giữa bên bán là vợ chồng
ông với bên mua là ông X bà L, ông nhất trí, đồng thời ông cũng nhất trí với yêu
cầu của bà L về việc vợ chồng bà L được tự liên hệ với các cơ quan quản lý Nhà
nước để làm thủ tục đăng ký biến động đất đai đối với phần diện tích đất nhận
chuyển nhượng.
Bà N Thị T nhất trí với ý kiến của ông Q.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Đình D trình bày:
Khoảng năm 1994 - 1995, UBND xã G có chủ trương bán đấu giá khu đất
ao thôn Đan Giáp, xã G cho một số hộ dân làm đất ở. Thời điểm đó có 05 hộ
đứng ra đấu giá đất là hộ ông Vũ Đình N, ông Vũ Đình D, ông Vũ Hữu Y, ông
N Trác Thăng, ông N Trác Quả. Nhà ông tham gia đấu giá một thửa đất với số
tiền 4.700.000 đồng, trúng đấu giá và nộp tiền ngay cho thôn (thôn trực tiếp
đứng ra thu). Sau đó, cán bộ thôn và xã tiến hành giao đất cắm mốc, bà M1 (vợ
ông) ra nhận đất. Thời điểm giao nhận đất vẫn là mặt nước ao. Năm 1997, ông
giao quyền quản lý thửa đất đã trúng đấu giá cho bố mẹ. Sau đó bố mẹ ông tiến
hành đổ cát san lấp thửa đất. Năm 1999, bố mẹ ông mua một thửa đất của ông
Vũ Đình N đã trúng đấu giá ở thửa kế bên. Năm 2001, bố mẹ ông để lại cho vợ
chồng ông Q bà T được quyền sử dụng cả H3 thửa đất trên. Gia đình ông thống
5
nhất để ông Q là người chịu trách nhiệm làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất
(sang tên sổ đỏ).
Ngày 22/8/2003, Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
tên ông là Vũ Đình D (vì hộ gia đình ông đã trúng đấu giá đất ao vào năm 1995)
đối với thửa đất số 126, tờ bản đồ số 03, diện tích 143m
2
đất ở lâu dài, kích
thước thửa đất được cấp như sau: Cạnh giáp mặt đường chính của thôn dài 12
mét (mặt tiền); Cạnh phía sau (phía đường vào xóm chùa) dài 13 mét; Cạnh giáp
đất nhà ông N dài 09 mét; Cạnh giáp đất nhà ông Thăng dài 11 mét (trên thực tế
thì cạnh này không giáp đất ông Thăng mà giáp đường thoát nước trong xóm
Chùa chảy ra, đường thoát nước này nằm bên cạnh đất nhà ông T4 đang ở hiện
nay và chiều dài các cạnh được cấp trong giấy chứng nhận cũng không phù hợp
với thực tế hiện trạng mà ông được Nhà nước giao cho năm 1995. Việc ông Q
bán đất cho bà L như thế nào và vào thời điểm nào ông không biết. Đến khi ông
X bà L đến nhà ông hỏi về nguồn gốc thửa đất thì ông mới biết vợ chồng ông Q
đã bán đất cho bà L. Và thời điểm ông Q bán đất thì cũng chưa chuyển được
quyền sử dụng đất từ ông sang ông Q. Tuy nhiên, ông Xc định thực tế việc gia
đình ông đã chuyển giao toàn bộ thửa đất trúng đấu giá của UBND xã G năm
1995 cho ông Q bà T sử dụng là đúng.
Ngày 21/9/2007, ông đã viết giấy cam kết chuyển quyền sử dụng thửa đất
126 cho ông Q. Sau đó, ông Q đã đến UBND xã G đề nghị làm thủ tục sang tên
nhưng UBND xã giải thích là có vướng mắc không sang tên được.
Đối với yêu cầu khởi kiện của bà L, ông có ý kiến như sau: Ông Xc định
mình chỉ là người liên quan vì đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, còn thực tế gia đình ông đã chuyển quyền sử dụng thửa đất này cho vợ
chồng ông Q quản lý sử dụng từ năm 2001. Đến nay ông không tranh chấp đất
với vợ chồng ông Q. NguY nhân không sang tên sổ đỏ được là do có sự sai lệch
nhiều giữa bản đồ địa chính với hiện trạng sử dụng đất, cụ thể: Khoảng năm
1994-1995, thôn xã chủ trương bán đấu giá 04 suất đất ở khu ao Chùa, nhưng
thực tế lại triển kH3 bán đấu giá 05 suất đất cho 05 hộ, dẫn đến Nhà nước cấp sổ
đỏ không đúng với hiện trạng thực tế sử dụng đất của các hộ.
Ông Xc định thửa đất số 126, tờ bản đồ số 03 là thuộc quyền sử dụng của
vợ chồng ông Q, ông chỉ là người liên quan trên giấy tờ. Việc Nhà nước cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với số thửa 126, tờ bản đồ số 03, diện
tích 143 m
2
cho ông là đúng về mặt thủ tục (vì hộ gia đình ông là người trúng
đấu giá đất năm 1995), nhưng vị trí, kích thước, hình thể, diện tích của thửa đất
được cấp thì chưa đúng với thực tế thửa đất đã được giao nhận khi trúng đấu giá
và thực tế sử dụng đất.
Bà M1 nhất trí với ý kiến ông D và trình bày bổ sung: Sau khi trúng đấu
giá một suất đất, bà M1 là người đi nhận đất. Kích thước thửa đất được UBND
xã giao vào thời điểm đấu giá là: cạnh mặt đường chính của thôn dài khoảng 7,7
mét; cạnh phía sau giáp đường vào chùa dài khoảng 7,7 mét; H3 cạnh chiều sâu
đều là khoảng 23 mét. Khi nhận đất thì cán bộ địa chính xã và cán bộ thôn đã
cầm dây đo đạc cụ thể và cắm mốc. Thửa đất của nhà bà một bên giáp thửa đất
của hộ ông Vũ Đình N, phía bên kia giáp đường tháo nước từ xóm Chùa ra
(đường thoát nước này hiện nay nằm cạnh đất nhà ông Vũ Hữu Y), chứ không
6
có con đường nào đi vào trong xóm chùa qua đất nhà bà. Năm 2003, bà nhận
được sổ đỏ của Nhà nước cấp đối với thửa đất số 126, tờ bản đồ số 03 mang tên
ông Vũ Đình D, bà không để ý nội dung thửa đất được cấp như thế nào và đem
cất đi. Đến khi ông Q bán một phần thửa đất này cho bà L và đi làm thủ tục sang
tên thì vợ chồng bà mới biết là sổ đỏ được cấp không đúng với hiện trạng sử
dụng đất nên không sang tên được.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Hữu Y trình bày:
Khoảng năm 1994-1995, UBND xã G bán đấu giá đất khu ao Chùa thôn
Đan Giáp, ông đến đăng ký mua đấu giá và nộp tiền ngay. Ông trúng được một
suất đất có cạnh mặt đường dài 7,7m; phía sau giáp ao Uỷ ban dài 11,5m; H3
cạnh bên dài khoảng 22m-24m (cán bộ địa chính xã trực tiếp đo đất để giao cho
hộ dân trúng đấu giá). Đất lúc đó vẫn là ao. Thửa đất của ông phía Tây Nam
giáp thửa đất của ông Vũ Đình D, phía Đông Bắc giáp thửa đất nhà bà Ổn ông
Tuất. Sau khi trúng đấu giá, Nhà nước chưa cấp sổ đỏ ngay mà các hộ vẫn sử
dụng diện tích đất của nhà mình được giao. Năm 1999, ông bán thửa đất cho nhà
anh T4 chị H1, lúc này đất vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận. Sau đó, Nhà
nước cấp sổ đỏ cho 04 hộ gia đình là ông D, ông N, bà Ổn, bà Quả, còn thửa đất
của hộ gia đình ông thì không được cấp giấy chứng nhận. Vì vậy, ông đến
UBND xã G hỏi thì được trả lời là đất nhà ông không có trên bản đồ nên không
được cấp bìa đỏ. Ông Xc định từ khi trúng đấu giá đất, quá trình sử dụng đất
không có tranh chấp với các hộ giáp ranh. Ông đề nghị Tòa án xem xét giải
quyết theo quy định pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Vũ Đình T4, chị N Thị
H1 nhất trí với ý kiến của ông Y và trình bày:
Năm 2000, vợ chồng anh chị mua thửa đất của ông Vũ Hữu Y. Nguồn gốc
thửa đất này là do ông Y mua đấu giá của UBND xã G vào năm 1995. Khi mua,
H3 bên lập giấy viết tay, đất vẫn chưa được cấp sổ đỏ. Thửa đất một bên (phía
Đông) giáp đất ông Thăng, một bên (phía Tây) giáp đất ông D, phía Nam giáp
đường thôn, phía Bắc giáp ao Ủy ban. Khi mua thửa đất có đo thực tế chiều
ngang mặt đường dài 7,7 mét, chiều dài H3 cạnh sâu là 24m, diện tích 143m
2
.
Khi mua vẫn là ao, anh chị ra lấp cát và xây nhà đầu tiên trong khu vực. Quá
trình mua bán và sử dụng đất, các hộ giáp ranh không có tranh chấp. Anh chị
xây nhà 05 mét chiều ngang, còn 02 mét đất mặt đường anh chị bán cho vợ
chồng anh H2 chị Y1. Đến nay, thửa đất anh chị mua của ông Y vẫn chưa được
cấp giấy chứng nhận. Nay bà L khởi kiện vụ án, anh chị đề nghị Tòa án giải
quyết theo quy định pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị Y1 trình bày:
Diện tích đất vợ chồng chị đang ở hiện nay là do chị mua của nhà anh T4
02 m đất mặt đường và mua của bố mẹ chị (ông Bôn bà Y) 02 m đất mặt đường
(thời điểm mua năm 2010-2011), được 04 m mặt đường để làm nhà H3 tầng,
chiều sâu 24 mét. Sau khi mua đất xong đến nay, anh chị vẫn chưa đến cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Quá trình sử dụng đất, các hộ giáp ranh không có tranh chấp.
Anh Vũ Đức H2 không trình bày ý kiến.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND xã G trình bày:
7
Giai đoạn trước năm 1994-1995, UBND xã G và thôn Đan Giáp đã thực
hiện việc bán đất cho các hộ dân ở khu Ao chùa, trong đó có hộ ông Vũ Đình D.
Theo bản đồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994-1995, có 04 hộ
được cấp giấy gồm: hộ ông Vũ Đình D, hộ ông Vũ Đình N, hộ ông N Trác Quả
và hộ ông N Trác Thăng. Hộ ông D được cấp giấy chứng nhận đối với thửa số
126, tờ bản đồ số 3, diện tích 143m
2
. Sau đó hộ ông D tự chuyển nhượng (bán)
đất cho người khác mà không đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hiện tại trên thửa đất số 126 theo hồ sơ cấp giấy thể hiện có một phần diện tích
đất vợ chồng bà L ông X đã xây nhà đang quản lý sử dụng, một phần của thửa
đất do vợ chồng ông T4 bà H1 đã xây nhà đang quản lý sử dụng; một phần thửa
đất do vợ chồng ông H2 bà Y1 đang quản lý sử dụng.
Đến nay thửa đất số 126 vẫn mang tên ông Vũ Đình D, chưa tách
thửa/đăng ký sang tên cho ai.
Thực tế trên thửa đất này các hộ tự ý mua bán, chuyển nhượng không
đăng ký kê kH3 tại cơ quan Nhà nước, không thực hiện thủ tục mua bán chuyển
nhượng theo quy định pháp luật.
Trong khu vực đất ao chùa, hiện nay có các hộ đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là hộ ông Vũ Đình D, ông N Trác Thăng, ông N Trác
Quả, ông Vũ Đình N. Thực tế sử dụng đất, ngoài việc các hộ sử dụng diện tích
đất được cấp trong sổ đỏ thì các hộ còn xây dựng công trình vào đất tập thể ở
phía sau.
Trong quá trình sử dụng, gia đình bà L ông X đã đăng ký trích đo để hoàn
thiện hồ sơ cấp đổi/cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
Khi Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện kiểm tra đo đạc tại thực địa thì thấy
thực tế sử dụng so với hồ sơ cấp giấy là không phù hợp và không đủ điều kiện
để thực hiện tách thửa. Vì theo quy định của UBND tỉnh thì điều kiện để tách
thửa là không đủ, không đáp ứng về diện tích và kích thước chiều mặt đường;
đồng thời trên bản đồ cấp giấy thể hiện giáp đất ông D về phía Tây là đường
xóm nhưng trên thực địa là không có con đường này mà thực tế so với bản đồ thì
một phần của con đường này nhà bà L X đang sử dụng và một phần là nhà ông
Q bà T đang sử dụng.
Thời điểm đo đạc năm 1994-1995 Cấp uỷ Ban lãnh đạo thôn Đan Giáp có
dự định mở con đường từ đường trục thôn đi vào Chùa qua ao nên trong bản đồ
đo đạc năm 1994-1995 có thể hiện con đường đi. Tuy nhiên con đường đó trên
thực tế đã không làm mà cấp đất cho các hộ theo Biên bản đấu thầu thùng ao
phát triển kinh tế gia đình (khu Đan giáp) năm 1995, đã được cấp giấy chứng
nhận năm 2003. Hiện nay toàn bộ khu đất ao chùa thôn Đan Giáp cũng không
thuộc diện đất quy hoạch của Nhà nước. Đề nghị các cấp có thẩm quyền xem xét
giải quyết cho các hộ dân theo hiện trạng sử dụng để đảm bảo quyền lợi cho các
hộ dân khu Ao chùa, thôn Đan Giáp.
UBND xã cung cấp Biên bản đấu thầu thùng ao phát triển kinh tế gia đình
ngày 12/3/1995; Sơ đồ, trích lục các thửa đất khu ao chùa.
* Xc minh tại Phòng TÀI nguY Môi trường huyện M thể hiện: Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 757 cấp ngày 22/8/2003 mang tên ông Vũ
Đình D được UBND huyện M cấp trên cơ sở hồ sơ địa chính đo vẽ năm 1994 để

8
phục vụ cho việc cấp giấy chứng nhận, được UBND xã xét duyệt hồ sơ và đề
nghị cấp giấy chứng nhận. Trong trường hợp hồ sơ địa chính đo vẽ có sự sai sót
dẫn đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa đúng thì UBND
huyện có thể thu hồi giấy chứng nhận để cấp đổi, cấp lại theo quy định của pháp
luật về đất đai, trên cơ sở nguồn gốc đất do UBND xã Xc nhận và đề nghị.
* Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ thể hiện:
Hộ gia đình bà L ông X hiện đang quản lý, sử dụng phần đất nhận chuyển
nhượng của ông Q bà T có tổng diện tích là 103,7m
2
, tứ cạnh : Phía Nam giáp
đường trục thôn dài 4,27m ; phía Đông giáp mương nước dài 25,24m ; phía Tây
giáp đất ông Q bà T dài 24,41m ; phía Nam giáp đường xóm và ao UBND xã dài
4,12m. Trên đất, bà L ông X đã xây công trình hết phần đất đã nhận chuyển
nhượng, gồm nhà H3 tầng, bếp phụ, lán tôn, sân, cổng. Đất ở có giá
9.000.000đ/1m
2
; Tổng giá trị TÀI sản nằm trên đất các đương sự yêu cầu định
giá là 296.409.000 đồng.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguY đơn trình bày:
Nguồn gốc thửa đất vợ chồng ông Q bà T bán cho ông X bà L là do ông D
mua đấu giá của UBND xã G năm 1995, phù hợp với nội dung Biên bản đấu
thầu thùng ao phát triển kinh tế gia đình lập ngày 12/3/1995 do UBND xã G
cung cấp. Tuy nhiên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện M
cấp cho hộ ông D không trùng khớp với thửa đất mà UBND xã G đã bàn giao
cho gia đình ông D, cụ thể : thửa đất mà hộ ông D thực tế sử dụng nằm chồng
lên con đường xóm, chồng lên thửa đất hộ ông Y mua đấu giá. Tuy nhiên, con
đường xóm chỉ xuất hiện trên bản đồ cấp giấy chứng nhận mà không tồn tại trên
thực tế. Như vậy cho thấy việc UBND huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho hộ ông Vũ Đình D vào năm 2003 là bị chồng lấn, không đúng vị
trí, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất. Căn cứ vào
điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai 2013, yêu cầu Toà án đề nghị Cơ quan có
thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cho hộ ông Vũ Đình D ngày
22/8/2003. Đề nghị Toà án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất Xc lập giữa ông Q bà T với ông X bà L, cho phép hộ bà L được liên hệ với
các Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất hộ bà L đã nhận chuyển nhượng.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M phát biểu ý kiến:
- Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán trong quá trình thu thập chứng
cứ, của HĐXX và thư ký phiên toà tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự; những người tham gia tố tụng đã chấp hành các quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ theo quy định tại điều 116, 177, 119, 122 khoản 2 Điều 129
BLDS, Điều 106 Luật đất đai năm 2003, Điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228 BLTTDS, Luật phí và lệ
phí, Nghị quyết 326 của UBTVQH, đề nghị HĐXX
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà L về việc công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Biên bản mua bán chuyển nhượng
đẩt đai đã lập ngày 09/8/2008, cụ thể: Công nhận quyền sử dụng hợp pháp của

9
ông Vũ Đình X bà Vũ Thị L đối với phần diện tích đất chuyển nhượng có chiều
mặt đường là 4,27m, chiều sâu H3 cạnh là 22m, diện tích 91,9m
2
đất ở. Bà L
ông X có quyền liên hệ với Các cơ quan quản lý Nhà nước để làm thủ tục đăng
ký quyền sử dụng đất đối với phân diện tích đẩt chuyển nhượng hợp pháp.
Đối với phần diện tích đất dôi dư phía sau là 11,8m
2
, tạm giao cho bà L
ông X quản lý sử dụng.
Kiến nghị UBND huyện M thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp ngày 22/8/2003 mang tên ông Vũ Đình D.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà L đối với yêu cầu buộc ông Vũ Đình Q
và bà N Thị T bồi tH1 thiệt hại đối với phần diện tích đất nằm trong giao dịch
chuyển nhượng nhưng không được Nhà nước thừa nhận là 714.000.000 đồng
(bẩy trăm mười bốn triệu đồng).
Về chi phí thẩm định giá: Các đương sự chịu theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Các đương sự chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các TÀI liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên toà, trên cơ sở ý kiến của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại
diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND huyện M,
UBND xã G vắng mặt, có đề nghị xét xử vắng mặt; chị N Thị H1, anh Vũ Đức
H2, chị Vũ Thị Y1 vắng mặt lần thứ H3; Người làm chứng ông T5, ông S vắng
mặt lần thứ H3. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều
229 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người
trên.
[2] Về pháp luật áp dụng, thời hiệu khởi kiện: Căn cứ vào Biên bản
mua bán chuyển nhượng đất đai ngày 09/8/2008 có nội dung H3 bên thống nhất
thoả thuận “Gia đình ông Q đã nhận đủ số tiền trên và gia đình ông X được
toàn quyền sử dụng mảnh đất từ ngày 09/8/2008. Lệ phí trước bạ sang tên bên
mua chịu trách nhiệm, phía gia đình ông Q phải tạo điều kiện giúp đỡ mọi thủ
tục có liên quan để sang tên sử dụng… ” nên Xc định thời hạn thực hiện giao
dịch của Hợp đồng vẫn đang được thực hiện (chưa xong thủ tục sang tên), về nội
dung, hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên áp
dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 là đúng với quy định tại điểm b khoản 1 Điều
688 Bộ luật Dân sự năm 2015. Căn cứ Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì vụ
án vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
[3] Về nội dung:
[3.1] NguY đơn bà Vũ Thị L khởi kiện đề nghị Toà án công nhận Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 09/8/2008 (tức Biên bản mua
bán chuyển nhượng đất đai) giữa bên bán là ông Q bà T với bên mua là ông X
bà L. Các đương sự đều thừa nhận toàn bộ nội dung ghi trong Biên bản mua bán
chuyển nhượng đất đai lập ngày 09/8/2008 là đúng, thể hiện đúng ý chí nguyện
vọng của H3 bên, phù hợp với lời trình bày của những người làm chứng.

10
[3.2] Xét nguồn gốc đất và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất lập ngày 09/8/2008 giữa bên bán là ông Q bà T với bên mua là ông X bà
L thì thấy:
Năm 1994-1995, UBND xã G có chủ trương bán đấu giá khu đất ao ở thôn
Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H. Thời điểm đó có 05 hộ trúng thầu, trong đó
có hộ ông Vũ Đình D. Sau khi trúng thầu, cán bộ thôn xã (ông Ảnh - cán bộ
thôn Đan Giáp) đã đến cắm mốc, giao đất trên ao cho từng hộ. Lúc giao đất cho
các hộ, toàn bộ khu đất đều là mặt ao, các hộ nằm giáp cạnh nhau theo thứ tự là
ông N, ông D, ông Y, ông Thăng, ông Quả, và không có con đường xóm nào
nằm trong khu vực đất được giao đó.
Năm 1998, gia đình ông D tiến hành san lấp đất ao. Ngày 22/8/2003, ông D
được cấp sổ đỏ đối với thửa đất này tại thửa số 126, tờ bản đồ số 03 thuộc thôn
Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H, diện tích 143m
2
có tứ cạnh: Cạnh giáp mặt
đường chính của thôn dài 12m, cạnh giáp đất nhà ông N dài 9m, cạnh giáp đất
nhà ông Thăng dài 11m, cạnh giáp đường làng cũ dài 13m. Giấy chứng nhận
được cấp không đúng với vị trí, kích thước các cạnh và diện tích đất thực tế ông
D bà M1 được nhận.
Ngày 21/9/2007, ông D viết giấy cam kết chuyển quyền sử dụng thửa đất
số 126 cho ông Vũ Đình Q (có Xc nhận của chính quyền địa phương) nhưng
chưa sang tên. Tuy nhiên ông D Xc định chỉ giao đất cho ông Q theo thực tế sử
dụng chứ không theo như các cạnh trong giấy chứng nhận đã được cấp năm
2003.
Ngày 09/8/2008, ông Vũ Đình Q và bà N Thị T chuyển nhượng 102m
2
đất
cho ông Vũ Đình X và bà Vũ Thị L (Việc chuyển nhượng do các bên tự thực
hiện không thông qua UBND xã G) và việc giao đất giữa ông Q bà T cho ông X
bà L cũng chỉ được thực hiện trên thực tế, không căn cứ theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã được cấp cho hộ ông D. Việc ông Q bà T giao đất chuyển
nhượng cho ông X bà L các hộ giáp ranh đã biết, các hộ sử dụng ổn định không
có tranh chấp gì.
Như vậy, tại thời điểm các bên thoả thuận và lập Hợp đồng mua bán
chuyển nhượng đất đai ngày 09/8/2008 đối với phần diện tích đất 102m
2
thì thửa
đất này thực tế ông Q bà T đang quản lý sử dụng. Mặc dù giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất được cấp mang tên ông Vũ Đình D, nhưng ông D bà M1 đã
công nhận quyền sử dụng đất là của ông Q bà T, nên việc ông Q bà T bán đất
cho bà L, ông X thì ông D bà M1 không có ý kiến, không tranh chấp. Sau khi
thực hiện việc chuyển nhượng, vợ chồng ông Q giao đất cho vợ chồng bà L sử
dụng từ năm 2008 đến nay. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông Q bà T với ông X bà L thể hiện qua Biên bản mua bán chuyển nhượng đất
đai ngày 09/8/2008 không được công chứng, chứng thực là vi phạm về hình
thức. Tuy nhiên, tại thời điểm giao dịch, các bên đều có đủ năng lực hành vi dân
sự, là sự tự nguyện, phản ánh đúng ý chí nguyện vọng của H3 bên. Bà L ông X
đã thanh toán tiền chuyển nhượng cho ông Q bà T 82 triệu đồng (toàn bộ giá trị
tiền chuyển nhượng), ông Q bà T đã nhận số tiền này và giao đất cho vợ chồng
bà L ông X sử dụng từ thời điểm chuyển nhượng năm 2008 đến nay. Vợ chồng
bà L đã xây nhà ở, công trình phụ trợ kiên cố hết khuôn viên thửa đất, không

11
tranh chấp với các hộ giáp ranh. Căn cứ quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều
129 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tuy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng
đất của các bên không tuân thủ về hình thức được quy định tại khoản 1 Điều 502
Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng bên nguY đơn bà L ông X đã thực hiện thanh
toán cho ông Q bà T số tiền 82 triệu đồng, đồng thời ông Q bà T đã giao quyền
sử dụng đất cho bên mua là đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong giao dịch nên
giao dịch được công nhận hiệu lực. Do vậy, yêu cầu khởi kiện của nguY đơn về
việc đề nghị Toà án công nhận hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất theo Biên bản mua bán chuyển nhượng đất đai lập ngày 09/8/2008 giữa
ông Q bà T và bà L ông X là có căn cứ nên được chấp nhận.
Quá trình sử dụng đất, bà L ông X và ông Q đã đến cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền để làm thủ tục sang tên cho hộ bà L toàn bộ thửa đất đã chuyển
nhượng năm 2008, tuy nhiên đến nay chưa làm được giấy chứng nhận. Theo kết
quả Xc minh cho thấy thời điểm đo đạc năm 1994-1995 cấp ủy Ban lãnh đạo
thôn Đan Giáp, xã G có dự định mở con đường từ đường trục thôn đi vào Chùa
(qua ao) nên trong bản đồ đo đạc năm 1994-1995 có thể hiện con đường đi. Tuy
nhiên, con đường đó trên thực tế đã không làm mà cấp đất cho các hộ theo Biên
bản đấu thầu thùng ao phát triển kinh tế gia đình khu Đan Giáp năm 1995. Mặt
khác, theo danh sách các hộ đấu thầu thùng ao năm 1995 khu vực ao làng có 05
hộ trúng đấu thầu gồm: hộ ông Vũ Đình N, hộ ông Vũ Hữu Y, hộ ông Vũ Đình
D, hộ ông N Trác Thăng, hộ ông N Trác Quả (Hoa). Nhưng theo bản đồ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994-1995 thì chỉ có 04 hộ được cấp
giấy chứng nhận gồm các hộ ông Vũ Đình D, ông Vũ Đình N, ông N Trác Quả,
ông N Trác Thăng. Riêng thửa đất trúng thầu của hộ ông Vũ Hữu Y thì chưa
được cấp giấy chứng nhận. Trên thực tế, năm 1995 có 05 hộ đấu thầu thùng ao
và UBND xã đã giao đất cho 05 hộ sử dụng là đúng. UBND huyện M cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/8/2003 mang tên ông Vũ Đình D trên cơ
sở hồ sơ địa chính đo vẽ năm 1994 được UBND xã xét duyệt và đề nghị cấp
giấy, dẫn đến giấy chứng nhận được cấp cho hộ ông Vũ Đình D là chưa phù hợp
với danh sách các hộ đấu thầu thùng ao năm 1995 khu vực ao làng thôn Đan
Giáp, chưa phù hợp với thực tế sử dụng đất. Trường hợp này, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã cấp chưa phù hợp nên cần kiến nghị UBND huyện M thu
hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Vũ Đình D để cấp đổi,
cấp lại theo quy định của pháp luật.
Kết quả Xc minh cho thấy các thửa đất ở khu vực này từ thời điểm đấu
thầu ao năm 1995 đến nay mặc dù quá trình sử dụng các hộ đã có sự chuyển
nhượng, tách đất cho nhau nhưng đều đã xây công trình kiên cố, sử dụng ổn
định không tranh chấp về mốc giới. Do vậy, cần công nhận kích thước thực tế
đang sử dụng của hộ bà L ông X với cạnh giáp đường trục thôn (cạnh A1A17)
dài 4,27m. Đồng thời, xét thấy Biên bản đấu thầu thùng ao phát triển kinh tế gia
đình ngày 12/3/1995 là TÀI liệu có giá trị pháp lý phản ánh việc giao nhận đất
thực tế cho các hộ tại thời điểm trúng thầu, nên cần công nhận theo kích thước
các cạnh hướng Đông và hướng Tây của thửa đất như đã được giao theo biên
bản là 22 mét. Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện thực tế sử dụng đất
của hộ bà L ông X có cạnh hướng Đông là 25,24 m, cạnh hướng Tây là 24,41m.

12
Trong Biên bản mua bán chuyển nhượng đất đai ngày 09/8/2008 các đương sự
chuyển nhượng cho nhau phần diện tích đất có H3 cạnh hướng Đông và hướng
Tây đều là 24,3m. UBND xã Xc định quá trình sử dụng đất, các hộ có lấn ra ao
tập thể. Do vậy, căn cứ vào các TÀI liệu chứng cứ đã thu thập được thì có căn
cứ công nhận phần đất hộ ông Q bà T được phép chuyển nhượng cho ông X bà
L có cạnh hướng Đông và hướng Tây đều là 22m, chứ không phải là 24,3m như
nội dung trong Biên bản mua bán chuyển nhượng đất đai ngày 09/8/2008 đã
được lập giữa ông Q bà T và bà L ông X. Đối với phần đất dôi dư phía sau sẽ
tạm giao cho bà Vũ Thị L, ông Vũ Đình X tiếp tục quản lý sử dụng, khi nào Nhà
nước xem xét xử lý sẽ thực hiện theo quy định pháp luật.
[4] Quá trình giải quyết vụ án, bà L ông X có gửi đơn tố cáo đối với ông
Q bà T tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M. Nhưng xét thấy đây là
giao dịch dân sự xuất phát từ sự tự nguyện thỏa thuận của các bên, đồng thời các
bên đã thực hiện toàn bộ giao dịch trả tiền, giao nhận đất, quá trình sử dụng
không có tranh chấp về ranh giới, mốc giới đất. Qua Xc minh, Cơ quan điều tra
Công an huyện M Xc định nội dung đơn tố cáo của bà L ông X là tranh chấp dân
sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện M
giải quyết xét xử vụ án là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[5] Về chi phí thẩm định giá TÀI sản: Tổng số tiền chi phí xem xét
thẩm định tại chỗ và định giá TÀI sản là 08 triệu đồng. Bà L đề nghị Tòa án giải
quyết số tiền này theo quy định pháp luật. Do yêu cầu khởi kiện của bà L được
chấp nhận một phần, chia tỉ lệ theo phần được chấp nhận và phần không được
chấp nhận thì bà L phải chịu 792.000 đồng chi phí thẩm định giá TÀI sản, ông Q
bà T phải chịu 7.208.000 đồng chi phí thẩm định giá TÀI sản. Do bà L đã nộp
xong tiền tạm ứng chi phí thẩm định giá, nên ông Q bà T phải trả cho bà L số
tiền 7.208.000 đồng.
[6] Về án phí: Bà Vũ Thị L, ông Vũ Đình Q là người cao tuổi (trên 60
tuổi) nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Bà N Thị T phải chịu 150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
Các Điều 116, 117, 119, 122, khoản 2 Điều 129, 500, 501, 502, 503 của
Bộ luật Dân sự 2015;
Điều 106 Luật đất đai năm 2003;
Điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165,
điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 229, Điều 271, Điều
273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban tH1
vụ Q hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị L về việc buộc ông Vũ Đình
Q bà N Thị T phải bồi tH1 thiệt hại đối với phần diện tích đất nằm trong giao

13
dịch chuyển nhượng nhưng không được Nhà nước thừa nhận với mức bồi tH1 là
714.000.000 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguY đơn bà Vũ Thị L về
việc đề nghị Tòa án công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập
ngày 09/8/2008 đối với phần diện tích đất chuyển nhượng là 102m
2
.
Công nhận một phần hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất theo Biên bản mua bán chuyển nhượng đất đai lập ngày 09/8/2008 giữa
ông Q bà T và bà L ông X đối với phần diện tích 91,9m
2
đất ở tại thôn Đan Giáp,
xã G, huyện M, tỉnh H, được giới hạn bởi các điểm A1, B1, B2, A17 đến A1. Tứ
cạnh thửa đất: cạnh phía Nam A1A17 giáp đường trục thôn dài 4,27 mét; cạnh
phía Tây A1B1 giáp đất ông Q bà T dài 22 mét; cạnh phía Đông A17B2 giáp
mương nước dài 22 mét; cạnh phía Bắc B1B2 giáp ao UBND xã dài 4,35 mét
(có sơ đồ kèm theo). Bà Vũ Thị L, ông Vũ Đình X có quyền sử dụng diện tích
đất trên và sở hữu toàn bộ công trình, TÀI sản trên đất.
Bà Vũ Thị L, ông Vũ Đình X được quyền liên hệ với Cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
diện tích 91,9m
2
đất ở như trên tại thôn Đan Giáp, xã G, huyện M, tỉnh H.
Tạm giao 11,8m
2
đất dôi dư ở phía Bắc được giới hạn bởi các điểm B1,
B2, A8, A7 đến B1 cho bà Vũ Thị L, ông Vũ Đình X tiếp tục quản lý sử dụng,
khi nào Nhà nước xem xét xử lý sẽ thực hiện theo quy định pháp luật.
Kiến nghị UBND huyện M thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
X 856935 cấp ngày 22/8/2003 mang tên ông Vũ Đình D.
3. Về chi phí thẩm định giá TÀI sản: Ông Vũ Đình Q, bà N Thị T phải trả
cho bà Vũ Thị L số tiền 7.208.000 đồng chi phí xem xét thẩm định giá TÀI sản.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có
đơn yêu cầu thi hành khoản tiền trên cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi
hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.
4. Về án phí: Bà Vũ Thị L, ông Vũ Đình Q là người cao tuổi (trên 60 tuổi)
nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Bà N Thị T phải chịu 150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại bà Vũ Thị L số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên
lai số AA/2021/0000835 ngày 14/10/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
M.
5. Về quyền kháng cáo: NguY đơn, người đại diện theo uỷ quyền của
nguY đơn, bị đơn, người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn có quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuY án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông D, bà M1, ông X, ông Y, anh T4, chị H1 có quyền kháng cáo về
phần bản án có liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuY án. Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện M, UBND xã G, anh H2, chị Y1 có
quyền kháng cáo về phần bản án có liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
14
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND huyện M;
- Chi cục THA dân sự huyện M;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
N Thanh Nhàn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 01/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm