Bản án số 122/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 122/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 122/2024/DS-PT ngày 04/12/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Gia Lai
Số hiệu: 122/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà B1 sinh ra và lớn lên tại thôn B, xã B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Sau khi lấy ông Nguyễn Văn D thì vợ chồng bà B1 mới quen ông Nguyễn Ngọc T, hiện đang sinh sống tại thôn Đ, xã B. Năm 1991, ông T có miếng đất tại thôn Đ nên vợ chồng bà B1 liên hệ mua miếng đất này của ông Thương, khi mua thì không đo đạc mà mua theo hiện trạng ông Thương sử dụng, một mặt giáp đường quốc lộ 19, hai bên giáp đất bà H, ông A (hiện đã chết), ông C, bà R (hiện đã chết), phía sau giáp đất trống, chiều dài khoảng 80m đến 100m tính từ mốc lộ giới của Quốc lộ 19 hiện tại, lúc này đất đã được rào và có rA giới hai bên rõ ràng. Sau khi mua thì vợ chồng dọn đến sinh sống, vì lúc này đã có sẵn 01 nhà ván (sau này phá ra để xây nhà như hiện tại), đến năm 1996 gia đình bán cho Nguyễn Văn Tài (hiện đã chết) 02m chiều ngang và 50m chiều dài vì nhà A Tài thiếu đất làm nhà. ....
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 122/2024/DS-PT
Ngày 04/12/2024
V/v trA chấp quyền sử dụng
đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DA
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đặng Chí Công
Các Thẩm phán:
Ông Lưu A Tuấn;
Bà Cao Thị ThA Huyền.
- Thư ký phiên toà: Nguyễn Thị Kim Liên, Thư Toà án nhân dân tỉnh
Gia Lai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai: Nguyễn Thị ThA Bình
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 04 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai công
khai xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ số 89/2024/TLPT-DS ngày 03/10/2024
về việc "TrA chấp quyền sử dụng đất”
Do Bản án dân sự thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 05/8/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2024/QĐ-PT ngày 01 tháng 11
năm 2024 Quyết định hoãn phiên a số 101/2024/QĐ-PT ngày 20 tháng 11
năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị B; địa chỉ: thôn Đ,
B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện ủy quyền của ông Nguyễn Văn D: Ông Nguyễn Ngọc L; địa
chỉ: thôn H, thị trấn C, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai (theo Hợp đồng ủy quyền
ngày 26/11/2024).
Ông D vắng mặt, ông L và bà B1 có mặt.
2. Bđơn: Ông Nguyễn Văn TNguyễn Thị Kim A; địa chỉ: thôn Đ, xã
B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn T: Ông Đặng
Ngọc Ba - Luật thuộc Văn phòng Luật Bình Minh, đoàn Luật tỉnh Gia
Lai. Có mặt.
3. Người làm chứng:
3.1. Ông Nguyễn Đình M; địa chỉ: thôn Đ, xã B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Có mặt.
3.2. Ông Đặng Minh H; địa chỉ: thôn Đ, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Vắng mặt.
3.3. Ông Nguyễn Châu H; địa chỉ: thôn I, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Có mặt.
3.4. Ông Hà Văn T; địa chỉ: thôn P, xã Ia Băng, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Vắng mặt.
3.5. Ông Ngô Quốc T1; địa chỉ: thôn Đ, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Vắng mặt.
3.6. Ông Đặng Quang T2; địa chỉ: thôn Đ, xã B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Vắng mặt.
3.7. Thị Kim L1; địa chỉ: thôn Đ, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Có mặt.
3.8. Ông Hồ SQ; địa chỉ: thôn Đ, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
Vắng mặt.
3.9. Ông Nguyễn Ngọc T3; địa chỉ: thôn Đ, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Có mặt.
3.10. Ông Trần Văn H; địa chỉ: thôn Đ, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
Vắng mặt.
3.11. Ông Nguyễn Văn H; địa chỉ: thôn Đ, xã B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai. Có mặt.
3.12. Ông Song T4; địa chỉ: thôn Đ, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
Vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn T Nguyễn Thị Kim A;
địa chỉ: thôn Đ, xã B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
5. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư
Prông, tỉnh Gia Lai.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn trình bày:
B1 sinh ra và lớn lên tại thôn B, B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai.
Sau khi lấy ông Nguyễn Văn D thì vợ chồng B1 mới quen ông Nguyễn Ngọc
T, hiện đang sinh sống tại thôn Đ, xã B. Năm 1991, ông Thương có miếng đất tại
thôn Đ nên vợ chồng B1 liên hệ mua miếng đất này của ông Thương, khi mua
thì không đo đạc mua theo hiện trạng ông Thương sử dụng, một mặt giáp
3
đường quốc lộ 19, hai bên giáp đất bà H, ông A (hiện đã chết), ông C, bà R (hiện
đã chết), phía sau giáp đất trống, chiều dài khoảng 80m đến 100m tính từ mốc lộ
giới của Quốc lộ 19 hiện tại, lúc này đất đã được rào rA giới hai bên ràng.
Sau khi mua thì vợ chồng dọn đến sinh sống, vì lúc này đã có sẵn 01 nhà ván (sau
này phá ra để xây nhà như hiện tại), đến năm 1996 gia đình bán cho Nguyễn Văn
Tài (hiện đã chết) 02m chiều ngang và 50m chiều dài vì nhà A Tài thiếu đất làm
nhà. Đến năm 1999 gia đình được UBND huyện Chư Prông cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số Q 152418, ngày 10/12/1999, thửa đất số 47, tbản đồ số
01, diện tích 2.972m
2
, trong đó 400m
2
đất ở, chiều dài hai bên 77m, chiều
ngang khoảng hơn 36,2m. Năm 2003 gia đình chuyển nhượng cho bà Thành
diện tích 608m
2
, trong đó 200m
2
đất ở, vì lúc này chưa con đường nên
chuyển nhượng cho bà Thành chiều dài theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
là 76m chiều ngang là 08m. Năm 2007 do nhu cầu đi lại của bà con nên gia đình
gia đình các hộ lân cận đã thống nhất chừa con đường đất khoảng 04m để
phục vụ đi lại cho con, vậy đất của gia đình bchia làm hai phần, một
phần giáp Quốc lộ 19 có nhà xây gia đình bà đang sử dụng và một phần giáp với
con đường gia đình đã hiến đất mở đường. Theo bà được biết cả gia đình
ông Nguyễn Văn H, gia đình Phan Thị H (đã chết) hiện đã bán lại cho A H
Đăng hiện ông Song Tùng bố của A Đăng đang sử dụng đất. Cũng trong
năm 2007 gia đình chuyển nhượng cho ông D Kim P ông Nguyễn Khắc L
diện tích 550m
2
, lúc này con đường đã mở nên chúng tôi chỉ chuyển nhượng phần
trên chiều dài 50m, chiều rộng 11m. Hiện ông P ông L đã bán cho ông
Văn Tuấn sử dụng. Quá trình sử dụng đất đã ổn định không trA chấp với ai,
riêng đối với phần đất còn lại bên kia đường mòn gia đình trồng đậu và bắp. Đến
năm 2011 ông T đến sử dụng đất, qua tìm hiểu thì B1 mới biết ông T mua lại
của chị P, A H1, tuy nhiên bà B1 không biết ông H1 và bà P là ai. Bà B1 thấy sự
việc này không đồng ý nên nói nhưng ông T chỉ nói mua của ông H1, do nể
nang hàng xóm với nhau nên chồng B1 ông D không nói gì. Từ năm 2011
cho đến nay gia đình B1 đi làm thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và đề nghị ông T trả phần diện tích cho B1 nhưng ông T cứ nói là đất
mua của ông H1 chỉ rA giới tới con đường không hợp tác để hòa giải. Đầu năm
2022 nhà nước kế hoạch đo đạc lại diện tích đất của toàn thông báo
cho người dân cắm mốc để đo đạc lại diện tích của từng nhà (theo giấy chứng
nhận của từng hộ được cấp). Khi cán bộ đến đo đạc gia đình B1 đã chỉ rA giới
để cho cán bộ đo nhưng ông Nguyễn Văn T lại tự nhận phần đất còn lại giáp với
phần đất của nhà bà B1 chừa ra là đất của ông và không cho cán bộ vào đo đạc.
Trước tình hình trên, gia đình đã làm đơn kiến nghị gửi UBND B
đã được Hội đồng hòa giải của tổ chức hòa giải 02 lần theo đúng quy định, tuy
nhiên gia đình ông T vẫn nhất quyết không chịu trả lại phần diện tích đất đang lấn
chiếm và sử dụng cho gia đình bà B1. Để sớm được cấp đổi lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để thuận tiện trong các giao dịch. Vì vậy gia đình yêu cầu
Tòa án nhân dân huyện Chư Prông giải quyết buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn T
và bà Nguyễn Thị Kim A pH1 trả lại diện tích đất đang lấn chiếm và sử dụng của
gia đình bà do UBND huyện Chư Prông cấp ngày 10/12/1999, tại thửa đất số 47,
4
tờ bản đồ s01, diện tích theo như hội đồng đo đạc thẩm định diện tích
417m
2
, cạnh như sau: phía Đông giáp đất chị Huyền, cạnh dài 18,9m; phía Tây
giáp đất của gia đình bà, cạnh dài 17,8m; phía Nam giáp con đường đi, con đường
này trước do gia đình bà hiến đất để mở đường, cạnh dài 23,29m; phía Bắc giáp
đất ông T, cạnh dài 23,17m.
Về giá đất và tài sản trên đất trước đây bà B1 thấy trị giá giếng đào hơi cao,
sau khi tham khảo bà B1 hoàn toàn đồng ý với giá của Hội đồng định giá đưa ra,
bà không có ý kiến nào khác.
* Bị đơn ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Kim A trình bày:
Khoảng năm 2010 qua quen biết bà Phạm Thị H giới thiệu ông mua đất của
ông Trần Văn H1, ông có gặp ông H1 và nói muốn mua đất của ông H1, ông H1
đồng ý, hai bên thỏa thuận giá 120.000.000đ, ông H1 cầm bìa đỏ ra cho xem,
sau đó ông H1 dẫn ông đi chỉ đất và ông giao tiền 02 lần. Lần thứ nhất ông giao
60.000.000đ xong ông H1 dẫn đi chỉ rA giới thửa đất giao đất cho ông làm, lúc
này trên đất không có tài sản gì, 02 đầu 02 con đường, ông H1 chỉ vị trí từ
mép đường mòn bên này cho đến mép đường mòn bên kia. Ông H1 và ông đi đo
đất bằng cách chặt cây gỗ dài 02m để đo, thì đo được 30m chiều ngang chiều dài
50m. Đến năm 2011 ông thuê máy múc đào hố trồng tiêu đến năm 2016 tiêu chết
nên trồng cà phê từ đó đến nay. Khoảng năm 2022 sau khi Công ty đo đạc về đo
lại toàn bộ diện tích đất trên địa bàn xã B thì gia đình bà B1 và bà Huyền có làm
đơn khởi kiện gia đình ông lên xã B với lý do lấn chiếm đất của 02 gia đình trên.
đất của ông sang nhượng lại của ông Trần Văn H1. đất này của ông H1
được Công ty chè B cấp cho gia đình ông H1 từ năm 1986 cho đến năm 1999 thì
gia đình ông H1 làm quyền sdụng đất theo dA sách Công ty chè B C cấp cho xã
những hdân được ng ty cấp đất. Dãy 1 và dãy 2 phía Bắc giáp đường quốc lộ
19 với diện tích 30m x 50m cho mỗi hộ gia đình trong dA sách cấp đất kèm theo
gia đình ông H1 và các hộ lân cận trong đó có hộ B1 bà Huyền mua lại
của ông Nguyễn Ngọc T lô 01 có kích thước 30m x 40m (theo dA sách của công
ty chè chuyển qua). Ông H1 2 kế sau 01 ông Thương diện tích 30m x 50m
theo dA sách Công ty chè chuyển qua. Trong quá trình khai làm bìa, gia đình
ông H1 đã khai đúng diện tích theo dA sách của Công ty chuyển nhượng
sang cho gia đình ông đúng số lượng thực tế sử dụng theo quy hoạch của
công ty chè. Còn phía gia đình B1 Huyền làm bìa khai diện tích
đúng như dA sách bàn giao qua ông không rõ.
* Những người làm chứng khai:
Ông Nguyễn Đình Mạnh trình bày: Ông Mạnh trước đây thuộc tổ bảo vệ của
Nông trường chè B, năm 1986 ông Mạnh biết ông Trần Văn H1 cũng được Nông
trường cấp 01 đất, vị trí cấp phía sau đất B1 hiện tại bị đơn đang sử dụng.
Tại thời điểm cấp đất thì chưa có con đường, phía sau lô đất bà B1 con đường
hào nền đá 4 x 6 dùng để xe tăng di chuyển, phần đất nền đá 4x6 này ngay xưa
kéo dài từ đuôi đất Luyến đang sử dụng hiện tại đến giáp phần đất của ông
Nguyễn Châu Hồ. Đối với trA chấp hiện tại, ông Mạnh chỉ biết trước đất Nông
trường chè B cấp cho ông Thương theo sơ đồ là 30m x 50m.
5
Ông Nguyễn Châu Hồ trình bày: Ông Hồ biết ông H1 vì trước đây cùng đội
với ông Hồ ở Nông trường chè B. Ông biết ông H1 cũng được Nông trường chè
B cấp đất đợt cuối cùng, ông H1 cấp ở đâu, cụ thể thế nào thì ông Hồ không biết.
Ông Nguyễn Ngọc T trình bày: Năm 1986 ông Thương được ông Lê Hoàng
(đã chết) đi chỉ đất, khi ông Thương đến nhận đất thì rA giới hai bên đã có bờ rào,
ông sử dụng theo bờ rào hai bên từ trên xuống dưới, quá trình sử dụng ông dọn
đá phía sau để trồng mỳ. Năm 1991 ông Thương chuyển nhượng cho bà B1, khi
chuyển nhượng chỉ nói miệng giao đất không giấy tờ , khi giao đất cho bà
B1 thì ông Thương đã làm bờ rào đầy đủ. Sau đó bà B1 sử dụng như thế nào ông
Thương không rõ. Khi ông Thương nhận đất do ông Hoàng chỉ thì hai bên đã
rA, một bên H - A, một bên ông C - R. Tại thời điểm ông Thương nhận
đất thời điểm ông Thương bán đất cho B1 thì phía sau đất ông Thương
không ai sử dụng.
Thị Kim Luyến trình bày: Luyến vợ của ông Đặng Quang Trung
đồng thời là con dâu của của bà Phan Thị H và ông Nguyễn Ngọc A. Năm 1993
cùng chồng vnhà chồng tại thửa đất của ông A, H để sinh sống. Lúc đó
nhà chồng giáp với đất B1, thời điểm về chung sống chưa con đường
phía sau. bà Luyến biết ông Trần Văn H1 vì ông H1 tH xuyên vnhà chồng bà ở,
Luyến chỉ nghe nói ông H1 đám đất phía sau nhà ông Thương, Luyến
chưa thấy ông H1 sử dụng bao giờ. Tại phiên tòa bà Luyến C cấp một bản phô
một trích lục thửa đất số 51, tờ bản đồ số 01. Trong đó phần đất chưa chuyển
nhượng theo trích lục là phần đất bà Luyến đang sử dụng.
Ông Nguyễn Văn Hùng trình bày: Ông Hùng con của ông Nguyễn C
Nguyễn Thị R, năm 1998 khi ông Hùng về nông C, R thì đất đã bờ
rào đầy đủ, lúc đầu trồng lúa, sau trồng mỳ, đất đã làm bờ rào để khỏi phá. Ông
Hùng sử dụng ổn định được ông C, R sang tên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Đối với con đường hiện trạng ông Hùng cho biết năm 2005 - 2006 thì
các hộ thống nhất mở đường. Tại phiên tòa ông Hùng C cấp một bản phô tô giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số Q 152446 do Ủy ban nhân dân huyện Chư Prông
cấp ngày 15/12/1999.
Ông Trần Văn H1 trình bày: Ông H1 thôn Đ, xã B năm 1986, ông bên
kia đường, đối diện với nhà H A; thời điểm ông ở thì đối diện chỉ hộ ông A,
bà H, hộ nhà ông Thương và hộ nhà ông C, bà R. Ông biết được giữa nhà ông A,
ông C, ông Thương bờ rào rõ ràng, đất ông Thương thời đó tầm 80m. Phía sau
không ai sử dụng. Ông H1 không biết ông H1 đã bán đất cho ông T là ai.
* Tại Bản án thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Chư Prông đã quyết định: Căn cứ khoản 6, khoản 9 Điều 26, khoản 1
Điều 35, khoản 1 Điều 39, các điều 143, 144, 146, 147, 157, 165 và 266 của Bộ
luật tố tụng dân sự; các điều 166, 203 Luật đất đai năm 2013; các điều 221, 235,
280, 357 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TH vụ Quốc Hội về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
6
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc ông Nguyễn Văn
T và bà Nguyễn Thị Kim A trả lại quyền sử dụng đất thửa đất có diện tích 417m
2
tại thôn Đ, xã B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai (có sơ đồ kèm theo).
Nguyên đơn được quyền sở hữu các tài sản gắn liền với thửa đất diện tích
417m
2
gồm: 42 cây cà phê trồng năm 2016l; 01 giếng nước đào năm 2012; thép
gai 03 cuộn dài 23,5m; 10 trụ rào thép phi 6.
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn D Nguyễn Thị B nghĩa vụ thA toán
cho bị đơn giá trị tài sản trên thửa đất có diện tích 417m
2
là 46.223.632đ.
Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Kim A pH1 chịu
32.200.000đ; nguyên đơn ông Nguyễn Văn D Nguyễn Thị B pH1 chịu
2.311.181đ.
Ngoài ra còn T về chi phí ttụng, quyền yêu cầu thi hành án quyền kháng
cáo của các đương sự.
* Kháng cáo, kháng nghị:
Ngày 15/8/2024, bị đơn ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị Kim A kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Ngày 19/8/2024 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông ban
hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKS-DS đối với bản án
dân sthẩm số 08/2024/DS-ST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Chư Prông. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm hủy bản án
sơ thẩm, giao hồ sơ lại cho Tòa án nhân dân huyện Chư Prông giải quyết lại theo
quy định của pháp luật.
* Diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử
hủy bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai vẫn giữ nguyên Quyết định
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông; đề nghị
Hội đồng xét xcăn cứ khoản 3 Điều 308 của Bluật Tố tụng dân sự, hủy bản án
thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 05/8/2024, giao hồ cho Tòa án nhân dân
huyện Chư Prông giải quyết lại theo thủ tục chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Đơn kháng cáo của bị đơn Quyết định kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông đảm bảo đúng thủ tục, nội dung
trong thời hạn theo quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
[2]. Xét kháng cáo của bị đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân huyện Chư Png, thấy rằng:
[2.1]. Về thủ tục tố tụng:
7
[2.1.1]. Đơn khởi kiện ngày 08/7/2022 (BL số 01 - 02) có nội dung " yêu cầu
Tòa án nhân dân huyện Chư Prông buộc vchồng ông Nguyễn n T và Nguyn
Thị Kim A pH1 trả lại diện tích đang lấn chiếm sử dụng của gia đình i do
UBND huyện Chư Prông cấp ngày 10/12/1999, tại thửa 47, tờ bản đồ số 01, diện
tích 2972m
2
, gia đình tôi đã chuyển nhượng 1158m
2
(trong đó có 200m
2
đất ở) và
đề nghị vợ chồng ông Nguyn Văn T và bà Nguyễn Thị Kim A sử dụng đúng theo
diện ch nhận chuyển nhượng tại thửa số 48a, tờ bản đồ số 01, diện tích 2117m
2
do UBND huyện Chư Pông cấp ngày 19/3/2011, ngoài ra tôi không có yêu cầu
khác". u cầu khởi kiện như trên của nguyên đơn chưa cụ thể theo quy định tại
khoản 4 Điều 189 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án cấp thẩm không ban hành
thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo quy định Điều 193 Bộ luật
Tố tụng dân sự mà thgiải quyết không đúng quy định của pháp luật.
[2.1.2]. Tại thông báo vviệc thụ lý vụ án số 78/TB-TLVA ngày 28/10/2022
(BL 26), Tòa án cấp sơ thẩm xác định những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết: "Yêu cầu ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Kim A trả
lại phần diện tích đang lấn chiếm khoảng 500m
2
địa chỉ thửa đất tại thôn Đ,
B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai, trị giá phần đất đang trA chấp khoảng 100
triệu đồng" là không đúng với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như đã đề cập
mục [2.1.1].
[2.1.3]. Giấy chứng nhận quyền sdụng đất sQ 152418 do Ủy ban nhân
dân huyện Chư Prông cấp ngày 10/12/1999 đối với diện tích 2.792m
2
(trích lục là
2.972m
2
) tại thửa số 47, tờ bản đsố 01, địa chỉ: B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia
Lai cho hộ ông Nguyễn Văn D. Nguyên đơn cho rằng ngoài ông D B1
quyền sử dụng đất trên còn các thành viên khác cũng quyền sử dụng. Cấp
thẩm không làm những ai có quyền sử dụng đất để đưa họ vào tham gia t
tụng là chưa đầy đủ.
[2.2]. Về nội dung:
[2.2.1]. Nguồn gốc sử dụng, việc đăng ký, khai cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Năm 1986 ông Nguyễn Ngọc T được Nông trường chè B giao 1.200m
2
(30m
x 40m) đất tại thôn Đ, xã B, huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai để làm nhà ở. Sau khi
được giao đất, ông Thương đào giếng, làm nhà ván. Năm 1991 ông Thương
chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích đất nhà trên cho ông D, B1 nhưng
không lập thành văn bản, không xác định diện tích, tcận của thửa đất. Năm
1999 ông D đăng ký diện tích 2.792m
2
và kê khai nguồn gốc đất là nhận chuyển
nhượng. Ngày 10/12/1999 hông D được Ủy ban nhân dân huyện Chư Prông cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 2.792m
2
tại thửa đất số 47,
tờ bản đồ số 01 nhưng trong trích lục sơ đồ đo vẽ hiện trạng lại thể hiện diện tích
2.972m
2
. Tòa án cấp thẩm chưa thu thập chứng cứ để làm tại sao ông
Thương chỉ được giao 1.200m
2
nhưng ông D lại đăng khai đến 2.792m
2
,
còn Ủy ban nhân dân huyện Chư Prông cấp 2.792m
2
nhưng trích lục sơ đồ lại lên
đến 2.972m
2
; chưa yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Chư Prông xác nhận việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông D đối với thửa đất trên đúng
8
trình tự, thủ tục quy định của Luật đất đai năm 1993, được sửa đổi bổ sung năm
1998 hay không.
Tương tự, ông Trần Văn H1 được Nông trường chè B giao 1.500m
2
(30m x
50m) nhưng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lên đến 2.117m
2
. Ông
T, A nhận chuyển nhượng nguyên hiện trạng (theo hợp đồng) nhưng thực tế
họ chỉ sử dụng 1.482m
2
(bao gồm cả phần trA chấp 417m
2
). Cấp sơ thẩm chưa
làm rõ tại sao ông H1 kê khai không đúng với diện tích đất được giao; chưa làm
tại sao diện tích thực tế ông T, A sử dụng thiếu so với diện tích được ghi
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến 635m
2
.
Mặt khác, vào năm 1996 ông D, B1 chuyển nhượng một phần diện tích
100m
2
(2m x 50m) cho ông Nguyễn Văn Tài đến năm 1999 mới đăng kê
khai để đối với phần diện tích n lại. Cấp thẩm chưa làm phần diện tích
ông D, B1 chuyển nhượng cho ông Tài pH1 một phần diện tích ông
Thương được Nông trường chè giao hay không.
[2.2.2]. Việc xem xét, thẩm định và đo vẽ.
Tờ bản đđịa chính năm 1999 xác định thửa đất số 48a (ông T, A) và
thửa số 47 (ông D, B1) giáp nhau. Tòa án cấp thẩm xem xét, thẩm định
đo vẽ 02 lần kết quả mâu thuẫn nhau về diện tích trA chấp, cụ thể lần 01
xác định diện tích trA chấp 536m
2
, lần 02 417m
2
(giảm 119m
2
) nhưng không
làm rõ lý do tại sao sự chênh lệch này; không xác định được phần diện tích trA
chấp nằm ở thửa đất số 48a hay thửa đất số 47. Sơ đồ đo vẽ hiện trạng không thể
hiện được sự lồng ghép bản đồ địa chính năm 1999 (dùng đcấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ ông D ông T, A) với hiện trạng thực tế để làm
căn cứ xem xét, đánh giá việc sử dụng đất của các đương sự.
Nguyên đơn khai khoảng năm 2005 - 2007 hiến một phần diện tích đất
rộng 04m để làm đường đi chung đường đó rA giới phân cách quyền sử dụng
đất của nguyên đơn như hiện trạng. Tuy nhiên biên bản xem xét thẩm định tại chỗ
ngày 26/12/2023 xác định giữa đất của nguyên đơn bđơn đường rộng 05m,
cấp sơ thẩm chưa yêu cầu Ủy ban nhân dân B xác định có sviệc hiến đất làm
đường như nguyên đơn đã khai hay không, nếu thì cần làm diện tích đất
nguyên đơn đã hiến làm đường là bao nhiêu.
Bên cạnh đó, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho
nguyên đơn thì đường Quốc lộ 19 chưa được mở rộng, đến năm 2022 -2023 mới
mở rộng nên có sự thay đổi về chỉ giới quy hoạch giao thông so với thời điểm cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên các biên bản xem xét, thẩm định
tại chỗ các đồ đo vẽ ngày 28/12/2022 ngày 26/12/2023 đều không thể
hiện được phần diện tích nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nằm trong và ngoài chỉ giới quy hoạch giao thông là chưa đầy đủ.
[2.2.3]. Quá trình sử dụng đất, ý chí của các bên về diện tích đất trA chấp:
Sau khi nhận chuyển nhượng đất, năm 2011 bị đơn làm nhà ở đồng thời đào
giếng nước, trồng hồ tiêu đến năm 2016 trồng phê trên diện tích đất trA
chấp; giữa đất nguyên đơn bị đơn được phân cách rA giới bởi đường đất liên
9
thôn rộng 05m. Như vậy bị đơn sử dụng đất đã nhiều năm, đã tạo lập các tài sản
trên đất công khai, đã lập hàng rào bảo vệ và xác định rA giới sử dụng đất cụ thể,
rõ ràng. Nguyên đơn cũng đã rào lại phần đất của mình để sử dụng, biết rõ việc bị
đơn sử dụng đất từ năm 2011 nhưng không tài liệu, chứng cứ chứng minh
nguyên đơn khiếu nại, khởi kiện đến cơ quan có thẩm quyền. Chỉ đến năm 2022
khi cơ quan chức năng tiến hành đo đạc lại đất thì nguyên đơn mới trA chấp với
bị đơn. Do vậy cần pH1 làm ý chí của nguyên đơn đối với phần diện tích đất
trA chấp.
[2.2.4]. Án phí: Đây là vụ án trA chấp quyền sử dụng đất, cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn trả đất nhưng pH1 chịu án phí có giá
ngạch là không đúng quy định của pháp luật.
[3]. Xét thấy cấp thẩm vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng; việc
thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, khách quan và toàn diện làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tại cấp phúc thẩm không thể khắc
phục được nên căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng
cáo của bị đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư
Prông, hủy toàn bộ bản án thẩm, giao hồ về cho cấp sơ thẩm giải quyết lại
theo đúng quy định của pháp luật.
[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị hủy nên người kháng
cáo không pH1 chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308 và Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự.
1. Hủy toàn bộ bản án dân sự thẩm số 08/2024/DS-ST ngày 05 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai. Giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai giải quyết lại theo thủ tục
chung.
2. Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn T vàNguyn
Th Kim A 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm theo biên lai thu
số 0006948 ngày 22 tháng 8 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chư
Prông, tỉnh Gia Lai.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày T án.
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Gia Lai; THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Chư Prông;
- Chi cục THADS huyện Chư Prông;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA, TDS, VT. Đã ký
Đặng Chí Công
Tải về
Bản án số 122/2024/DS-PT Bản án số 122/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 122/2024/DS-PT Bản án số 122/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất