Bản án số 12/2024/HC-ST ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Hải Dương
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 12/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 12/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 12/2024/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 12/2024/HC-ST ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Hải Dương |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hải Dương |
Số hiệu: | 12/2024/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | bà Phạm Thị L khiếu kiện quyết định hành chính của UBND huyện K |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 12/2024/HC-ST
Ngày: 05-9-2024
“v/v khiếu kiện quyết định hành
chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
-
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Chất
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Sĩ Quang và bà Phạm Thị Nguyên
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Phương Thảo - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa:
Ông Hoàng Anh Tuấn - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2024/TLST-HC ngày 15 tháng 3 năm
2024 về “khiếu kiện quyết định hành chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2024/QĐXXST-HC ngày 14 tháng 8 năm
2024 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Phạm Thị L, sinh năm 1969; Địa chỉ: Số A N, thị trấn
P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà L: Bà Hoàng Thị Mai H, sinh năm
1973; địa chỉ: Số nhà A, đường T, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Chu
Thanh N - Luật sư, Văn phòng Luật sư Chu Văn C, Đoàn Luật sư tỉnh H. Có mặt.
- Người bị kiện:
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (viết tắt UBND) huyện K.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu H1 - Phó Chủ tịch UBND
huyện K. Có mặt.
2. Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch UBND huyện K.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hữu H1 - Phó Chủ tịch UBND
huyện K. Có mặt.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện K.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đức T - Chủ tịch UBND thị
trấn P. Có mặt.
2. Ông Vũ Đình H2, sinh năm 1968; Địa chỉ: Số A N, thị trấn P, huyện K,
tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H2: Bà Hoàng Thị Mai H, sinh năm
1973; địa chỉ: Số nhà A, đường T, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án,
người khởi kiện bà Phạm Thị L; người đại diện theo ủy quyền bà Hoàng Thị Mai
H và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ông Chu Thanh N trình bày:
Thực hiện dự án thành phần nâng cao hiệu quả khai thác Quốc lộ E giai
đoạn 2 năm 2003, UBND huyện K đã thu hồi của gia đình ông Vũ Đình H2, bà
Phạm Thị L diện tích đất là 47m
2
(trong có 4,1m
2
đất ở, 42,9m
2
là đất vườn) thuộc
thửa số 4, tờ bản đồ số 14 tại thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Ngay trong
năm 2003, gia đình bà L đã nhận đủ tiền bồi thường về đất và các tài sản gắn liền
với đất. Diện tích còn lại không bị thu hồi là 75,9m
2
đất ở. Thời điểm đó địa
phương có thông báo đối với các hộ có diện tích đất còn lại sau thu hồi dưới 100m
2
thì được cấp đất tái định cư nên ông H2 (là chồng bà L) đã có đơn đề nghị và có
tên trong danh sách đề nghị cấp đất tái định cư do UBND thị trấn P lập. Năm
25/5/2004, ông H2, bà L đã nộp số tiền 30 triệu đồng và được cấp 01 suất đất tái
định cư diện tích 90m
2
thuộc thửa số 107, tờ bản đồ số 6, tại khu vực Đ, thị trấn
P, huyện K theo Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 08/12/2003 của UBND
huyện K. Ngày 20/6/2004, gia đình bà L được nhận bàn giao diện tích đất trên.
Hiện trạng khi nhận bàn giao là đất ao nên gia đình đã tiến hành mua cát để san
lấp mặt bằng. Do điều kiện kinh tế khó khăn nên vợ chồng bà L chưa xây dựng
công trình gì trên đất.
Trên phần diện tích đất còn lại 75,9m
2
, ông H2, bà L đã xây dựng lại 01
nhà cấp 4, 01 lò bánh mì để tiếp tục ở và làm ăn kinh tế. Ngày 21/12/2007, UBND
huyện K đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) đối với
diện tích 75,9m
2
đất ở đô thị, thuộc thửa số 4, tờ bản đồ số 14 tại thôn A, thị trấn
P, huyện K mang tên ông H2, bà L; tài sản gắn liền với đất có nhà ở cấp 4, diện
tích 38m
2
.
Năm 2009, UBND huyện K đã thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng khu
dân cư Đ, thị trấn P, trong đó có thu hồi diện tích đất tái định cư 90m
2
đã giao cho
3
vợ chồng bà L. Tuy nhiên ông H2, bà L không nhận được thông báo, quyết định
thu hồi đất của UBND huyện K và không được bồi thường. Ông H2, bà L đã nhiều
lần làm đơn khiếu nại, đề nghị về việc giao đất tái định cư nhưng đến nay chưa
được giải quyết dứt điểm. Ngày 28/9/2023, UBND huyện K ban hành Công văn
số 2733/UBND-TNMT về việc trả lời đơn của ông H2 với nội dung xác định gia
đình ông H2, bà L không đủ điều kiện được giao đất tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất vào năm 2003 với lý do “diện tích đất còn lại sau khi dự án chiếm dụng
75,9m
2
, chiều sâu thửa đất vẫn đảm bảo để xây dựng nhà ở”. Bà L không nhất trí
với Công văn số 2733 của UBND huyện K vì trong 75,9m
2
đất ở được cấp
GCNQSDĐ thì có 37m
2
đất nằm trong hành lang giao thông không được xây dựng
công trình. Diện tích được xây dựng chỉ có 38,9m
2
(trong đó có 16,8m
2
đất có
chiều rộng 2m, chiều dài 8,4m, diện tích này chỉ sử dụng làm được ngõ đi vào
không xây được công trình nhà ở). Như vậy diện tích đất có thể xây dựng được
chỉ còn 22,1m
2
nên không đảm bảo việc sinh hoạt của gia đình bà L. Sau khi được
giao đất tái định cư, bà L không nhận được thông báo nào của cơ quan có thẩm
quyền về việc gia đình bà không đủ điều kiện để cấp đất tái định cư. UBND huyện
K cũng không có quyết định thu hồi lại diện tích đất đã giao. Do quyền lợi bị xâm
phạm nên ngày 20/11/2023 bà L nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Hải
Dương đề nghị Tòa án: Hủy Công văn số 2733/UBND-TNMT ngày 28/9/2023
của UBND huyện K về việc trả lời đơn đề nghị của ông Vũ Đình H2 về hỗ trợ tái
định cư; buộc UBND huyện K phải thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật về việc thu hồi đất và bồi thường quyền sử dụng đất khi bị thu hồi đối
với thửa số 107, tờ bản đồ số 6, diện tích 90m
2
tại khu vực Đ, thị trấn P, huyện K,
tỉnh Hải Dương. Ngày 26/7/2024, bà L có đơn khởi kiện bổ sung với nội dung
trong trường hợp gia đình bà L không đủ điều kiện để cấp đất tái định cư theo
Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 08/12/2003 của UBND huyện K, đề nghị
TAND tỉnh Hải Dương xem xét hủy Quyết định này đồng thời buộc UBND huyện
K phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bà giá trị quyền sử dụng
thửa đất số 107, tờ bản đồ số 06, diện tích 90m
2
, địa chỉ: khu V, thị trấn P, huyện
K, tỉnh Hải Dương (theo Biên bản bàn giao đất ngày 20/06/2004), cụ thể số tiền
bồi thường là 2.000.000.000 đồng.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện là ông Nguyễn Hữu H1 -
Phó Chủ tịch UBND huyện K trình bày:
1. Đối với yêu cầu hủy Công văn số 2733/UBND-TNMT ngày 28/9/2023
của UBND huyện K về việc trả lời đơn đề nghị của ông Vũ Đình H2:
Năm 2003, UBND huyện K đã thu hồi của gia đình ông Vũ Đình H2, bà
Phạm Thị L diện tích đất là 47m
2
, trong có 4,1m
2
đất ở, còn lại 42,9m
2
là đất vườn
4
để thực hiện dự án xây dựng công trình nâng cao hiệu quả khai thác Quốc lộ E
giai đoạn 2. Gia đình bà L đã nhận xong tiền bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích
đất, cây cối hoa màu và tài sản trên phần đất bị thu hồi, tổng cộng là 20.313.217
đồng vào năm 2004 và không có ý kiến gì về việc bồi thường này. Diện tích đất
hợp pháp còn lại của gia đình là 75,9m
2
đất ở. Ngày 21/12/2007, UBND huyện K
cấp GCNQSDĐ đối với thửa số 04, tờ bản đồ số 14, diện tích 75,9m
2
mang tên
ông Vũ Đình H2, bà Phạm Thị L. Theo hồ sơ cấp GCNQSDĐ thì trong 75,9m
2
được cấp GCNQSDĐ có 37m
2
đất nằm trong hành lang bảo vệ đường gom Quốc
lộ E. Còn lại 38,9m
2
không phạm vào hành lang an toàn giao thông. Sau khi làm
đường gom thì quy định về hành lang đường mới hình thành.
Về hồ sơ giao đất tái định cư: Ngày 05/11/2003, UBND thị trấn P lập Danh
sách có 22 hộ đăng ký xin giao đất để làm nhà ở, trong đó có hộ ông H2. Ngày
25/3/2004, Hội đồng đăng ký đất đai thị trấn P tổ chức xét duyệt cho 13 hộ và đề
nghị UBND huyện K ban hành Quyết định giao đất cho các hộ, nhưng không có
hộ ông H2. Ngày 20/5/2004, UBND thị trấn P lập danh sách các hộ đề nghị được
giao đất ra khu tái định cư gồm 16 hộ, trong đó có hộ ông H2. Ngày 25/5/2004,
hộ ông H2 nộp 30 triệu đồng cho UBND thị trấn P thể hiện tại phiếu thu số 81, lý
do nộp: tiền cấp quyền sử dụng đất tái định cư. Số tiền này UBND thị trấn P đã
nộp kho bạc. Ngày 16/6/2004, Ban giải phóng mặt bằng Quốc lộ 5 huyện K ban
hành Thông báo số 25 về việc giao đất cho 13 hộ gia đình sử dụng đất hợp pháp
bị thu hồi, diện tích không đủ điều kiện để xây dựng nhà ở (trong đó có hộ ông
Vũ Đình H2). Ngày 20/6/2004, phòng Địa chính huyện và UBND thị trấn P giao
đất cho các hộ, trong đó có giao đất tái định cư cho hộ ông Vũ Đình H2, diện tích
90,0m2, thuộc thửa đất số 107, tờ bản đồ số 06, tỷ lệ 1/500.
Ngày 30/7/2005, Tổ công tác Huyện ủy K1 đã thực hiện việc xác minh theo
đơn kiến nghị của Đảng viên Chi bộ C, thôn A, thị trấn P và có Báo cáo kết quả
xác minh như sau:
Tại mục kết luận: “Việc UBND Thị trấn P, Phòng Địa chính đã giao đất
tái định cư cho 13 hộ (Hội đồng quản lý đất đai của thị trấn xét đề nghị được 11
hộ), còn 02 hộ là ông Vũ Đình H2 và Nguyễn Văn K chưa được Hội đồng quản lý
đất đai thị trấn xem xét như các trường hợp khác là không đảm bảo quy định”;
Tại mục kiến nghị: “Đối với hộ ông Vũ Đình H2 và hộ ông Nguyễn Văn K
được UBND Thị trấn P và Phòng địa chính giao đất chưa qua Hội đồng quản lý
đất đai Thị trấn P đề nghị nay chuyển về cho Hội đồng Thị trấn P xét theo quy
định, nếu có đủ điều kiện giao đất tái định cư thì làm thủ tục đề nghị UBND huyện
giữ nguyên quyết định”.
5
Thực hiện kiến nghị của Tổ công tác Huyện ủy K1, ngày 16/01/2006, Hội
đồng đăng ký đất đai thị trấn P tiếp tục tổ chức xét duyệt cho 8 hộ, trong đó có hộ
ông H2. Tại Biên bản xét duyệt thể hiện: Trường hợp hộ ông Vũ Đình H2 (nguồn
gốc: do chị dâu tách cho năm 1995). Tổng diện tích thửa đất: 122,9m
2
; Diện tích
đường chiếm dụng: 47,0m
2
; Diện tích hợp pháp còn lại: 75,9m
2
, có kích thước
các cạnh: phía Bắc giáp đường trục phố 5,0m, phía Nam giáp đường xóm và hộ
giáp ranh (cạnh giáp đường xóm 2,0m, cạnh hộ giáp ranh 3,2m), phía Tây 2 cạnh
(cạnh dài 13,5m và cạnh dài 8,4m), phía Đông dài 20,3m. Căn cứ vào diện tích
đất ở còn lại của gia đình và chiều sâu của thửa đất, Hội đồng đăng ký đất đai thị
trấn P kiến nghị UBND huyện ra Quyết định thu hồi diện tích đất tái định cư của
hộ ông Vũ Đình H2.
Như vậy Kết quả xét duyệt của Hội đồng đăng ký đất đai thị trấn P ngày
16/01/2006 xác định hộ ông H2, bà L không đủ điều kiện được giao đất tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất để xây dựng đường gom tại thị trấn P là đúng quy
định. Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L đề nghị hủy
Công văn số 2733/UBND-TNMT ngày 28/9/2023 của UBND huyện K về việc trả
lời đơn đề nghị của ông Vũ Đình H2.
2. Đối với yêu cầu buộc UBND huyện K, tỉnh Hải Dương phải thực hiện
trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật về việc thu hồi đất và bồi thường quyền
sử dụng đất khi bị thu hồi đối với thửa đất số 107 tờ bản đồ số 06, diện tích 90,0m
2
;
địa chỉ: khu V, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương: Năm 2009, UBND huyện K
ban hành quyết định thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng khu dân cư Đ, có
danh sách các hộ có đất bị thu hồi kèm theo. Trong danh sách không có tên của
gia đình ông H2, bà L. Khi thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng khu dân cư
Đ, UBND thị trấn P đã tiến hành xét duyệt nguồn gốc đất, trong đó xác định thửa
đất ông H2, bà L đề nghị được bồi thường thuộc thửa số 61 và 62, tờ bản đồ số 6
(theo bản trích lục đo vẽ và chỉnh lý bổ sung bản đồ địa chính năm 2003), loại đất
ao nông nghiệp và đất thổ cư không hợp pháp, thuộc quản lý của UBND thị trấn
P, không phải đất của gia đình bà L, ông H2. Do vậy UBND huyện K không nhất
trí yêu cầu khởi kiện này của gia đình bà L.
3. Đối với yêu cầu đề nghị hủy Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày
08/12/2003 của UBND huyện K: Sau ngày Hội đồng đăng ký đất đai thị trấn P
xét duyệt về việc cấp đất tái định cư cho hộ ông H2 vào ngày 16/01/2006 đến nay,
UBND huyện K chưa ban hành Quyết định về việc hủy bỏ, sửa đổi Quyết định số
627 về việc giao đất cho nhân dân làm nhà ở, trong đó có giao đất cho hộ ông H2.
Do gia đình ông H2, bà L không đủ điều kiện để được cấp đất tái định cư nên đề
nghị hủy Quyết định số 627/QĐ-UBND của bà L là có cơ sở. Đối với yêu cầu bồi
6
thường thiệt hại, UBND huyện K đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là UBND thị trấn P nhất trí với ý
kiến trình bày của đại diện UBND huyện K.
Tại phiên tòa:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện là ông Chu
Thanh N trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX) chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là hủy một phần Quyết định số 627/QĐ-
UBND ngày 08/12/2003 của UBND huyện K và yêu cầu UBND huyện K phải
bồi thường thiệt hại cho gia đình bà L với số tiền là 01 tỷ đồng.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện là bà Hoàng Thị Mai H
nhất trí với ý kiến trình bày của ông Chu Thanh N.
Người đại diện của UBND huyện K trình bày: Không nhất trí với các yêu
cầu khởi kiện của bà L là đề nghị hủy Công văn số 2733/UBND-TNMT ngày
28/9/2023 của UBND huyện K và buộc UBND huyện K phải thực hiện trình tự,
thủ tục theo quy định của pháp luật về việc thu hồi đất và bồi thường quyền sử
dụng đất khi bị thu hồi đối với thửa số 107, tờ bản đồ số 6, diện tích 90m
2
tại khu
vực Đ, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương. Do gia đình bà L không đủ điều kiện
để được cấp đất tái định cư nên việc UBND huyện K đã căn cứ Quyết định số
627/QĐ-UBND để giao đất tái định cư cho gia đình bà L là chưa đúng, bà L khởi
kiện đề nghị hủy Quyết định số 627 là có cơ sở. Về yêu cầu bồi thường thiệt hại,
đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người đại diện theo pháp luật của UBND thị trấn P nhất trí với ý kiến trình
bày của đại diện UBND huyện K.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến: Về việc
tuân theo pháp luật và chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân
dân và các đương sự cơ bản chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng hành
chính. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 30, khoản 4 Điều 32, khoản 1
Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116; điểm a, c khoản 2 Điều 193, Điều 348 Luật
Tố tụng hành chính; Điều 62, Điều 66 Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật đất
đai và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về việc bồi
thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án:
1. Bác một phần yêu cầu khởi kiện của bà L về nội dung đề nghị:
7
- Hủy Công văn số 2733/UBND-TNMT ngày 28/09/2023 của Chủ tịch
UBND huyện K về việc “Trả lời đơn đề nghị của ông Vũ Đình H2 về hỗ trợ tái
định cư”.
- Buộc UBND huyện K, tỉnh Hải Dương phải thực hiện trình tự, thủ tục
theo quy định pháp luật về việc thu hồi đất và bồi thường quyền sử dụng đất khi
bị thu hồi đối với thửa đất số 107 tờ bản đồ số 06, diện tích 90,0m2; địa chỉ: khu
V, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương.
2. Chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của bà L về nội dung đề nghị:
- Hủy một phần Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 08/12/2003 của
UBND huyện K liên quan đến việc giao đất tái định cư cho gia đình ông H2, bà
L.
- Chấp nhận sự tự nguyện của người khởi kiện, buộc UBND huyện K có
trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho gia đình bà L số tiền 1 tỷ đồng.
3. Về án phí: Bà L không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. UBND
huyện K phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại
phiên tòa; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn
diện các chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, các đương sự và các quy
định pháp luật hiện hành, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về đối tượng khởi kiện:
[1.1.1] Bà Phạm Thị L khởi kiện yêu cầu hủy Công văn số 2733/UBND-
TNMT ngày 28/09/2023 của Chủ tịch UBND huyện K; buộc UBND huyện K phải
thực hiện trình tự thủ tục thu hồi đất và bồi thường đối với diện tích đất tái định
cư đã thu hồi của gia đình bà; trường hợp gia đình bà không đủ điều kiện tái định
cư thì đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 08/12/2003 của
UBND huyện K về việc giao đất cho nhân dân làm nhà ở. Các quyết định hành
chính nêu trên đã xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của bà L nên là đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại các khoản 1, 2 Điều 3 Luật
Tố tụng hành chính. Do đó căn cứ khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32 của Luật
Tố tụng hành chính thì Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng
thẩm quyền.
[1.1.2] Đối với yêu cầu buộc UBND huyện K phải bồi thường thiệt hại cho
gia đình bà L với số tiền là 2.000.000.000đồng; tại phiên tòa, người đại diện theo
ủy quyền của người khởi kiện đề nghị UBND huyện K bồi thường thiệt hại số tiền
8
1.000.000.000 đồng. Theo quy định tại Điều 7 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án
nhân dân tỉnh Hải Dương sẽ xem xét, giải quyết trong cùng vụ án.
[1.2] Về việc xác định người bị kiện: Tại Đơn khởi kiện, bà L xác định
người bị kiện là UBND huyện K. Tuy nhiên, căn cứ vào yêu cầu khởi kiện thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án, HĐXX xác định người bị kiện gồm Chủ tịch
UBND huyện K và UBND huyện K theo quy định tại khoản 9 Điều 3 của Luật
Tố tụng hành chính.
[1.3] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 20/11/2023, bà L có đơn khởi kiện đến
Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Như vậy, việc khởi kiện của bà L được xác định
là còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của
Luật Tố tụng hành chính.
[1.4] Tại phiên tòa, người khởi kiện là bà Phạm Thị L, người bị kiện là Chủ
tịch UBND huyện K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Vũ Đình
H2 vắng mặt nhưng có mặt người đại diện theo ủy quyền nên căn cứ Điều 158
của Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những
người trên.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà L đề nghị hủy Công văn số 2733/UBND-
TNMT ngày 28/09/2023 của Chủ tịch UBND huyện K về việc trả lời đơn của ông
Vũ Đình H2:
[2.1] Về thẩm quyền: UBND huyện K nhận được Đơn đề nghị của ông Vũ
Đình H2 (là chồng bà Phạm Thị L) với nội dung đề nghị UBND huyện K giải
quyết về việc giao đất tái định cư cho gia đình ông, một số gia đình có diện tích
đất còn lại (sau khi dự án chiếm dụng) lớn hơn của gia đình ông H2 nhưng vẫn
được bố trí tái định cư. Xét các đề nghị của ông H2 bản chất là khiếu nại việc giao
đất tái định cư của UBND huyện K nên cần xác định đây là đơn khiếu nại. Công
văn số 2733 ngày 28/9/2023 do Phó Chủ tịch UBND huyện K ký thay mặt Chủ
tịch UBND huyện K trả lời là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 18 của
Luật Khiếu nại.
[2.2] Về trình tự, thủ tục ban hành: Sau khi nhận được đơn của ông H2,
UBND huyện K không tiến hành thụ lý và thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại
cho ông H2 biết là vi phạm quy định tại Điều 27 của Luật Khiếu nại và Điều 16
mục 1 Chương IV Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính
phủ. Văn bản trả lời đơn được ban hành dưới hình thức công văn trả lời mà không
ra Quyết định giải quyết khiếu nại là vi phạm quy định tại Điều 31 Luật khiếu nại.
[2.3] Về nội dung: Thực hiện dự án thành phần nâng cao hiệu quả khai thác
Quốc lộ E giai đoạn 2 năm 2003, UBND huyện K đã thu hồi của gia đình ông Vũ
Đình H2, bà Phạm Thị L diện tích đất là 47m
2
(trong có 4,1m
2
đất ở và 42,9m
2
là
9
đất vườn) thuộc thửa số 4, tờ bản đồ số 14 (theo hồ sơ đo đạc năm 2001) tại thị
trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương.
Tại khoản 3 Điều 10 Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của
Chính phủ quy định: “Đất bị thu hồi là đất ở thì được đền bù thiệt hại bằng tiền,
nhà ở hoặc đất ở tại khu tái định cư. Diện tích đất ở đền bù cho mỗi hộ gia đình
theo hạn mức đất ở do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quy định, nhưng không vượt quá diện tích của đất bị thu hồi; mức tối đa được đền
bù thiệt hại bằng đất tại nơi ở mới do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quy định cho phù hợp với pháp luật về đất đai. Trong trường hợp đất
ở bị thu hồi lớn hơn diện tích đất ở được đền bù thì người bị thu hồi đất ở có thể
được đền bù thêm một phần diện tích đất ở tuỳ theo quỹ đất của địa phương, phần
còn lại thì được đền bù bằng tiền. Trường hợp đất ở bị thu hồi nhỏ hơn diện tích
đất được đền bù, nguời được đền bù phải nộp tiền sử dụng đất đối với phần diện
tích đất chênh lệch đó”.
Tại khoản 1 Điều 12 Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của
Chính phủ quy định: “Trường hợp diện tích đất còn lại sau thu hồi nhỏ hơn diện
tích theo mức quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Nghị định này, nếu chủ sử
dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được giữ lại, nhưng phải sử dụng theo
quy hoạch; trường hợp phần diện tích đất ở còn lại không đủ để xây dựng nhà ở,
thì khuyến khích họ chuyển nhượng cho hộ lân cận hoặc yêu cầu Nhà nước thu
hồi phần diện tích này và được đền bù như phần đất bị thu hồi”.
Theo phương án bồi thường về đất số 16 ngày 08/12/2003; phương án bồi
thường di chuyển tài sản, cây cối hoa màu ngày 18/6/2003 và ngày 15/12/2003
của Ban G thì tổng số tiền gia đình bà L được bồi thường, hỗ trợ về đất và các tài
sản gắn liền với đất là 20.313.217 đồng. Gia đình bà L đã nhận đủ tiền bồi thường,
đã bàn giao đất để thực hiện dự án và không có ý kiến gì về việc bồi thường này.
Sau thu hồi, diện tích đất hợp pháp còn lại của gia đình bà L là 75,9m
2
đất ở, có
kích thước các cạnh: phía Bắc giáp đường trục phố dài 5,0m, phía Nam giáp
đường xóm và hộ giáp ranh (cạnh giáp đường xóm dài 2,0m, cạnh giáp hộ giáp
ranh dài 3,2m), phía Tây 2 cạnh (cạnh dài 13,5m và cạnh dài 8,4m), phía Đông
dài 20,3m. Ngày 21/12/2007, UBND huyện K đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa số 4, tờ bản đồ số 14, diện tích 75,9m
2
đất ở đô thị tại thôn
A, thị trấn P, huyện K mang tên ông Vũ Đình H2 và bà Phạm Thị L. Trên phần
đất này gia đình bà L đã xây lại nhà cấp 4, diện tích 38m
2
từ trước năm 2007, tiếp
tục sử dụng để ở và làm ăn kinh tế. Do vậy, hộ ông H2, bà L không đủ điều kiện
được giao đất tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng
đường gom thị trấn P.
10
[2.4] Như vậy, Công văn số 2733 của Chủ tịch UBND huyện K, tuy có sai
sót về trình tự, thủ tục nhưng đúng về thẩm quyền ban hành và nội dung giải quyết
đúng quy định của pháp luật nên không cần thiết phải hủy bỏ Công văn này. Do
vậy, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, đề nghị huỷ Công văn số
2733/UBND-TNMT ngày 28/09/2023 của Chủ tịch UBND huyện K.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà L về việc buộc UBND huyện K thực hiện
trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật về thu hồi đất và bồi thường QSDĐ
khi bị thu hồi thửa đất thửa số 107, tờ bản đồ số 06, diện tích 90m2 (theo Biên
bản bàn giao đất ngày 20/06/2004). Trong trường hợp gia đình bà L không đủ
điều kiện để cấp đất tái định cư theo Quyết định số: 627/QĐ-UBND ngày
08/12/2003 của UBND huyện K thì đề nghị TAND tỉnh Hải Dương hủy Quyết định
627/QĐ-UBND, yêu cầu bồi thường thiệt hại cho gia đình bà L số tiền 01 tỷ đồng:
[3.1] Xét Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 08/12/2003 của UBND
huyện K về việc giao đất cho nhân dân làm nhà ở (gọi tắt là Quyết định 627/QĐ-
UBND):
[3.1.1] Về thẩm quyền, trình tự ban hành: Ngày 05/11/2003, UBND thị trấn
P lập danh sách 22 hộ đăng ký xin giao đất để làm nhà ở; căn cứ vào Trích lục và
đo vẽ bổ sung bản đồ địa chính khu đất; Biên bản thẩm định hồ sơ đất đai ngày
08/12/2003; Tờ trình số 17/TT-UB ngày 08/12/2003 của UBND thị trấn P và Tờ
trình số 50/TT-ĐC ngày 08/12/2003 của Phòng Địa chính huyện K, ngày
08/12/2003 UBND huyện K ban hành Quyết định số 627/QĐ-UB về việc giao đất
cho nhân dân làm nhà ở là đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định
tại khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001
và Nghị định số 88/CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ về quản lý và
sử dụng đất đô thị.
[3.1.2] Về nội dung Quyết định: Theo hồ sơ giao đất tái định cư thể hiện
sau khi bị thu hồi đất, ông H2 (chồng bà L) đã có đề nghị cấp đất tái định cư. Căn
cứ Quyết định số 627/QĐ-UBND của UBND huyện K về việc giao đất cho nhân
dân làm nhà ở, ngày 25/3/2004 Hội đồng quản lý đất đai thị trấn P đã tổ chức xét
duyệt những hộ đủ tiêu chuẩn để ra khu tái định cư mới. Tại buổi làm việc này,
Hội đồng đã nhất trí đề nghị UBND huyện, phòng Địa chính huyện K giao đất
cho 13 hộ nhưng không có tên của hộ ông Vũ Đình H2 được xét cấp đất tái định
cư. Tại Công văn số 60/CV-UB ngày 30/3/2004 của UBND huyện K thể hiện chỉ
có 11 hộ phải tháo dỡ di chuyển công trình nhà ở ra ngoài vị trí cũ, chuyển đến
nơi tái định cư, không có hộ ông Vũ Đình H2.
Tuy nhiên ngày 20/5/2004, Hội đồng giải phóng mặt bằng Quốc lộ E,
Phòng Địa chính, UBND thị trấn P đã ký vào danh sách các hộ đề nghị được giao
11
đất ra khu tái định cư, tổng số 16 hộ, trong đó có hộ ông H2. Ngày 25/5/2004, hộ
ông H2 nộp 30 triệu đồng cho UBND thị trấn P, lý do nộp: tiền cấp quyền sử dụng
đất tái định cư. Số tiền này UBND thị trấn P đã nộp kho bạc (thể hiện tại trang 13,
chứng từ số 81, ngày 25/5/2024, nhật ký sổ cái năm 2004, quyển số 1 của UBND
thị trấn P). Ngày 16/6/2004, Ban giải phóng mặt bằng Quốc lộ 5 huyện K ban
hành Thông báo số 25 về việc giao đất cho 13 hộ gia đình sử dụng đất hợp pháp
bị thu hồi, diện tích không đủ điều kiện để xây dựng nhà ở (trong đó có hộ ông
Vũ Đình H2). Ngày 20/6/2004 Phòng Địa chính huyện và UBND thị trấn P lập
Biên bản bàn giao đất cho hộ ông Vũ Đình H2, diện tích 90,0m
2
, thuộc thửa đất
số 107, tờ bản đồ số 06, tỷ lệ 1/500 tại khu Đ, thị trấn P.
Xét thấy việc UBND thị trấn P, Phòng Địa chính huyện K đã giao đất tái
định cư cho 13 hộ trong đó có 11 hộ được thông qua Hội đồng đăng ký đất đai thị
trấn P xét duyệt và đề nghị giao đất, còn 02 hộ trong đó có hộ ông Vũ Đình H2
chưa được thông qua Hội đồng thị trấn P xét duyệt là không đảm bảo quy định.
Sau khi nhận được đơn kiến nghị của Đảng viên Chi bộ 3 thôn A, ngày 30/7/2005
Tổ công tác huyện ủy K1 đã có Báo các kết quả xác minh và đã kiến nghị: “Đối
với hộ ông Vũ Đình H2 và hộ ông Nguyễn Văn K được UBND Thị trấn P và Phòng
địa chính giao đất chưa qua Hội đồng quản lý đất đai Thị trấn P đề nghị nay
chuyển về cho Hội đồng Thị trấn P xét theo quy định, nếu có đủ điều kiện giao
đất tái định cư thì làm thủ tục đề nghị UBND huyện giữ nguyên quyết định”.
Thực hiện kiến nghị của tổ công tác Huyện ủy K1, ngày 16/01/2006 Hội
đồng đăng ký đất đai thị trấn P đã tổ chức xét duyệt cấp đất tái định cư cho 8 hộ
trong đó có xét duyệt đối với hộ ông Vũ Đình H2. Như đã phân tích ở mục [2] thì
diện tích đất còn lại của gia đình ông H2 là 75,9m
2
vẫn đảm bảo để xây dựng nhà
ở, sau thu hồi hộ ông H2 tiếp tục sử dụng đất và đã xây nhà để ở mà không phải
di chuyển ra chỗ ở mới do vậy kết quả xét duyệt của Hội đồng đăng ký đất đai thị
trấn P xác định hộ ông H2 không được cấp đất tái định cư là có căn cứ.
[3.1.3] Như vậy, mặc dù hộ ông H2 không đủ điều kiện được cấp đất tái
định cư nhưng UBND huyện K vẫn căn cứ Quyết định số 627/QĐ-UBND để thu
tiền sử dụng đất và giao đất tái định cư cho hộ ông H2 tại thửa số 107, tờ bản đồ
số 6, diện tích 90m
2
tại khu Đ vào ngày 20/4/2006 (có Biên bản bàn giao đất) là
trái quy định của pháp luật. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
bà L đề nghị hủy một phần Quyết định số 627 của UBND huyện K.
[3.2] Ngày 03/6/2009, UBND huyện K ban hành Quyết định số 343/QĐ-
UBND về việc thu hồi đất để xây dựng Dự án khu dân cư Đ tại thị trấn P. Quá
trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và tại phiên tòa, UBND huyện K và UBND
thị trấn P đều xác định vị trí thửa đất gia đình ông H2 được bàn giao ngày
12
20/6/2004 nằm trong thửa số 61 và 62, tờ bản đồ số 6 (theo trích lục đo vẽ, chỉnh
lý và bổ sung bản đồ địa chính năm 2003), loại đất ao nông nghiệp và đất thổ cư
không hợp pháp, có nguồn gốc là đất công ích do UBND thị trấn P quản lý, không
phải đất của gia đình ông H2, bà L. Kết quả xét duyệt của Hội đồng đăng ký đất
đai thị trấn P năm 2006 cũng xác định hộ ông H2 không đủ điều kiện được cấp
đất tái định cư tại khu vực Đ, thị trấn P. Do vậy việc bà L khởi kiện buộc UBND
huyện K thực hiện trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật về thu hồi đất và
bồi thường quyền sử dụng đất khi bị thu hồi đối với thửa số 107, tờ bản đồ số 06,
diện tích 90m
2
(theo Biên bản bàn giao đất ngày 20/06/2004) là không có căn cứ
chấp nhận.
[3.3] Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà L thấy rằng: Tại khoản 11
Điều 17 của Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định về phạm vi
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính thì việc
UBND huyện K ban hành Quyết định số 627, thu tiền sử dụng đất và giao đất tái
định cư cho gia đình ông H2 là trái quy định của pháp luật, xác định lỗi thuộc về
UBND huyện K nên UBND huyện K phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
gia đình bà L. Cụ thể, gia đình bà L đã phải nộp số tiền 30 triệu đồng để được giao
đất tái định cư tại khu vực Đ, đã được bàn giao đất nhưng thực tế không được
quản lý, sử dụng diện tích đất này và không được bồi thường khi nhà nước tiến
hành thu hồi đất như các hộ khác có đất bị thu hồi, đây là thiệt hại thực tế đã phát
sinh. Căn cứ theo Nghị quyết số 12/2024/NQ-HĐND ngày 12/8/2024 của Hội
đồng nhân dân tỉnh H sửa đổi, bổ sung Bảng giá đất giai đoạn năm 2020-2024
trên địa bàn tỉnh Hải Dương thì thửa đất đã giao cho gia đình bà L là đất ở tại đô
thị thuộc vị trí A, đường T, thị trấn P có giá tại thời điểm hiện nay là 20.000.000
đồng/1m
2
. Căn cứ Điều 22, Điều 23 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước, UBND huyện K phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bà L
với mức bồi thường thiệt hại bằng giá trị quyền sử dụng đất tại vị trí gia đình bà
L được cấp đất tái định cư theo giá đất tại thời điểm hiện nay. Tuy nhiên, tại phiên
tòa người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện chỉ yêu cầu UBND huyện
K bồi thường cho gia đình bà L số tiền là 01 tỷ đồng. Xét thấy đề nghị của người
khởi kiện là tự nguyện nên HĐXX chấp nhận sự tự nguyện này.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà L được chấp nhận một phần nên
bà L không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Chủ tịch UBND huyện K không
phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. UBND huyện K phải chịu án phí hành chính
sơ thẩm và không phải chịu án phí về yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định
tại Nghị quyết số 326 của UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án và khoản
1 Điều 76 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
13
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, điểm c khoản
2 Điều 193, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; Luật Đất đai năm 1993; Luật
đất đai năm 1993 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001;
Nghị định số 88/CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 của Chính phủ về quản lý và sử
dụng đất đô thị; Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ;
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; Luật Khiếu nại; Luật phí và lệ phí
năm 2015; Nghị quyết số 326 của UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
1. Bác các yêu cầu khởi kiện của bà L về nội dung sau:
- Hủy Công văn số 2733/UBND-TNMT ngày 28/09/2023 của Chủ tịch
UBND huyện K về việc “Trả lời đơn đề nghị của ông Vũ Đình H2 về hỗ trợ tái
định cư”.
- Buộc UBND huyện K, tỉnh Hải Dương phải thực hiện trình tự, thủ tục
theo quy định pháp luật về việc thu hồi đất và bồi thường quyền sử dụng đất khi
bị thu hồi đối với thửa đất số 107 tờ bản đồ số 06, diện tích 90,0m2; địa chỉ: khu
V, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị L về nội dung
sau:
- Hủy một phần Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 08/12/2003 của
UBND huyện K liên quan đến việc giao đất cho gia đình bà Phạm Thị L.
- Chấp nhận sự tự nguyện của người đại diện theo ủy quyền của người khởi
kiện yêu cầu UBND huyện K phải bồi thường cho gia đình bà L số tiền là
1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng chẵn).
- Buộc UBND huyện K phải bồi thường cho gia đình bà L số tiền
1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng chẵn).
3. Về án phí:
3.1. Bà Phạm Thị L không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả
bà L số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai
thu tiền số 0000516 ngày 15/3/2024 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.
3.2. Chủ tịch UBND huyện K không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
3.3. UBND huyện K phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp hợp pháp.
Nơi nhận:
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
14
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Cục THADS tỉnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Chất
Tải về
Bản án số 12/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 12/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm