Bản án số 230/2024/HNGĐ-ST ngày 26/08/2024 của TAND huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 230/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 230/2024/HNGĐ-ST ngày 26/08/2024 của TAND huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đầm Dơi (TAND tỉnh Cà Mau)
Số hiệu: 230/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Phan Thị N yêu cầu chia tài sản với ông Huỳnh Văn B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐM DƠI, TỈNH MAU
Bản án số: 230/2024/HNGĐ-ST
Ngày 26 8 2024
V/v chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân
CỘNG HÒA XÃ HI CHNGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh pc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Càn.
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Phạm Thị Hà.
Ông Hồ Thanh Phong.
- Thư phiên tòa: Trần Kim Thia là Thư Tòa án nhân dân huyện
Đầm Dơi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi tham gia phiên tòa:
Ông Dương Tấn Viễn Kiểm sát viên.
Trong các ngày 23 và 26 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện
Đầm Dơi xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 408/2023/TLST-HNGĐ ngày
04 tháng 10 năm 2023 về việc “tranh chấp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhântheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 215/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày
15 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Phan Thị N, sinh năm 1948. Địa chỉ trú: Ấp T, T1,
huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh
năm 1979. Địa chỉ trú: VPLS Kết Nối, số 140, đường Đ, Khóm x, Phường y,
thành phố C, tỉnh Mau văn bản ủy quyền ngày 12/7/2023 (có mặt khi xét xử,
vắng mặt khi tuyên án).
- Bị đơn: Ông Huỳnh Văn B, sinh năm 1945. Địa chỉ trú: Ấp T, xã T1,
huyện Đ, tỉnh Cà Mau (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan:
1. Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh
huyện Đầm Dơi. Địa chỉ: Khóm x, thị trấn Đ1, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
2
Đại diện hợp pháp theo ủy quyền của Ngân hàng: Ông Hoàng B1 Phó
phòng Khách hàng Agribank Đầm Dơi – văn bản ủy quyền ngày 12/8/2024 (có mặt
khi xét xử vắng mặt khi tuyên án).
2. Anh Huỳnh Quốc H. Địa chỉ trú: Ấp T, T1, huyện Đ, tỉnh Mau
(có mặt).
3. Anh Huỳnh Văn C. Địa chỉ trú: Ấp T, T1, huyện Đ, tỉnh Mau
(có mặt).
4. Chị Bùi Thị P. Địa chỉ trú: Ấp T, T1, huyện Đ, tỉnh Mau (vắng
mặt).
5. Anh Huỳnh Quốc D. Địa chỉ trú: Ấp T, T1, huyện Đ, tỉnh Mau
(vắng mặt).
6. Anh Huỳnh Phong D1. Địa chỉ cư trú: Ấp T, xã T1, huyện Đ, tỉnh Cà Mau
(vắng mặt).
7. Anh Huỳnh Hữu D2. Địa chỉ trú: Ấp T, T1, huyện Đ, tỉnh Mau
(vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện của Phan Thị N, lời trình bày trong quá trình giải
quyết vụ án và tại phiên tòa của ông Nguyễn Văn K, thể hiện:
Trước đây Phan Thị N được cụ Phan Văn L, cụ Thị T (cha, mẹ bà N)
cho phần đất diện tích 40.200m
2
tọa lạc tại ấp Tân Long B, Tân Dân, huyện
Đầm Dơi, tỉnh Mau, sau khi N chung sống cùng ông B thì tiếp tục quản lý,
sử dụng phần đất đến năm 1993 làm thủ tục cấp giấy chứng nhận, do vợ, chồng
nên N để ông B đứng tên; quá trình quản lý, sử dụng phần đất không phát sinh
tranh chấp với người khác. Do không thống nhất việc thỏa thuận phân chia đất cho
các con ông B cho rằng phần đất do ông B đứng tên nên N không quyền
quyết định thực hiện các thủ tục chuyển tên quyền sử dụng đất.
Do đây là tài sản chung của vợ, chồng nên bà N yêu cầu được quyết định đối
với ½ phần đất nhưng ông B không thực hiện việc chuyển tên nên bà N yêu cầu
được hưởng ½ của phần đất đã được cấp giấy chứng nhận theo đo đạc có tổng diện
tích là 44.442,3m
2
.
Quá trình giải quyết tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn ông Nguyễn Văn K yêu cầu phân chia cho N hưởng ½ diện tích
theo đo đạc thực tế 22.221,15m
2
. N hưởng phần đất căn nhà là tài sản chung
của ông B, bà N N trách nhiệm giao lại ½ giá trị căn nhà cho ông B được
quy đổi bằng phân chia cho ông B diện tích đất nhiều hơn tương ứng với phần giá
trị căn nhà ông B được hưởng.
Đối với các căn nhà anh C trên phần đất khi phân chia cho bà N hưởng phần
đất này thì thống nhất giữ nguyên cho anh C tiếp tục sử dụng căn nhà tường xây
dựng phía trong lộ xe; đối với căn nhà tạm phía ngoài lộ xe tiếp tục giao cho anh C
3
sử dụng, N sẽ thỏa thuận với anh C, trường hợp không thỏa thuận được sẽ được
xem xét, giải quyết bằng vụ án khác. Các phần đất thống nhất anh C có nghĩa vụ tự
di dời các dụng cụ nuôi tôm giao lại phần đất vào ngày 30/4/2025 để phân chia
cho bà N, ông B.
Đối với việc ông B cầm cố ½ diện tích đất cho anh Huỳnh Văn C số tiền
300.000.000 đồng thế chấp giấy chứng nhận đvay tiền tại Ngân hàng Nông
nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Đầm Dơi (Agribank
Đầm Dơi) bà N hoàn toàn không biết nên đây là các khoản nợ riêng của ông B nên
ông B trách nhiệm trả các khoản nợ nêu trên theo quy định của pháp luật đề
nghị Hội đồng xét xử tuyên bố hợp đồng cầm cố vô hiệu.
Chi phí thẩm định, định giá do N đã thanh toán về nguyên tắc N, ông
B mỗi người phải chịu ½; tuy nhiên, qua phân tích của Hội đồng xét xử ông K
thống nhất bà N tự chịu các chi phí này mà không yêu cầu ông B trả lại.
* Lời trình bày tại phiên tòa của ông Huỳnh Văn B, thể hiện:
Ông N 06 người con, gồm: Nguyễn Văn H, Huỳnh Văn C, Huỳnh
Văn Đ, Huỳnh Quốc H, Huỳnh Tấn T và Huỳnh Ngọc M.
Về phần đất bà N yêu cầu có nguồn gốc từ gia đình bà N khai phá nhưng sau
khi về chung sống ông đã làm thủ tục đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Quá trình chung sống, quản sử dụng phần đất ông, N mua được một
số phần đất đã phân chia cho anh C phần đất Cái Đôi Vàm, huyện Phú n,
anh H phần đất phía hậu Kinh Thợ Tỉnh (ấp Tân Long B, Tân Dân) anh Đ
phần đất Cầu Cả Bát (ấp Tân Long B, Tân Dân) các phần đất này anh H,
anh C, anh Đ đều đã được cấp giấy chứng nhận. Hiện nay còn có phần đất rừng tại
huyện Ngọc Hiển (khoảng 50 công) dkiến cho anh H và Huỳnh Ngọc M; phần
còn lại tại ấp Tân Long B, Tân Dân khi N đồng ý cắt cho anh Tài 15 công
tầm lớn, phần còn lại sẽ phân chia cho ông N. Trường hợp N không đồng
ý thì ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của N; ngoài ra ông không yêu
cầu gì khác.
Đối với khoản tiền vay Ngân hàng: Trước đây ông và N vay tiền ngân
hàng, thủ tục do ông đứng tên, đến năm 2022 tiếp tục vay lại số tiền 400.000.000
đồng về giao cho anh H sử dụng, cải tạo vuông của gia đình tại ấp Tân Long B,
Tân Dân Ngọc Hiển. Sau đó, cố phần đất cho anh C để lấy số tiền
300.000.000 đồng trả một phần vốn cho Ngân hàng. Do vậy, ông B xác định đây là
nợ chung của ông và N nên khi phân chia đất thì N phải có trách nhiệm trả ½
khoản nợ của Ngân hàng.
* Theo đơn yêu cầu độc lập của Agribank Đầm Dơi, lời trình bày tại phiên
tòa của ông Lê Hoàng B1, thể hiện:
Vào ngày 06/6/2022 ông B hợp đồng vay tiền tại Agribank Đầm Dơi để
vay số tiền 400.000.000 đồng (hồ vay lại) đphục vụ cải tạo đất nuôi tôm, thời
hạn vay tối đa 36 tháng. Đến ngày 14/5/2023 ông B trả 300.000.000 đồng thiếu
lại 100.000.000 đồng đến nay chưa thanh toán. Nay Agribank Đầm Dơi xác định
4
đây khoản nợ chung của ông B, Phan Thị N; mặc hợp đồng tín dụng còn
trong thời gian thực hiện nhưng do N yêu cầu phân chia tài sản trong thời kỳ
hôn nhân sảnh hưởng đến quyền lợi của ngân hàng nên Agribank Đầm Dơi yêu
cầu ông B, N trả tổng số tiền vốn, lãi đến ngày 23/8/2024 100.429.589 đồng
(vốn 100.000.000 đồng, lãi 429.589 đồng) tiền lãi phát sinh từ ngày 24/8/2024
cho đến ngày tất toán. Trường hợp ông B, N không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng thì Agribank Đầm Dơi quyền yêu cầu quan thi hành án dân sự
xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
Sau khi tham gia phiên tòa vào buổi sáng ngày 23/8/2024 đại diện Agribank
Đầm Dơi ông Hoàng B1 đơn đề nghị xét xử vắng mặt thay đổi một
phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đó yêu cầu ông B nghĩa vụ trực tiếp
trả khoản vay của Agribank Đầm Dơi tính đến ngày 23/8/2024 100.429.589
đồng (vốn 100.000.000 đồng, lãi 429.589 đồng) tiền lãi phát sinh từ ngày
24/8/2024 cho đến ngày tất toán.
* Lời trình bày tại phiên tòa của anh Huỳnh Quốc H, thể hiện: Ngoài phần
đất anh C sử dụng thì phần còn lại anh quản lý, sử dụng cùng với N. Anh thừa
nhận chở ông B, N làm thủ tục vay tiền tại Ngân hàng nhiều lần, năm 2022
khi ông B vay được số tiền 400.000.000 đồng thì đưa cho anh để cải tạo vuông
chung của gia đình tại ấp Tân Long B, Tân Dân huyện Ngọc Hiển. Do
trước đó, ngoài giao phần đất làm ao tôm công nghiệp cho anh C sử dụng thì anh C
còn sử đụng đất vuông hàng tháng đưa tiền để anh đóng lãi cho Ngân hàng.
Do lãi ngân hàng cao nên thỏa thuận cố phần đất thuê cho anh C để lấy
300.000.000 đồng trả bớt phần vốn cho ngân hàng. Do vậy, anh H xác định khoản
nợ của Ngân hàng nợ chung của cha, mẹ việc Ngân hàng khởi kiện yêu cầu
cha, mẹ trả tiền nên anh không có ý kiến gì khác.
* Lời trình bày tại phiên tòa của anh Huỳnh Văn C, thể hiện:
Phần ao nuôi tôm công nghiệp anh được cha, mẹ cho mượn từ nhiều năm
trước mục đích để anh phụ tiền điện cùng gia đình ngoài ra còn giao phần đất nuôi
tôm khác để phụ giúp tiền lãi ngân hàng. m 2023 thì cha của anh (ông B) làm
giấy cố ½ phần đất lấy 300.000.000 đồng để trả bớt một phần vốn của ngân hàng,
thực tế không giao đất khi nhận khoản tiền này tanh không phải đưa tiền
phụ giúp trả lãi cho ngân hàng. Nay mẹ của anh (N) yêu cầu phân chia phần đất
thì anh không ý kiến, yêu cầu con cái trong gia đình, anh yêu cầu được
giữ nguyên phần đất đã cất nhà, sử dụng (01 căn nhà xây 01 căn nhà tạm bán
quán), đối với các phần đất anh đồng ý giao lại vào ngày 30/4/2025 đphân chia
phần đất cho cha, mẹ. Anh không có ý kiến và yêu cầu gì đối với số tiền
300.000.000 đồng cố đất trong vụ án này.
Tại phiên tòa các đương sự trình bày ý kiến tranh luận:
Ông Nguyễn Văn K xác định phần đất N yêu cầu nguồn gốc của cha,
mẹ N khai phá, đến năm 1992 N kết hôn với ông B, đến năm 1993 ông B
làm thủ tục được cấp giấy chứng nhận do ông B đứng tên nên đây tài sản
trong thời kỳ hôn nhân của ông B, bà N và đến ngày 11/5/1994 được UBND huyện
5
cấp giấy chứng nhận diện tích 40.200m
2
nên N quyền yêu cầu phân chia
đối với phần đất này vì căn nhà thờ cúng cha, mẹ N, đối với các tài sản khác
bà N không yêu cầu.
Việc ông B yêu cầu chia cho các con xong mới đồng ý phân chia theo yêu
cầu của N đây trách nhiệm của cha, mẹ đối với con cái nhưng pháp luật
không quy định nên khi nào ông B, N được chia thì quyền cho phần tài sản
của mình được hưởng nên yêu cầu ông B không có cơ sở.
Đối với ông C quá trình giải quyết vụ án không ý kiến không đặt ra
yêu cầu khác, sau khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử thì ông B, anh C, anh H cho
rằng có lập hợp đồng cố đất vào ngày 28/8/2022 âm lịch. Hợp đồng cầm cố này
không diện tích, vị trí cụ thể, thực chất đây tạo dựng hợp đồng mới chứ thực
tế hoàn toàn không có. Anh C thừa nhận thấy em điều kiện khó khăn nên đưa tiền
trả nợ việc này bà N hoàn toàn không biết nên không có trách nhiệm. Mặt khác,
anh C cho rằng cha, mẹ cho ợn đất sử dụng nhưng quá trình giải quyết, định g
anh C cũng không yêu cầu không khởi kiện yêu cầu độc lập nên không được
xem xét; tại phiên tòa, anh C tự nguyện sản xuất phần đất đến ngày 30/4/2025 trả
lại nên nguyên đơn thống nhất cho anh C tiếp tục sử dụng đến ngày 30/4/2025.
Đối với Agribank Đầm Dơi đã thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
ông B trực tiếp trả tiền cho ngân hàng nên ông K thống nhất vì hồ sơ vay vốn và sử
dụng chỉ có ông B nên bà N không có trách nhiệm trả nợ ngân hàng.
Từ các lập luận trên, ông K đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của
bà N phân chia cho bà N hưởng ½ diện tích theo đo đạc thực tế là 22.221,15m
2
.
N hưởng phần đất căn nhà trách nhiệm giao lại ½ giá trị căn nhà cho ông
B quy đổi bằng phân chia phần đất nhiều hơn tương ứng với phần giá trị căn nhà
ông B được hưởng. Yên cầu Hội đồng xét xử xem xét phân chia nhà, đất phù hợp
để bảo đảm quyền lợi của các đương sự. Đối với các căn nhà anh C trên phần đất
khi phân chia cho N hưởng phần đất này thì thống nhất giữ nguyên cho anh C
tiếp tục, sử dụng căn nhà tường xây dựng phía trong lộ xe; đối với căn nhà tạm
phía ngoài lộ xe tiếp tục giao cho anh C tiếp tục sử dụng và thỏa thuận sau, trường
hợp không thỏa thuận được sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác. Do anh C
tự nguyện di dời dụng cụ nuôi tôm giao lại phần đất vào ngày 30/4/2025 để
phân chia cho N, ông B nên đồng ý về thỏa thuận này. Việc ông B cầm cố ½
phần đất cho anh C lấy số tiền 300.000.000 đồng và ông B thế chấp giấy chứng
nhận để vay tiền tại Agribank Đầm Dơi thì bà N hoàn toàn không biết nên nếu
phát sinh tranh chấp thì đây các khoản nriêng của ông B ông B trách
nhiệm trả theo quy định của pháp luật. Chi phí thẩm định, định giá do bà N tự chịu
các chi phí này mà không yêu cầu ông B trả lại.
Ông Huỳnh Văn B yêu cầu phân chia cho anh Huỳnh Tấn T trong diện tích
đất N yêu cầu phân chia 15 công tầm lớn, phần còn lại sẽ phân chia cho ông
N. Trường hợp bà N không thống nhất nội dung này tông không đồng ý
theo yêu cầu khởi kiện của bà N.
Anh Huỳnh Văn Canh Huỳnh Quốc H không có ý kiến tranh luận.
6
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa và người
tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự
nên không kiến nghị đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ các điều 122, 123,
131, 299, 303, 463, 466 Bộ luật Dân sự; Điều 37, 38, 59 Luật Hôn nhân Gia
đình; Điều 167 Luật Đất đai; khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Án lệ số
08/2016/AL; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Chấp nhận yêu cầu của N. hiệu hợp đồng cố đất lập ngày 20/8/2022
giữa ông B và anh C. Buộc anh C trả lại ông B, bà N ½ diện tích đất; phân chia cho
N hưởng diện tích đất 20.712,15m
2
; phân chia cho ông B hưởng diện tích đất
23.730,15m
2
; phân chia cho N hưởng căn nhà trên phần đất N được phân
chia.
Chấp nhận yêu cầu của Agribank Đầm i. Buộc ông B N trả cho
Ngân hàng số tiền 100.429.859 đồng. Buộc ông B N phải tiếp tục trả lãi phát
sinh kể từ ngày xét xử theo lãi suất đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng đã
kết với Ngân hàng tương ứng với số tiền nợ gốc và thời gian chậm trả cho đến khi
thanh toán hết tất cả mọi khoản nợ. Trường hợp ông B bà N không thanh toán
khoản nợ trên thì tài sản thế chấp được xtheo quy định tại Điều 299 Điều
303 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Án phí dân sự: Miễn cho bà N, ông B. Chi phí tố tụng: Bà N tự nguyện chịu.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ông Hoàng B1 mặt tham gia xét xử vào buổi sảng ngày 23/8/2024
sau đó đơn đề nghị xét xvắng mặt, chị Bùi Thị P, anh Huỳnh Quốc D, anh
Huỳnh Phong D1 anh Huỳnh Hữu D2 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
mà vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 điểm b khoản 2 Điều
227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự
này là phù hợp.
[2] Tại phiên tòa, các đương sự xác định ngoài phần đất Phan Thị N yêu
cầu phân chia tại ấp Tân Long B, xã Tân Dân thì bà N và ông Huỳnh Văn B còn tài
sản chung nơi khác. Tuy nhiên, đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn xác định
chỉ yêu cầu phân chia phần đất này mà không yêu cầu đối với các phần đất, tài sản
khác; ông B không có ý kiến gì về nội dung này. Xét thấy, đây là quyền quyết định
của các đương sự phù hợp với khoản 1 Điều 5 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội
đồng xét xử không đặt ra xem xét đối với các phần đất và các tài sản khác.
[3] Diễn biến phiên a, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không yêu
cầu xử lý căn nhà tạm của anh Huỳnh Văn C phía tiếp giáp sông 21 và đại diện
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh huyện Đầm
7
Dơi (Agribank Đầm Dơi) thay đổi một phần yêu cầu độc lập, yêu cầu ông B trả
toàn bộ số tiền vốn, lãi đến thời điểm hiện tại. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi
kiện của các đương sự hoàn toàn tự nguyện phù hợp với khoản 1 Điều 244 của
Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận.
[4] Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ thể hiện: Phần đất tài sản
chung của ông B, Phan Thị N được Ủy ban nhân dân huyện Đầm Dơi cấp giấy
chứng nhận vào năm 1994 tại các thửa 260, 261, 262, 263 tờ bản đồ số 11 tổng
diện tích 40.200m
2
do ông B đứng tên.
Ngày 27/6/2018 ông B thế chấp giấy chứng nhận để hợp đồng n dụng
vay tiền tại Agribank Đầm Dơi vay số tiền 160.000.000 đồng vào ngày 29/6/2018;
sau khi trả vốn, lãi ngày 02/10/2019 ông B hợp đồng vay số tiền 300.000.000
đồng, đến ngày 04/3/2020 ông B vay lại số tiền 400.000.000 đồng đến ngày
06/6/2022 khi lập hồ vay lại, anh Huỳnh Quốc H ủy quyền cho ông B thực hiện
các giao dịch vay tại Agribank Đầm Dơi stiền 400.000.000 đồng. Quá trình thực
hiện, ông B đã trả được số tiền vốn là 300.000.000 đồng và tính đến ngày
23/8/2024 thì ông B còn thiếu lại tổng số tiền 100.429.589 đồng (trong đó vốn
100.000.000 đồng).
[5] Ngày 08/01/2024 Tòa án kết hợp với Công ty TNHH Phát triển Xanh
Việt Nam xem xét, thẩm định tại chỗ, phần đất là tài sản chung của ông B, bà N tại
ấp Tân Long B, xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi. Theo mảnh trích đo hiện trạng ngày
19/02/2024 thì phần đất tranh chấp tại các thửa, gồm: Thửa số 1 diện tích 6.154m
2
(loại đất đất trồng cây lâu năm) thửa số 2 diện tích 38.288,3 m
2
(loại đất
nuôi trồng thủy sản). Trên phần đất anh Huỳnh Văn C đầu 05 ao nuôi tôm công
nghiệp, phần đất còn lại N đang sử dụng phần đất nuôi trồng thủy sản cùng với
anh H, trên phần đất 01 căn nhà xây của ông B, N, 01 căn nhà xây 01 căn
nhà tạm của anh Huỳnh Văn C đang sử dụng cùng với chị Bùi Thị P (vợ) các
con gồm: Anh Huỳnh Quốc D, anh Huỳnh Phong D1anh Huỳnh Hữu D2
[6] Ngày 04/5/2024 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng dân sự huyện
Đầm Dơi tiến hành định giá tài sản đối với đất các tài sản trên đất. Các đương
sự yêu cầu định giá tài sản phần đất căn nhà của ông B, N, các tài sản khác
các đương sự không yêu cầu. Kết quả thể hiện phần đất giá trị 95.000
đồng/m
2
, n nhà của ông B, bà N giá trị 286.289.000 đồng.
[7] Xét “biên bản hợp đồng cầm cố lập ngày 20/8/2022 âm lịch” giữa ông B
anh C, thấy rằng: Đây văn bản thể hiện việc ông B nhận của anh C
300.000.000 đồng mà không có việc giao nhận phần đất cầm cố trên thực tế.
Tại phiên tòa, ông B, anh C anh H thừa nhận trước đây ông B, N
cho anh C mượn đất sử dụng, đổi lại anh C phải hỗ trợ khoản tiền trả lãi ngân
hàng, trả tiền điện sinh hoạt hàng tháng và việc làm hợp đồng cầm cố mục đích đ
anh C không phải hỗ trợ khoản tiền trả lãi ngân hàng. Anh C tự nguyện đến ngày
30/4/2025 anh C cùng gia đình tự di dời dụng cụ nuôi tôm giao lại phần đất để
phân chia cho ông B, N không yêu cầu đối với số tiền 300.000.000
8
đồng.
Như vậy, hợp đồng cầm cố này nhằm hợp thức một giao dịch khác nên khi
phân chia tài sản chung là phần đất của N, ông B thì cần tuyên bố hợp đồng này
hiệu phù hợp. Về việc xử hậu quả hợp đồng hiệu: Do anh C không yêu
cầu giải quyết đối với số tiền 300.000.000 đồng đến ngày 30/4/2025 anh C sẽ
giao lại phần đất để phân chia cho bà N, ông B; đại diện nguyên đơn thống nhất
nội dung này nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.
[8] Xét yêu cầu của nguyên đơn, thấy rằng: Diện tích đất tại các thửa 260,
261, 262, 263 tờ bản đồ số 11 tổng diện tích 40.200m
2
do ông B đứng tên (theo
đo đạc thực tế diện tích 44.442,3m
2
) căn nhà giá trị 286.289.000 đồng tài sản
chung của ông B, N được và tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân, các đương sự
có quyền định đoạt đối với tài sản này nên bà N yêu cầu phân chia ½ số tài sản trên
căn cứ phù hợp với Điều 38 của Luật Hôn nhân Gia đình. Quá trình giải
quyết, nguyên đơn yêu cầu giữ nguyên căn nhà xây căn nhà tạm cho vợ chồng
anh C tiếp tục sử dụng nên không đặt ra xem xét. Đối với căn nhà N đang quản
lý, sử dụng thờ cúng cha, mẹ nên giữ nguyên cho bà N tiếp tục sử dụng nhưng phải
có nghĩa vụ trả lại ½ giá trị căn nhà bằng 143.114.500 đồng cho ông B.
[9] Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn yêu cầu phân chia cho N hưởng
phần đất căn nhà nhưng do N đã lớn tuổi, không khả năng trả giá trị căn
nhà bằng tiền cho ông B nên quy đổi ½ giá trị căn nhà tương ứng với diện tích
1.506m
2
giao cho ông B được hưởng; ông B cũng xác định đang s dụng phần đất
tại Ngọc Hiển cùng chHuỳnh Ngọc Mai, anh H (tài sản chung chưa chia của bà
N, ông B) nên cần chấp nhận yêu cầu của N, giao phần đất căn nhà cho
tiếp tục sử dụng là phù hợp.
Qtrình phân chia tài sản theo yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử
cũng xem xét thận trọng đảm bảo quyền, lợi ích của các đương sự, hạn chế thấp
nhất phải di dời các tài sản trên đất nhưng cũng thuận lợi trong quá trình sử dụng
đất sau này nên cần phân chia cho bà N được hưởng ½ diện tích đất bên có căn nhà
xây diện tích 178m
2
(giá trị 286.829.000 đồng) phần còn lại giao cho ông B
được hưởng. Cụ thể như sau:
- Phần tài sản bà N được hưởng phần đất tổng diện tích 20.554,9m
2
, gồm:
+ Phần đất vườn đo qua hướng tây từ điểm M1 (theo lộ giao thông) đến
điểm N1 50,77m từ điểm M2 đến điểm N2 56,16m diện tích 3.423,2m
2
(gồm căn nhà xây diện tích 178m
2
, nhà tạm, các công trình phụ trợ và 01 cống xổ).
+ Phần đất nuôi trồng thủy sản đo qua hướng tây điểm M2 đến điểm N3
43,93m, điểm M3 đến điểm N4 33,60m, điểm M5 đến điểm M6 6,72m và
điểm M6 đến điểm N5 là 23,95m diện tích 17.131,7m
2
.
- Phần tài sản ông B được hưởng tổng diện tích 23.887,4m
2
gồm:
+ Phần đất vườn (sau khi phân chia cho N) tại các vị trí N1, N2, M23,
M24, M25, M26 diện tích 2.730,8m
2
và 01 cống xổ.
9
+ Phần đất nuôi trồng thủy sản (sau khi phân chia cho bà N) tại các vị trí N3,
N4, N5, M7, M8, M9, M10, M11, M12, M13, M14, M15, M16, M17, M18, M19,
M20, M21, M22, M23 diện tích 21.156,6m
2
.
[9] Đối với các tài sản khác: Các đương sự không yêu cầu nên không
đặt ra xem xét. Phần tài sản thuộc phần đất bên nào thì bên đó sẽ tiếp tục sử dụng.
[10] Xét yêu cầu khởi kiện của Agribank Đầm Dơi, thấy rằng:
Khi nộp đơn yêu cầu độc lập, Agribank Đầm Dơi cung cấp hợp đồng tín
dụng số 7506 LAV-202201875 ngày 06/6/2022, o cáo đề xuất cho vay, phương
án sử dụng vốn, hợp đồng ủy quyền hợp đồng thế chấp tài sản số
TDAN2018046HVB/HĐTC ngày 27/6/2018 thể hiện ông B thế chấp giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất để vay số tiền 400.000.000 đồng tại Agribank Đầm Dơi
ngày 14/5/2023 ông B trả 300.000.000 đồng, đến ngày 23/8/2024 còn thiếu tổng số
tiền 100.429.589 đồng (trong đó vốn 100.000.000 đồng); các đương sự thừa
nhận về các nội dung này nên đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng
minh theo khoản 1 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Hợp đồng tín dụng có nội dung thỏa thuận phù hợp với các điều 288, 299,
463, 466 và 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 98 Luật các Tổ chức tín dụng.
Do N yêu cầu phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với ông B nên sẽ
ảnh hưởng đến quyền lợi của ngân hàng nên Agribank Đầm Dơi quyền khởi
kiện yêu cầu trả lại phù hợp.
Diễn biến tại phiên tòa, đại diện Agribank Đầm Dơi yêu cầu ông B trách
nhiệm trả số tiền này và phù hợp với tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án nên
việc ông B yêu cầu N cùng trách nhiệm trả khoản nợ này chưa căn cứ
nên không được chấp nhận. Do vậy chấp nhận yêu cầu độc lập của Agribank Đầm
Dơi, buộc ông B trả cho ngân hàng số tiền vốn, lãi đến ngày 23/8/2024 là
100.429.589 đồng là phù hợp.
Xét yêu cầu trả tiền lãi phát sinh kể từ ngày 24/8/2024 cho đến khi hoàn
thành nghĩa vụ trả nợ của Agribank Đầm Dơi, thấy rằng: Yêu cầu này phù hợp với
Án lệ số 08/2016/AL được công b theo Quyết định s 698/QĐ-CA ngày
17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nên được chấp nhận.
Xét yêu cầu xử tài sản thế chấp của Agribank Đầm Dơi: Theo hợp đồng
thế chấp tài sản số TDAN2018046HVB/HĐTC ngày 27/6/2018 thể hiện ông B thế
chấp quyền sử dụng đất tại các thửa 260, 261, 262, 263 tờ bản đồ số 11 tổng
diện tích 40.200m
2
tại ấp Tân Long B, Tân Dân, huyện Đầm Dơi theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số C 147106, do UBND huyện Đầm Dơi cấp ngày
10/5/1994, tên chủ sở hữu Huỳnh Văn Bình. Nội dung hợp đồng thế chấp thể hiện
tài sản gắn liền với đất và toàn bộ phần giá trị tăng lên do đang và sẽ đầu tư vào tài
sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp. Tuy nhiên, như trên đã phân tích khoản
nợ vay ngân hàng nợ riêng của ông B việc đăng thế chấp chưa đảm bảo
theo đúng quy định nên cần tuyên bố phần thế chấp đối với tài sản của N bị
10
hiệu và Ngân hàng quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp đối với phần đất ông B
được hưởng.
[11] Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản: N tự nguyện
chịu số tiền đã thanh toán nên không đặt ra buộc ông B phải chịu tương ứng với
phần tài sản được nhận.
[12] Án phí dân sự sơ thẩm: Theo khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; các điều 12 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà N, ông B người cao tuổi, có đơn xin miễn
án phí nên được xét miễn toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 92, khoản 4 Điều 147, Điều 157,
Điều 166, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 244 khoản 1 Điều
273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 38, 39 40 của Luật Hôn nhân Gia
đình; các điều 288, 299, 463, 466 và 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 98
Luật các Tổ chức tín dụng; Án lệ số 08/2016/AL được công bố theo Quyết định số
698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; các điều 12
14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị N.
1.1. Tuyên bố biên bản hợp đồng cầm cố lập ngày 20/8/2022 âm lịch” giữa
ông Huỳnh Văn Banh Huỳnh Văn C là vô hiệu.
1.2. Bà N được hưởng phần đất có tổng diện tích 20.554,9m
2
, gồm:
- Phần đất vườn diện tích 3.423,2m
2
(bao gồm căn nhà xây diện tích 178m
2
,
nhà tạm, các công trình phụ trợ và 01 cống xổ) có các phía tiếp giáp:
+ Phía đông giáp đất ông Nguyễn Văn Um (điểm M1, M2), dài 62,16m.
+ Phía tây giáp phần đất chia cho ông B (điểm N1, N2), dài 74,25m.
+ Phía nam giáp phần đất nuôi trồng thủy sản phân chia cho N, ông B
(điểm M2, N3, N2) dài 56,16m.
+ Phía bắc giáp lộ giao thông nông thôn (điểm M1, N1), dài 50,77m.
- Phần đất nuôi trồng thủy sản diện tích 17.131,7m
2
có các phía tiếp giáp:
11
+ Phía đông giáp đất ông Nguyễn Văn Um (điểm M2, M3, M4, M5), dài
494,93m.
+ Phía tây giáp phần đất phân chia cho ông B (điểm N3, N4, N5), dài
505,24m.
+ Phía nam giáp đất ông Nguyễn Y Bal, Vưu Hùng Cường (điểm M5, M6,
N5) dài 30,67m.
+ Phía bắc giáp phần đất phân chia cho bà N (điểm M2, N3), dài 49,93m.
1.3. Phần tài sản ông B được hưởng tổng diện tích 23.887,4m
2
(trong đó
phần đất quy đổi ½ giá trị căn nhà là 1.506 m
2
), gồm:
- Phần đất vườn (sau khi phân chia cho N) diện tích 2.730,8m
2
(có 01
cống xổ), có các phía tiếp giáp:
+ Phía đông giáp phần đất phân chia cho bà N (điểm N1, N2), dài 74,25m.
+ Phía tây giáp phần đất ông Huỳnh Văn B, Tiêu Minh Chánh, Trần Minh
Đương (điểm M23, M24, M25, M26), dài 85,38m.
+ Phía nam giáp phần đất nuôi trồng thủy sản phân chia cho ông B (điểm
M23, N2) dài 33,27m.
+ Phía bắc giáp lộ giao thông nông thôn (điểm M26, N1), dài 40,67m.
- Phần đất nuôi trồng thủy sản (sau khi phân chia cho N) diện tích
21.156,6m
2
.
+ Phía đông giáp phần đất phân chia cho N (điểm N3, N4, N5), dài
505,24m.
+ Phía tây giáp phần đất ông Trần Minh Đương, Huỳnh Trung Nghiêm,
Huỳnh Văn Tài, Huỳnh Văn Sĩ, Văn Sang, Huỳnh Văn Việt, Huỳnh Văn A
Huỳnh Hữu Phước, Huỳnh Ngọc Thanh, Huỳnh Văn Bê, Huỳnh Al Pha, Huỳnh
Văn Đẳng, Huỳnh Văn Đà, Huỳnh Hoàng Chiến, Huỳnh Ngọc Em (điểm M7, M8,
M9, M10, M11, M12, M13, M14, M15, M16, M17, M18, M19, M20, M21, M22,
M23), dài 511,89m.
+ Phía nam giáp đất ông Vưu Hồng Cường (điểm M7, N5) dài 32,03m
ông Huỳnh Văn A (điểm M16, M17), dài 19,68m.
+ Phía bắc giáp phần đất phân chia cho N, ông B (điểm M23, N2, N3),
dài 45,5m.
1.4. Anh Huỳnh Văn C, chị Bùi Thị P, anh Huỳnh Quốc D, anh Huỳnh
Phong D1 anh Huỳnh Hữu D2 nghĩa vụ di dời tài sản, dụng cụ nuôi tôm ao
công nghiệp vào ngày 30/4/2025 để giao lại các phần đất phân chia cho N, ông
B.
(kèm theo trích đo hiện trạng ngày 26/8/2024)
12
2. Chấp nhận yêu cầu Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn Việt
Nam chi nhánh Đầm Dơi (Agribank Đầm Dơi). Buộc ông Huỳnh Văn B có nghĩa
vụ trả cho Agribank Đầm Dơi số tiền 100.429.589 đồng (trong đó vốn
100.000.000 đồng, lãi 429.589 đồng). Ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong
hạn, lãi vay quá hạn ông B phải thanh toán cho Agribank Đầm Dơi theo hợp
đồng tín dụng tính đến ngày 23/8/2024 thì kể tngày 24/8/2024 ông B còn phải
tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất
các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc
này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh
lãi suất cho vay theo từng thời kỳ thì lãi suất mà ông B phải tiếp tục thanh toán cho
Agribank Đầm Dơi theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù
hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Agribank Đầm Dơi.
Chấp nhận một phần yêu cầu của Agribank Đầm Dơi, tuyên bố hợp đồng thế
chấp tài sản số TDAN2018046HVB/HĐTC ngày 27/6/2018 đối với quyền sử dụng
đất tại các thửa 260, 261, 262, 263 tbản đsố 11 tổng diện tích 40.200m
2
tại
ấp Tân Long B, xã Tân Dân, huyện Đầm Dơi theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số C 147106, do UBND huyện Đầm Dơi cấp ngày 10/5/1994, tên chủ sở hữu
Huỳnh Văn Bình hiệu phần thế chấp đối với tài sản của N; phần tài sản thế
chấp đối với phần ông B được hưởng vẫn hiệu lực. Trong trường hợp ông B
không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ thì
Agribank Đầm Dơi có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý phần tài sản
ông B được hưởng theo quy định của Luật thi hành án dân sự để thu hồi nợ.
3. Án phí phân chia tài sản sơ thẩm: Miễn toàn bộ cho bà N, ông B.
4. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản: N tự nguyện
chịu 18.869.864 đồng (bà N đã đối chiếu thanh toán xong).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn được tính từ ngày nhận
được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Viển kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Càn
Tải về
Bản án số 230/2024/HNGĐ-ST Bản án số 230/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 230/2024/HNGĐ-ST Bản án số 230/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất