Bản án số 13/2025/DS-PT ngày 10/01/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 13/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 13/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 13/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 13/2025/DS-PT ngày 10/01/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 13/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bà P yêu cầu ông T thào dỡ tài sản trả lại bức tường |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 13/2025/DS-PT
Ngày: 10 - 01 - 2025
V/v tranh chấp yêu cầu tháo dỡ
công trình xây dựng trái phép và
bồi thường thiệt hại
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Toàn.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Dũ.
Ông Trần Nam Trung.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Dương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thanh Quyên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 07 và 10 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 262/2024/TLPT-DS ngày
21 tháng 11 năm 2024 về việc tranh chấp yêu cầu tháo dỡ công trình xây dựng trái
phép và bồi thường thiệt hại.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 209/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 303/2024/QĐ-PT ngày
02 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Hà Thị Tuyết P, sinh năm 1965; địa chỉ: Số 30, Tỉnh lộ
93, ấp T, thị trấn X, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Liễu Hoàng U, sinh năm
1967; địa chỉ: Ấp T, thị trấn X, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, là người đại diện theo ủy
quyền (Văn bản ủy quyền ngày 09/12/2024). (có mặt).
- Bị đơn: Ông Huỳnh Quốc T, sinh năm 1981; địa chỉ: Số 29, đường T, Khóm
M, Phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị Cẩm H, sinh năm 1991;
địa chỉ: Số 29A đường T, Khóm M, Phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng
mặt).
- Người làm chứng: Ông Hà Vĩnh Q, sinh năm 1958; địa chỉ: Số 93, đường
X, Khóm B, Phường M, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
2
- Người kháng cáo: Bà Hà Thị Tuyết P, là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
- Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Thị Tuyết P cũng như trong
quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, người đại diện theo uỷ quyền của
nguyên đơn là ông Trầm Thiện M trình bày:
Vào ngày 25/6/2021, bà Hà Thị Tuyết P được anh ruột và chị dâu là ông Hà
Vĩnh Q và bà Trần Thị Kim G tặng cho quyền sử dụng đất diện tích 23,4m
2
và căn
nhà trệt trên đất thuộc thửa số 135, tờ bản đồ số 41, toạ lạc Khóm M, Phường N,
thành phố S, được Uỷ ban nhân dân thành phố Sóc Trăng cấp chứng nhận quyền
sử dụng đất số BD 279336, số vào sổ cấp GCN CH 00413, cấp ngày 28/01/2011
cho bà Trầm Thị Thanh N, đã được chỉnh lý biến động sang tên ông Q và bà G vào
tháng 11/2011. Sau khi được tặng cho bà P đã đăng ký và được chỉnh lý biến động
ngày 22/9/2021. Sau đó, vào tháng 11/2021 bà P xây căn nhà 01 tầng trên đất, diện
tích xây dựng là 23,4m
2
, theo giấy phép xây dựng số 862/GPXD do Ủy ban nhân
dân thành phố Sóc Trăng cấp ngày 18/11/2021.
Do điều kiện công việc nên bà P không thường xuyên sinh sống tại căn nhà
này. Đến đầu tháng 12/2022, bà P thấy vách tường nhà của bà đã bị công trình xây
dựng nhà của ông Huỳnh Quốc T đục phá, đổ cột, đổ đà để làm công trình xây
dựng vách nhà của ông T. Đồng thời, vị trí trên mái nhà của bà P cũng bị ông T
cho thợ thi công xây dựng chồng lên (tính từ chỗ vị trí vách tường nhà của bà P
xây cao lên khoảng 02m). Khi phát hiện họ đang xây dựng thì bà P đã ngăn cản
nhưng ông T cùng thợ thi công xây dựng công trình vẫn cố ý tiếp tục xây dựng với
lý do ông T xây dựng đúng phần đất của ông T.
Ngày 05/12/2022, bà P đã gửi đơn đến Ủy ban nhân dân Phường 5, thành
phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng yêu cầu giải quyết: Buộc ông T dừng việc thi công
xây dựng sử dụng trái phép vách tường nhà của bà P để làm vách tường nhà của
ông T (vách chung), yêu cầu buộc ông T phải xây dựng vách tường riêng. Kết quả
hòa giải ngày 12/12/2022 không thành, ông T cùng thợ xây dựng vẫn ngang nhiên
tiếp tục việc xây dựng làm hư hỏng kết cấu vách tường nhà và làm hư hỏng phần
kiến trúc bên trong căn nhà của bà P, tường nhà bị lủng, gạch dán tường bị bể.
Từ ngày 12/12/2022 đến nay, bà P đã liên tục gửi đơn đến các cơ quan chức
năng như Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Ủy ban nhân dân thành phố Sóc Trăng
xin được xem xét giải quyết nhưng đều được các cơ quan này trả lời là đã chuyển
đơn của bà P đến Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Sóc Trăng giải quyết theo
thẩm quyền.
Nay bà Hà Thị Tuyết P yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Huỳnh Quốc T
tháo dỡ toàn bộ phần kiến trúc và vật tư mà ông T đã cho thợ xây dựng tự ý xây
dựng trên vách tường để trả lại vách tường cho bà P chiều ngang 0,1m, chiều dài
8,75m, chiều cao 6,3m gắn liền phần đất có diện tích 0,88m
2
thuộc thửa đất số 135,
tờ bản đồ số 41, diện tích 23,4m
2
, tọa lạc tại Khóm M, Phường N, thành phố S.
3
Buộc ông Huỳnh Quốc T cùng Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Phong Thành
bồi thường thiệt hại cho bà P đối với tài sản là vách tường nhà và phần kiến trúc
bên trong căn nhà đã bị đục phá, bị bể (tường nhà bị lủng, gạch dán tường bị bể)
với số tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại
diện theo uỷ quyền của nguyên đơn rút lại yêu cầu buộc bị đơn bồi thường thiệt
hại 70.000.000 đồng.
- Bị đơn ông Huỳnh Quốc T trình bày:
Vào ngày 22/9/2022, ông T nhận chuyển nhượng thửa đất số 294, tờ bản đồ
41, diện tích 34m
2
, loại đất ở đô thị, tọa lạc tại Khóm M, Phường N, thành phố S,
tỉnh Sóc Trăng của ông Cao D và bà Chung Anh Ư được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất năm 2009. Nguồn gốc thửa đất số 294 của ông T và thửa đất số
135 của bà P đều có nguồn gốc của ông Cao K. Ông K chia đất làm 03 thửa cho
các con ông K và thửa đất số 294 cho ông D và bà Ư (là con và dâu của ông K).
Khi ông T nhận chuyển nhượng thửa đất số 294 này thì trên đất đã có sẵn căn nhà
01 trệt, 01 lầu có bảng trước nhà là “Cơ sở Mộc Sên”. Ông T làm thủ tục sang tên
và đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Sóc Trăng điều chỉnh
biến động cho ông T ngày 10/10/2022. Khi ông D và bà Ư bàn giao nhà, đất cho
ông T, ông T có nhờ ông D mời chồng bà P đến chỉ ranh đất và vách tường liên
ranh để xác định vị trí vách tường và các bên đã đồng ý theo lời chỉ dẫn của ông
D.
Trước khi ông T vào sử dụng căn nhà này, ông T có gửi đơn đến UBND
Phường 5, thành phố Sóc Trăng xin sửa chữa căn nhà số 292A của ông T là nâng
nền, nâng mái, thay đổi cửa qua bên phải, dán gạch ốp tường lại, vách tường thì bà
P xác định ranh đất là vách tường nằm trong diện tích đất của ông T, lúc ông D bàn
giao nhà, đất có chồng bà P chứng kiến.
Căn nhà của bà P lúc nhận chuyển nhượng chỉ là căn nhà trệt, sau đó bà P
mới mượn đỡ vách tường của ông D xây nhà lại thành 01 trệt, 01 lầu như hiện nay.
Nguồn gốc căn nhà của bà P là nhận chuyển nhượng từ người thân của ông D,
trước đây sử dụng chung vách tường giữa nhà ông D với người thân ông D. Trong
lúc ông T sửa nhà thì bà P đến ngăn cản và gửi đơn đến UBND Phường 5, thành
phố Sóc Trăng để thưa ông T, là muốn sửa chữa phải làm vách tường riêng. UBND
Phường 5 có cử cán bộ xuống đo đạc lại vị trí đất và kết luận vách tường nằm bên
vị trí đất của ông T theo sơ đồ vị trí đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cấp cho ông T. Ông T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà P vì vách tường
trên là của ông T, không phải của bà P. Căn nhà của ông T hiện đang cho bà Hồ
Thị Cẩm H thuê.
- Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Hồ Thị Cẩm H, nhưng bà H không có ý kiến bằng văn bản gửi cho
Tòa án về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng không giao nộp tài liệu, chứng
cứ cho Tòa án, đồng thời vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ cũng như vắng mặt tại phiên tòa.
4
Sự việc đã được Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng thụ
lý, giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 209/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm
2024 đã quyết định:
Căn cứ khoản 6, 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 91, Điều 157,
Điều 158, Điều 164, Điều 165, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228,
khoản 2 Điều 244, Điều 271, Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; căn cứ khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Thị Tuyết P
về việc yêu cầu ông Huỳnh Quốc T tháo dỡ công trình xây dựng trên vách tường
để trả lại cho bà P vách tường có chiều ngang 0,1m, chiều dài 8,75m, chiều cao
6,3m, gắn liền với phần đất có diện tích 0,88m
2
có tứ cận tại các điểm thuộc “Phần
B” của Sơ đồ hiện trạng phần đất tranh chấp do Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (Sơ đồ kèm theo bản án).
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu của bà Hà Thị Tuyết P về việc yêu cầu ông Huỳnh
Quốc T bồi thường thiệt hại với số tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).
Ngoài ra, bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí
tố tụng và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 01/10/2024, nguyên đơn bà P có đơn kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm
số 209/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng và được Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng nhận ngày
02/10/2024. Yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm sửa bản án
dân sự sơ thẩm theo hướng công nhận vách tường giáp nhà ông T là vách tường
riêng thuộc quyền sở hữu của bà và yêu cầu ông T tháo dỡ phần kiến trúc xây dựng
trái phép trên vách tường nhà bà.
- Tại phiên tòa phúc thẩm:
+ Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông U không rút đơn khởi
kiện và xác định yêu cầu kháng cáo của bà P là yêu cầu buộc ông T tháo dỡ phần
kiến trúc xây dựng trái phép trên vách tường để trả lại vách tường cho bà P. Qua
phần hỏi tại phiên tòa, ông U cho rằng nhà của bà P và ông T có nguồn gốc là
nhận chuyển nhượng của các con ông Cao K, các con ông Cao K cất nhà và sử
dụng chung vách tường (tường 10cm), sau này khi nhận chuyển nhượng thì bà P
và ông T đều có xây dựng lên trên vách tường đang tranh chấp, không có xây dựng
vách tường riêng. Do đó, ông U thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo là yêu cầu
Tòa án công nhận vách tường giáp nhà ông T là vách tường chung thuộc quyền sở
hữu của bà P và ông T.
+ Bị đơn ông T cho rằng: Mặc dù vách tường được các con ông Cao K sử
dụng chung vách tường 10cm, nhưng vách tường đang tranh chấp là của ông Cao
D cho bà A sử dụng nhờ và bà A chuyển nhượng cho người khác sau này là bà P,
khi ông D chuyển nhượng nhà cho ông thì ông D xác định là vách tường riêng của
5
ông D. Do đó, không phải là vách tường của bà P và cũng không phải vách tường
chung, nên không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của bà P.
+ Theo ông Hà Văn Q xác định: Nhà bà A trước đây đổ cột nằm chung trong
vách tường, nhà bà A có trước nhà ông D, bà A khẳng định vách tường là của bà
A, khi ông nhận chuyển nhượng nhà của bà A thì ông D không có nói với ông vách
tường là của ông D, sau này ông tặng cho bà P theo hiện trạng ông nhận chuyển
nhượng của bà A.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện Kiểm sát
nhân dân tỉnh Sóc Trăng về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố
tụng, những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn
phúc thẩm. Về nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định pháp luật có liên quan đề nghị
Hội đồng xét xử (HĐXX) không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng
cáo của bà P, nhưng dành quyền cho bà P khởi kiện thành vụ kiện khác theo quy
định của pháp luật; đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà P
và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc
Trăng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Tại phiên tòa lần thứ hai, nguyên đơn bà Hà Thị Tuyết P có mặt, nhưng
tiếp tục ủy quyền cho người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Cẩm H vắng mặt không rõ lý do; nên HĐXX căn
cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử
vụ án theo thủ tục chung.
[2] Về người kháng cáo, nội dung, hình thức đơn kháng cáo và thời hạn
kháng cáo của bị đơn bà P là đúng quy định tại Điều 271, Điều 272 và khoản 1
Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên kháng cáo hợp lệ, được Tòa
án chấp nhận và tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[3] Xét việc thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo: Khi kháng cáo bà P yêu
cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm
theo hướng buộc ông T tháo dỡ phần kiến trúc xây dựng trái phép trên vách tường
để trả lại vách tường cho bà P. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện
theo ủy quyền của bà P là ông U thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo là yêu cầu
Tòa án công nhận vách tường giáp nhà ông T là vách tường chung thuộc quyền sở
hữu của bà P và ông T. Xét thấy, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo này là
vượt quá phạm vi kháng cáo và phạm vi khởi kiện ban đầu. Bởi vì, theo yêu cầu
kháng cáo và yêu cầu khởi kiện bà P yêu cầu “Buộc ông Huỳnh Quốc T tháo dỡ
toàn bộ phần kiến trúc và vật tư mà ông T đã cho thợ xây dựng tự ý xây dựng trên
vách tường để trả lại vách tường cho bà P chiều ngang 0,1m, chiều dài 8,75m,
chiều cao 6,3m gắn liền phần đất có diện tích 0,88m
2
, thuộc thửa đất số 135, tờ
bản đồ số 41, tọa lạc tại Khóm M, Phường N, thành phố S”. Như vậy, phạm vi
6
kháng cáo và khởi kiện ban đầu là tháo dỡ vật kiến trúc để trả lại vách tường cho
bà P, là đòi lại tài sản. Do đó, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo này là vượt
quá phạm vi kháng cáo và phạm vi khởi kiện ban đầu, vì cấp sơ thẩm chưa xem
xét giải quyết đối với yêu cầu công nhận vách tường chung thuộc quyền sở hữu
của bà P và ông T, nên việc thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo vừa nêu không
được HĐXX chấp nhận.
[4] Xét kháng cáo của bị đơn bà P về việc yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng xét xử phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng buộc ông T tháo
dỡ phần kiến trúc xây dựng trái phép trên vách tường để trả lại vách tường cho bà
P. Xét thấy:
[4.1] Theo ông Cao D (BL số 285) và bà Chung Anh Ư (BL số 287) xác
định: Nguồn gốc thửa đất số 135, tờ bản đồ số 41, diện tích 23,4m
2
của bà P và
thửa đất số 294, tờ bản đồ số 41, diện tích 34m
2
của ông T có nguồn gốc là của ông
Cao K, ông K cho 03 người con gồm ông Cao D, bà Cao Thị Mỹ A và bà Cao Thị
Mỹ C. Sau khi được cha cho đất thì anh em ông D tự cất nhà và cất cùng một lúc,
nhà ông D cất 02 vách tường riêng là nhà cấp 4, sau này ông D sửa nhà và làm
thêm gác xà gồ chứ không phải lầu, còn nhà bà A thì ông D cho cất nhà nhờ vách
tường nhà của ông D. Nhà của ông D thì chuyển nhượng cho ông T, còn nhà của
bà A thì chuyển nhượng cho ông Q, bà A chuyển nhượng trước, khi đó ông có nói
cho ông Q biết vách tường là của ông và ông Q cũng đồng ý. Tuy nhiên, tại phiên
tòa phúc thẩm ông Q cho rằng khi chuyển nhượng thì bà A xác định vách tường là
của bà A, ông D không có nói với ông là vách tường riêng của ông D, sau này ông
tặng cho bà P theo hiện trạng ông nhận chuyển nhượng của bà A. Theo người làm
chứng ông Thạch Ơ, ông Trần Thanh N (BL số 272 và 275) thì không biết vách
tường tranh chấp là của ai. Còn theo người làm chứng ông Lý Hoàng Thọ (BL số
278) xác định: Bà P thuê ông sửa chữa nhà theo mẫu thiết kế và yêu cầu ông tận
dụng lại 02 vách tường của căn nhà cũ, đổ tường nhà, đào 03 móng băng trong căn
nhà, đổ cột áp sát vách tường cũ, đổ sàn, lợp mái, xây vách hậu trên lầu, ốp gạch
xung quanh tường cũ, 02 vách tường giữ nguyên, sử dụng hoàn toàn 02 vách tường
cũ từ tầng trệt lên tới tầng lầu chứ không có xây dựng tường mới.
[4.2] Ngoài lời trình bày ra thì bà P không có tài liệu, chứng cứ nào để chứng
minh vách tường đang tranh chấp là vách tường riêng của bà P. Tại phiên tòa phúc
thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà P và ông T đều xác định vách tường
đang tranh chấp là tường 10cm, chỉ có một vách tường riêng lẽ và 02 bên đều có
xây dựng thêm lên trên vách tường đã có do ông D và bà A chuyển nhượng để lại.
[4.3] Theo giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông Cao Kem (BL số 56), sau
này chuyển nhượng và được chỉnh lý sang tên bà P thì thửa đất số 135, tờ bản đồ
cố 41 (chưa tính vách tường tranh chấp), cạnh giáp vỉa hè có chiều ngang 3,10m
và cạnh phía sau chiều ngang 2,30m; so với Sơ đồ hiện trạng đất tranh chấp thì
cạnh giáp vỉa hè có chiều ngang 3,05m, thiếu 0,05m (05cm); so với Sơ đồ hiện
trạng đất tranh chấp thì cạnh phía sau có chiều ngang 2,15m, thiếu 0,15m (15cm).
[4.4] Theo giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho ông Cao D và bà Chung Anh Ư
(BL số 94), sau này chuyển nhượng và được chỉnh lý sang tên ông T thì thửa đất
số 294, tờ bản đồ cố 41 (chưa tính vách tường tranh chấp), cạnh giáp vỉa hè có
chiều ngang 3,80m và cạnh phía sau chiều ngang 3,90m; so với Sơ đồ hiện trạng
7
đất tranh chấp thì cạnh giáp vỉa hè có chiều ngang 3,70m, thiếu 0,10m (10cm); so
với Sơ đồ hiện trạng đất tranh chấp thì cạnh phía sau có chiều ngang 3,70m, thiếu
0,20m (20cm).
[4.5] Như vậy, khi chưa tính vách tường tranh chấp thì đất hai bên đều thiếu
chiều ngang phía trước và phía sau, nên không có cơ sở xác định vách tường là của
bà P hay của ông T. Do đó, kháng cáo của bà P là không có căn cứ, nên không
được HĐXX chấp nhận. Tuy nhiên, như phân tích ở phần trên thì có cở sở xác định
quá trình quản lý, sử dụng thì bà A và ông D đều sử dụng chung vách tường đang
tranh chấp, sau này bà P và ông T đều có sử dụng và xây dựng thêm lên trên vách
tường cũ, nên vách tường đang tranh chấp được xác định là vách tường chung giữa
hai bên; nhưng xét thấy khi khởi kiện thì bà P không có yêu cầu công nhận vách
tường chung, nên bà P có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác theo quy định của
pháp luật.
[4.6] Từ những nhận định như đã nêu trên, xét thấy toàn bộ yêu cầu kháng
cáo của nguyên đơn bà P là không có căn cứ, nên không được HĐXX chấp nhận.
HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, để giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố
Sóc Trăng.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do Bản án dân sự sơ thẩm được giữ nguyên,
nên bà P phải chịu án phí dân sự phúc thẩm với số tiền là 300.000 đồng theo quy
định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 29
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
[6] Đối với lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm về việc đề
nghị HĐXX không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo của bà P,
nhưng dành quyền cho bà P khởi kiện thành vụ kiện khác theo quy định của pháp
luật; đề nghị không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bà P và đề nghị áp
dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án
dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng là có
căn cứ, nên được HĐXX chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313, khoản 1 Điều 147, khoản 1
Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ khoản 1 Điều 29 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Hà Thị
Tuyết P.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 209/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9
năm 2024, về việc tranh chấp yêu cầu tháo dỡ công trình xây dựng trái phép và bồi
8
thường thiệt hại của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Án
tuyên như sau:
2.1. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà
Thị Tuyết P về việc yêu cầu ông Huỳnh Quốc T tháo dỡ công trình xây dựng trên
vách tường để trả lại cho bà P vách tường có chiều ngang 0,1m, chiều dài 8,75m,
chiều cao 6,3m, gắn liền với phần đất có diện tích 0,88m
2
có tứ cận tại các điểm
thuộc “Phần B” của Sơ đồ hiện trạng phần đất tranh chấp do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (Sơ đồ kèm theo
bản án).
2.2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Thị
Tuyết P về việc yêu cầu ông Huỳnh Quốc T bồi thường thiệt hại với số tiền
70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).
2.3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Tổng chi phí
số tiền 15.209.382 đồng (Mười lăm triệu hai trăm linh chín nghìn ba trăm tám
mươi hai đồng), bà Hà Thị Tuyết P phải chịu số tiền này và đã nộp xong.
2.4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hà Thị Tuyết P phải chịu 300.000 đồng
(Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng
án phí bà P đã nộp 1.750.000 đồng (Một triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng)
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007703 ngày 12/4/2023 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà Hà
Thị Tuyết P được hoàn trả lại số tiền 1.450.000 đồng (Một triệu bốn trăm năm
mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hà Thị Tuyết P phải chịu phí dân sự phúc
thẩm số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm
ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002067 ngày
15/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Như vậy, bà Hà Thị Tuyết P đã nộp xong tiền án phí dân sự phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), thì những người
được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời
hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND thành phố Sóc Trăng;
- Chi cục THADS thành phố Sóc Trăng;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Toàn
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm