Bản án số 121/2024/HNGĐ-PT ngày 12/08/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 121/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 121/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 121/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 121/2024/HNGĐ-PT ngày 12/08/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 121/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
————————
Bản án số:121/2024/HNGĐ-PT
Ngày: 12/8/2024
V/v: Ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Quyết Thắng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Đức Lập
Bà Nguyễn Bích Hạnh
Thư ký phiên tòa: Bà Đinh Thúy Hương
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa:
Bà Đặng Thị Sơn Cầm- Kiểm sát viên
Ngày 12/8/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm
công khai vụ án Hôn nhân & Gia đình thụ lý số 126/2023/TLPT-HNGĐ ngày 02
tháng 10 năm 2023 về việc “Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân”.
Do Bản án Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm số 43/2023/HNGĐ-ST ngày
21/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 237/2023/QĐXX-PT ngày
30/10/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 127/2023/QĐ-HPT ngày 24/11/2024,
Quyết định hoãn phiên tòa số 135/2024/QĐ-HPT ngày 06/12/2024, Thông báo mở
lại phiên tòa số 325/TB-TA ngày 12/6/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số
92/2024/QĐ-HPT ngày 11/7/2024, giữa:
* Nguyên đơn: Ông V, sinh năm 1945.
Địa chỉ: Thôn Kim thượng, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền:
1. Anh X sinh năm 1996 (có mặt).
Địa chỉ: Thôn Kim thượng, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
2. Anh Đ, sinh năm 1999 (có mặt).
Địa chỉ: Tổ 1, thị trấn Chi Đông, Mê Linh, Hà Nội.
*Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Nguyễn Văn Hiến và Luật
sư Nguyễn Thị Minh Yến – Công ty luật TNHH Gia Võ, thuộc Đoàn luật sư thành
phố Hà Nội (có mặt luật sự Hiến, vắng mặt luật sư Yến).
* Bị đơn: Bà Ng, sinh năm 1948.
Địa chỉ: Khối 6, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
2
Người đại diện theo ủy quyền: Chị Q, sinh năm 1974 (có mặt).
Địa chỉ: Tổ 28, thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, TP.Hà Nội.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND huyện Sóc Sơn
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn Minh – Chủ tịch,
Đại diện theo ủy quyền: Ông Ngô Đăng Giang – Chuyên viên Phòng Tài
nguyên môi trường huyện (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 8/11/2021 và những lời khai tiếp theo, ông V và
đại diện theo ủy quyền của ông trình bày:
Ông kết hôn cùng bà Ng vào năm 1969. Sau khi kết hôn, ông bà được UBND
xã Phù Lỗ cấp 01 thửa đất thổ cư tại xóm Làng, khối 6, xã Phù Lỗ. Thửa đất có số
thửa 389, tờ bản đồ số 5, diện tích 351m2, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vào năm 1991, trên thửa đất có 01 căn nhà được xây theo chương trình hỗ trợ
của chính quyền địa phương.
Ngoài ra ông cũng tự khai hoang và được cấp 01 số thửa đất nông nghiệp, bao
gồm: 48 m2, tờ bản đồ số 4, xứ đồng Cửa Lãng; 384m2, tờ bản đồ số 4, xứ đồng
Chằm Trên; 288m2, tờ bản đồ số 01, xứ Đồng Lác. Ông đề nghị chia đôi cả hai loại
đất, ông được hưởng một nửa.
Ngày 27/10/2022, ông V đã rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với việc yêu
cầu chia đất nông nghiệp.
Ngày 19/04/2023, ông tiếp tục có đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện đề nghị chia
đất sản xuất nông nghiệp đối với các thửa: Được chia ½ diện tích 240m2 đất sản
xuất nông nghiệp nằm trong 384m2 tờ số 04, xứ đồng Chằm Trên và ½ diện tích
288m2 đất sản xuất nông nghiệp. Tại phiên tòa, anh Xiêm thay đổi yêu cầu và chỉ
đề nghị chia đôi đối với 288m2 đất còn trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đối với diện tích đất sản xuất nông nghiệp bà Ng đã chuyển nhượng, yêu cầu bà chi
trả cho ông theo giá đất thời điểm hiện nay.
* Đại diện theo ủy quyền của Bị đơn là chị Q trong bản tự khai và các lời
khai tiếp theo trình bày:
Năm 1967, ông V là công nhân Cầu Đường, bà Ng là bộ đội dân quân, ông V
và bà Ng có quan hệ tình cảm và ông V có theo bà Ng về ở chung tại Khối 6, Phù
Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội, không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống ông V và bà
Ng sinh được 02 người con:
1. Anh N, sinh năm 1971 (chết ngày 16/03/1994 không có vợ con).
2. Chị Q, sinh năm 1974.
Năm 1994, sau khi anh Nội mất thì ông V bỏ đi, khoảng 2 tháng sau có quay
lại phá dỡ hai căn nhà trên diện tích đất mà bà Ng đang sinh sống.
Từ năm 1994 đến nay, ông V không còn chung sống với bà Ng, chuyển đi đâu
3
gia đình không biết. Qúa trình chung sống ông V và bà Ng không có tài sản chung.
Đối với diện tích đất thổ cư tại thửa đất số 389, tờ bản đồ số 5, diện tích 351m
2
và 288m2 đất sản xuất nông nghiệp là tài sản riêng của bà Ng không liên quan đến
ông V. Nguồn gốc thửa đất này là của mẹ đẻ bà Ng để lại. Năm 1991 thì Nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Ng. Mẹ đẻ bà Ng là cụ Tô Thị Xuyến,
không rõ năm sinh, chết năm không rõ.
Đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn thì bị đơn không đồng ý vì toàn
bộ diện tích đất thổ cư tại thửa đất số 351 và 288m2 đất sản xuất nông nghiệp như
tôi đã trình bày là tài sản riêng của bà Ng không liên quan đến ông V.
* Đại diện theo ủy quyền của UBND huyện Sóc Sơn, ông Ngô Đăng Giang
vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình giải quyết vụ án ông có lời khai: Hồ sơ
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 389, tờ số 05, diện tích
351m2 tại Xóm Làng, xã Phù Lỗ cho bà Ng hiện Phòng tài nguyên môi trường huyện
Sóc Sơn không lưu giữ. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, ông
xin vắng mặt tại phiên tòa.
Tại Bản án số 43/2023/HNGĐ - ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân
huyện Sóc Sơn, Hà Nội đã xử và quyết định: Căn cứ vào khoản 2 Điều 28; Điều
35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Điều
33; Điều 38; Điều 43, 44, 46 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2013. Điều 54 Luật
đất đai năm 2013. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân là nhà và đất ở tại thửa đất số 389, tờ bản đồ số 5, diện tích 351m
2
, địa chỉ khối
6, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn và đất sản xuất nông nghiệp tại xứ đồng Chằm và
288m2 tại thửa 320, tờ bản đồ số 01 của ông V đối với bà Ng.
Không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND
huyện Sóc Sơn cấp cho bà Ng đối với thửa đất số 389, tờ bản đồ số 5, diện tích
351m
2
.
Buộc bà Ng thanh toán công sức cho ông V 50.000.000đ
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 04/8/2023, ông V kháng cáo toàn bộ bản án và đề nghị hủy án sơ thẩm
và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, người kháng
cáo không rút đơn kháng cáo, các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án và không xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ.
*Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn và đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ông V là công nhân, khi về ở cùng với bà Ng
vào khoảng thời gian từ năm 1967 đến năm 1969. Quá trình sinh sống cùng nhau,
4
ông bà không làm thủ tục đăng ký kết hôn và sinh được hai người con là anh N, sinh
năm 1971 (đã chết ngày 16/03/1994 không có vợ con) và chị Q, sinh năm 1974. Khi
ông V về ở cùng với bà Ng đã được Hợp tác xã cấp đất ở và đất nông nghiệp. Năm
1993, ông V không làm công nhân nữa và bỏ việc không được hưởng chế độ gì. Tuy
nhiên, tôi cũng không có tài liệu để xuất trình cho Tòa án. Sau khi anh Nội chết, đến
cuối năm 1994, ông V không ở cùng với bà Ng nữa và trở về quê ở Kim Lũ, Sóc
Sơn, Hà Nội. Năm 1995, ông V có lấy bà Nguyễn Thị Hải nhưng cũng không đăng
ký kết hôn và sinh được một người con là anh Xsinh năm 1996. Ông V tiếp tục sinh
sống như vợ chồng với bà Hải trên thửa đất của bà Hải từ đó tới nay. Trong thời gian
sinh sống cùng với bà Ng, ông V và bà Ng có xây dựng được ba gian nhà tranh và
một nhà đốt thuốc lá trên thửa đất đã được hợp tác xã chia cho ông bà. Đồng thời,
Hợp tác xã cũng chia đất ruộng cho ông V và bà Ng. Mặt khác, phía bà Ng không
cung cấp được tài liệu chứng minh về nguồn gốc thửa đất ở và đất nông nghiệp. Mặc
dù Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm về trình tự, thủ tục tố tụng, không tuyên hủy các
giấy chứng nhận đối với các tài sản trên, nhưng đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án
sơ thẩm theo hướng xác nhận diện tích đất ở, diện tích đất nông nghiệp là tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân của ông V bà Ng và chia cho ông V ½ số tài sản này.
*Đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Ông V là công nhân, khi về ở
cùng với bà Ng vào khoảng thời gian từ năm 1967 đến năm 1969. Quá trình sinh
sống cùng nhau, ông bà không làm thủ tục đăng ký kết hôn và sinh được hai người
con là anh N, sinh năm 1971 (đã chết ngày 16/03/1994 không có vợ con) và chị Q,
sinh năm 1974. Đến cuối năm 1994, ông V đã không ở cùng bà Ng và bỏ đi đâu bà
Ng không biết. Về nguồn gốc đất ở, bà Ng cho biết là do Hợp tác xã đã chia cho bà
và mẹ bà là bà Tô Thị Xuyến (mất khoảng năm 1995 và cũng không làm thủ tục khai
tử) trên thửa đất đã có ngôi nhà ba gian cấp 4 trước khi ông V về ở cùng với bà Ng.
Hiện nay ngôi nhà ba gian cấp 4 đã xuống cấp và không còn nữa. Trong thời gian
ông V ở cùng với bà Ng thì hai ông bà có xây dựng được một nhà đốt thuốc lá. Tuy
nhiên, trước khi ông V bỏ đi, ông V đã phá dỡ nhà đốt thuốc lá này và đem toàn bộ
nguyên vật liệu phá dỡ đi nơi khác mà bà Ng không biết ông V đem đi đâu. Về diện
tích đất nông nghiệp, là do Hợp tác xã cấp cho bà Ng và mẹ bà Ng, ông V là công
nhân nên không có tiêu chuẩn được cấp đất nông nghiệp. Do đó, tôi đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V và giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Các đương sự và hội đồng xét xử chấp hành đúng quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo của người kháng cáo nằm trong thời hạn nên
chấp nhận.
5
Về nội dung: Căn cứ lời trình bày của các đương sự và các tài liệu có trong hồ
sơ vụ án có cơ sở xác định: ông V và bà Ng chung sống với nhau từ khoảng năm
1967 - 1969, không đăng ký kết hôn. Căn cứ quy định tại mục 1 Thông tư liên tịch
số 01/2001 ngày 03/1/2001 của Tòa án tối cao, VKSND tối cao, Bộ Tư pháp hướng
dẫn thi hành Nghị quyết số 35 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật
HNGĐ năm 2000 thì quan hệ vợ chồng của ông V, bà Ng vẫn được công nhận kể từ
ngày xác lập (năm 1969). Do đó, tài sản chung của vợ chồng được xác định theo quy
định tại Điều 15 Luật HNGĐ năm 1959: ‘vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng
thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới’.
Theo xác minh của Tòa án Sóc Sơn thì thửa đất thổ cư số 389, tờ bản đồ số 5,
diện tích 351m
2
có nguồn gốc là của Hợp tác xã giao cho mẹ con bà Ng với tiêu
chuẩn hộ đơn thân trước khi ông V về chung sống cùng bà Ng. Khi ông V về chung
sống cùng bà Ng có xây dựng được 01 lò sấy thuốc lá. Năm 1994 khi ông về Kim
Lũ sinh sống đã phá rỡ lò thuốc lá này.
Xác minh tại UBND xã Phù Lỗ: Tại GCNQSD đất cấp cho bà Ng sử dụng
591m2 gồm có: thửa 389, tờ bản đồ 05 diện tích 351m2 trong đó 200m2 đất ở,
151m2 đất vườn và 240m2 đất kinh tế gia đình. Đối với 240m2 đất kinh tế gia đình
năm 1998 thực hiện giao đất theo NĐ/CP thì diện tích đất trên đã được rút ra để
chia cho các hộ gia đình do đó diện tích đất trên không còn nằm trong GCNQSD
đất số 537879 đã cấp cho bà Ng.
Sơ đồ thửa đất do Công ty đo đạc đo vẽ hiện trạng ngày 26/5/2022 đang ghi
hiện trạng là 511,3m2, trong đó có 187,3m2 của hộ liền kề là bà Cẩm. Như vậy hiện
trạng diện tích đất bà Ng đang sử dụng chỉ còn 324m2. Do đó yêu cầu của nguyên
đơn đề nghị chia ½ diện tích 511,3m2 là không có căn cứ nên không được chấp nhận
Do thửa đất số 389, tờ bản đồ 05 được xác định là của mẹ con bà Ng nên xác
định ½ thửa đất này là tài sản của bà Ng, căn cứ điều 15 Luật HNGĐ năm 1959 thì
½ thửa đất này là tài sản chung của vợ chồng ông V, bà Ng. Tuy nhiên, ông V đã bỏ
đi không còn chung sống với bà Ng từ khoảng năm 1994, đã chung sống với người
phụ nữ khác và có con riêng. Bà Ng là người quản lý, trông nom, tôn tạo thửa đất từ
thời điểm đó đến nay. Xét nguồn gốc thửa đất là của mẹ con bà Ng được Hợp tác xã
giao cho trước khi ông V chung sống với bà Ng. Bà Ng có công sức lớn hơn đối với
khối tài sản này nên phân chia cho bà Ng ¾ giá trị tài sản, ông V nhận ¼ giá trị tài
sản này. Do bà Ng đang sinh sống trên đất, có công sức lớn hơn nên giao toàn bộ
thửa đất cho bà Ng tiếp tục quản lý, sử dụng và bà Ng có trách nhiệm thanh toán giá
trị cho ông V số tiền 438.750.000 đồng. Do đó chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của ông V về chia tài sản chung vợ chồng và sửa án sơ thẩm như nhận định
trên.
6
Đối với diện tích đất sản xuất nông nghiệp đang có tranh chấp thì theo quy định
pháp luật thì đất sản xuất nông nghiệp được giao có thời hạn cho người trực tiếp sản
xuất nông nghiệp. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh với các
cụ cao tuổi trong thôn đều xác định: Ông V là công nhân cầu đường, không phải là
người địa phương nên không có tiêu chuẩn giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp. Tại
phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của ông V cũng xác nhận ông V làm
công nhân cầu đường đến năm 1994.
Tại Điều 6 Quy định kèm theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 về việc giao
đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản
xuất nông nghiệp có quy định “Đối tượng giao đất nông nghiệp để sử dụng ổn định
lâu dài là nhân khẩu nông nghiệp thường trú tại địa phương…”. Đối với đất sản
xuất nông nghiệp tại xã Phù Lỗ nói riêng được giao gần đây nhất là theo Nghị định
64-CP ngày 27/9/1993 và được triển khai vào các năm 1998-1999. Tại thời điểm
giao đất ông V đã về xã Kim Lũ sinh sống. Qua xác minh tại địa phương thể hiện từ
thời điểm ông V về chung sống cùng bà Ng tại xã Phù Lỗ, ông V chưa bao giờ được
giao đất sản xuất nông nghiệp vì ông là công nhân. Do đó không có căn cứ để chấp
nhận yêu cầu khởi kiện chia đất sản xuất nông nghiệp của ông V.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của người kháng cáo nằm trong thời hạn kháng
cáo nên được chấp nhận đưa ra xét xử phúc thẩm.
Về nội dung:
Theo Điều 11 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định “Việc kết hôn
phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên
người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều
không có giá trị về mặt pháp luật”.
Theo Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: Việc kết hôn do
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết
hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định. Mọi nghi
thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý.
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Nam nữ chung sống với
nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công
nhận là vợ chồng.
Căn cứ vào Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
ngày 03/1/2001 của Tòa án tối cao, VKSND tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành
Nghị quyết số 35 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật HNGĐ năm
7
2000 quy định: Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987
mà chưa đăng ký kết hôn thì được xác định là hôn nhân thực tế và họ có nghĩa vụ
đăng ký kết hôn cho đến ngày 01/01/2003. Trường hợp họ đăng ký kết hôn thì quan
hệ hôn nhân được xác lập kể từ ngày họ về chung sống với nhau như vợ chồng.
Căn cứ vào lời trình bày của đại diện theo ủy quyền của ông V và bà Ng đều
thể hiện ông V và bà Ng về chung sống với nhau từ năm 1969 đến năm 1994. Quá
trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, phía ông V và bà Ng không xuất trình
được giấy đăng ký kết hôn. Đồng thời, Ủy ban nhân dân xã cũng có văn bản ngày
17/04/2024 thể hiện trong sổ sách lưu trữ về hộ tịch thì không tìm thấy hồ sơ lưu trữ
kết hôn giữa ông V và bà Ng.
Năm 1994, ông V không ở cùng bà Ng và về chung sống như vợ chồng với bà
Lê Thị Hải (trú tại xã Kim Lũ, Sóc Sơn, Hà Nội) cho đến nay. Như vậy, ông V đã từ
bỏ quan hệ hôn nhân thực tế này. Cho đến nay ông V và bà Ng cũng không làm thủ
tục đăng ký kết hôn nên quan hệ giữa ông V và bà Ng không được pháp luật thừa
nhận là vợ chồng.
Mặt khác, tại Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định “ Đối với
tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được
cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không
nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”.
Căn cứ vào lời trình bày của các bên đương sự thì khi ông V (lúc này là công
nhân) về ở cùng bà Ng thì ông bà sinh sống trên thửa đất của bà Ng và mẹ bà Ng do
Hợp tác xã cấp cho mẹ con bà Ng theo tiêu chuẩn hộ đơn thân tại thửa đất số 389,
tờ bản đồ số 5. Năm 1991, Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà
Ng.
Căn cứ tài liệu hồ sơ của UBND xã thì không có tài liệu giao đất ở, cấp đất
nông nghiệp cho ông V và bản thân ông V cũng không xuất trình được tài liệu chứng
minh việc giao đất ở, đất nông nghiệp này. Bản thân ông V là công nhân cầu đường,
không phải là người địa phương nên không có tiêu chuẩn giao đất ở, đất sản xuất
nông nghiệp. Ông V không xuất trình được tài liệu chứng minh việc bà Ng thỏa
thuận đưa diện tích đất nói trên vào tài sản chung vợ chồng.
Căn cứ vào Điều 18 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định “ Khi hôn
nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản
chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này” và Điều 42 quy định ”
Tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ấy”.
Do đó có đủ căn cứ xác định thửa đất số 389, tờ bản đồ số 5, diện tích 351m
2
,
địa chỉ khối 6, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn được mẹ bà Ng tặng cho bà Ng là tài sản
riêng của bà Ng.
8
Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông V về yêu cầu chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân là đất ở, đất nông nghiệp và giữ nguyên bản án sơ
thẩm là phù hợp với quy định của pháp luật..
Về án phí: Do ông V là người cao tuổi nên không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí,
lệ phí Tòa án. Xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông V. Giữ nguyên Bản án số
43/2023/HNGĐ - ST ngày 21/07/2023 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
2. Về án phí: Ông V không phải chịu án phí phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật.
Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND TP. Hà Nội;
- TAND huyện Sóc Sơn, HN;
- Đương sự;
- Lưu: HS, VP.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Quyết Thắng
9
Nơi nhận:
- VKSND TP. Hà Nội;
- TAND huyện Sóc Sơn, HN;
- Đương sự;
- Lưu: HS, VP.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Quyết Thắng
10
Tải về
Bản án số 121/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 121/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 13/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm