Bản án số 1060/2024/HC-PT ngày 20/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1060/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1060/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1060/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1060/2024/HC-PT ngày 20/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1060/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Bùi Thế T. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 28/2024/HC-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1060/2024/HC-PT
Ngày 20 tháng 9 năm 2024.
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Mai Xuân Thành
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Tửu
Ông Lê Thành Long
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Công Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý
số 607/2024/TLPT-HC ngày 26 tháng 7 năm 204 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 28/2024/HC-ST ngày 16 tháng 4 năm
2024 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2529/2024/QĐPT-HC
ngày 09 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Bùi Thế T, sinh năm 1985; Địa chỉ: 1 đường C,
Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền (theo Giấy ủy quyền ngày 28/6/2023): Ông
Lê Văn L, sinh năm 1960; Địa chỉ: 1 P, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Người bị kiện:
2.1. Ủy ban nhân dân thành phố V (có đơn xin xét xử vắng mặt);
2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố V (có đơn xin xét xử vắng mặt);
Địa chỉ: Số H L, Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (theo Văn bản cử người số
9814/UBND-VP ngày 07/12/2023): Bà Hoàng Thị Thanh N – Chuyên viên Phòng
Tài nguyên và Môi trường thành phố V (có mặt).
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là ông Bùi Thế T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
[1] Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người khởi kiện và người đại diện
theo ủy quyền của người khởi kiện thống nhất trình bày:
Tại đơn khởi kiện ngày 28/6/2023 (BL 32-33), ông Bùi Thế T khởi kiện Ủy
ban nhân dân thành phố V và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố V cụ thể như
sau:
- Hủy một phần một Quyết định số 10612/QĐ-UBND ngày 24/08/2021 của
Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư cho ông (bà) Bùi Thế T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố V
do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Đường C (đoạn từ đường C đến
đường C), thành phố V.
Cụ thể: Hủy Mục A và mục G của Điều 1 phần “Bồi thường giá trị quyền
sử dụng đất”.
- Huỷ một phần Quyết định số 12025/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố V Về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Thế
T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố V.
Cụ thể: Huỷ phần nội dung Bác 02 nội dung khiếu nại yêu cầu:
+ Xác định lại vị trí đất bị thu hồi là vị trí 4 đường C.
+ Bồi thường toàn bộ diện tích 172m
2
đất bị thu hồi theo giá đất ở.
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V xác định toàn bộ phần diện tích thu
hồi và bồi thường 172m
2
theo vị trí 04 đường C - phường A - thành phố V.
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường toàn bộ phần diện tích thu
hồi và bồi thường theo giá đất ở.
Tại “Đơn đề nghị về việc rút một 1 phần nội dung khởi kiện” ngày
01/3/2024 của ông Bùi Thế T (BL 111-112) và tại phiên tòa, người đại diện theo
ủy quyền của người khởi kiện xác nhận rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc
yêu cầu hủy quyết định 12025/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố V về việc bác nội dung khiếu nại: xác định lại vị trí đất thu
hồi là vị trí 4 đường C và yêu cầu buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường
172m
2
đất thu hồi theo vị trí 4, đường L, đường C.
Tại phiên tòa hôm nay, người đại diện theo ủy quyền của ông T xác nhận
yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giải quyết:
3
- Hủy một phần một Quyết định số 10612/QĐ-UBND ngày 24/08/2021 của
Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư cho ông (bà) Bùi Thế T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố V
do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Đường C (đoạn từ đường C đến
đường C), thành phố V về việc xác định loại đất bồi thường là đất trồng cây lâu
năm.
Cụ thể: Hủy Mục A và mục G của Điều 1 phần “Bồi thường giá trị quyền
sử dụng đất”.
- Huỷ một phần Quyết định số 12025/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố V Về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Thế
T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố V.
Cụ thể: Huỷ phần Bác nội dung khiếu nại yêu cầu bồi thường toàn bộ diện
tích 172m
2
đất bị thu hồi theo giá đất ở.
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường toàn bộ phần diện tích thu
hồi và bồi thường theo giá đất ở.
1.1. Nguồn gốc và quá trình sử dụng đất:
Phần nhà và đất người khởi kiện đang sử dụng được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AĐ 605897 với diện tích 346,5m2 (gồm 230m
2
đất ở và
116,5m
2
đất trồng cây lâu năm), thuộc thửa 06, tờ bản đồ số 09, phường A, thành
phố V.
Căn cứ Giấy chứng nhận đã kê khai đăng ký nhà số 79 do Ủy ban nhân dân
phường P cấp ngày 07/01/1978 cho bà Cao Thị T1 (vợ ông Bùi Văn T2).
Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 290/CNSHN do Sở Xây
dựng tỉnh B cấp ngày 14/4/1994 cho ông (bà) Bùi Văn T2 – Cao Thị T1.
Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 552994 do Ủy ban nhân
dân thành phố V cấp ngày 20/9/2005 cho ông (bà) Bùi Văn T2 – Cao Thị T1, đối
với thửa đất số 77 + 78 + 79, tờ bản đồ số 34, phường A, diện tích 941m
2
, gồm
500m
2
đất ở đô thị và 441m
2
đất trồng cây lâu năm khác.
Sau đó, ông T2 – bà T1 làm thủ tục tách thành 02 Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã được Ủy ban nhân dân thành phố V cấp ngày 28/12/2005, cụ thể:
- Số AD 761440 với diện tích 294m
2
, gồm 270m
2
đất ở đô thị và 24m
2
đất
trồng cây lâu năm, thuộc thửa đất số 10, tờ bản đồ số 09, phường A, thành phố V.
- Số AD 761441 với diện tích 647m
2
, gồm 230m
2
đất ở đô thị và 417m
2
đất
trồng cây lâu năm, thuộc thửa đất số 06, tờ bản đồ số 09, phường A, thành phố V.
Từ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 761441 nêu trên, ông T2 –
bà T1 tiếp tục làm thủ tục tách thành 02 thửa và đã được Ủy ban nhân dân thành
phố V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/6/2006, gồm:
- Số AĐ 605898 với diện tích 300,5m
2
đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa
đất số 17, tờ bản đồ số 09, phường A, thành phố V.
4
- Số AĐ 605897 với diện tích 346,5m
2
(gồm 230m
2
đất ở và 116,5m
2
đất
trồng cây lâu năm), thuộc thửa đất số 06, tờ bản đồ số 09, phường A, thành phố
V. Ông T2 – bà T1 lập hợp đồng tặng cho con trai là ông Bùi Thế Tài n thửa đất
này và đã được Ủy ban nhân dân thành phố V cấp mới thành Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG
592858 ngày 15/8/2011, diện tích 346,5m
2
(230m
2
đất ở và 116,5m
2
đất nông
nghiệp), thuộc thửa đất số 06, tờ bản đồ số 09, phường A, thành phố V.
1.2. Căn cứ bồi thường đất ở:
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số BG 592858 do Ủy ban nhân dân thành phố V cấp ngày
15/08/2011 cho ông Bùi Thế T với diện tích 346,5m
2
, trong đó 230m
2
đất ở đô thị
và 116,5m
2
đất trồng cây lâu năm. Hiện trạng đã làm nhà hết phần diện tích được
cấp giấy.
Căn cứ Điểm b, Khoản 1, Điều 24 – Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định
về “Xác định diện tích đất ở khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
có vườn, ao gắn liền với nhà ở”: “1. Đất vườn, ao quy định tại Điều 103 của Luật
Đất đai áp dụng đối với trường hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở, kể cả
thửa đất trong và ngoài khu dân cư thuộc các trường hợp sau:… b) Thửa đất mà
trên giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của
Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này có thể hiện nhà ở và vườn, ao nhưng
hiện trạng đã chuyển hết sang làm nhà ở”;
Theo hồ sơ sao lục về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phần
diện tích 116,5m
2
này có nguồn gốc là của bố đẻ ông T là ông Bùi Văn T2 đã khai
phá và làm nhà ở từ trước năm 1975 (kê khai đăng ký nhà ngày 07/01/1978) và
ông Bùi Văn T2 có giấy xin xác nhận chủ quyền đất ngày 28/09/1993 được Ủy
ban nhân dân thành phố V xác nhận với diện tích 856m
2
.
Căn cứ Điểm b, Khoản 5, Điều 24 – Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính Phủ, quy định:
“5. Diện tích đất ở của hộ gia đình, cá nhân trong trường hợp thửa đất ở có
vườn, ao đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 được xác
định như sau: b) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận trước đây mà
người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3
Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này nhưng diện tích đất ở
chưa được xác định theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất
đai, Khoản 3 Điều này và chưa được xác định lại theo quy định tại Điểm b và Đ
c Khoản 1 Điều 45 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm
2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, nay người sử dụng đất
có đơn đề nghị xác định lại diện tích đất ở hoặc khi Nhà nước thu hồi đất thì diện
tích đất ở được xác định lại theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của
Luật Đất đai và Khoản 3 Điều này; hộ gia đình, cá nhân không phải nộp tiền sử
5
dụng đất, được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với diện tích đã được xác
định lại là đất ở”.
Căn cứ Khoản 2, Điều 103 Luật đất đai năm 2013, quy định:
“2. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành trước ngày
18 tháng 12 năm 1980 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật này thì diện
tích đất ở được xác định theo giấy tờ đó. Trường hợp trong các loại giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật này chưa
xác định rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được công nhận không phải nộp tiền
sử dụng đất được xác định bằng không quá 05 lần hạn mức giao đất ở quy định
tại khoản 2 Điều 143 và khoản 4 Điều 144 của Luật này”.
Căn cứ Điểm a, Khoản 2, Điều 2 Quyết định 51/2014/QĐ-UBND ngày
29/10/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh B về hạn mức đất ở được công nhận trong
trường hợp thửa đất có vườn ao quy định:
“2. Đối với trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được hình thành trước ngày
18 tháng 12 năm 1980 và người đang sử dụng có một trong các loại giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật Đất đai
năm 2013 và Điều 18 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ mà trong giấy tờ đó chưa xác định rõ diện tích đất ở thì diện
tích công nhận như sau: a) Các phường thuộc thành phố V: diện tích đất ở được
xác định bằng không quá năm (05) lần hạn mức giao đất ở tối đa được quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 1 của Quyết định này.”. Tại Điểm b, Khoản 1, Điều 1
Quyết định số 51/2014/QĐ-UBND, quy định cho hạn mức đất ở các phường thuộc
thành phố V không quá 150m
2
/1 hộ gia đình, cá nhân.
Như vậy toàn bộ phần diện tích ông Bùi Thế T đang sử dụng có nguồn gốc
thừa hưởng lại của bố mẹ đẻ ông T là bà Cao Thị T1 và ông Bùi Văn T2 (Bà Cao
Thị T1 được Ủy ban nhân dân phường P cấp Giấy chứng nhận đã kê khai đăng ký
nhà số 79 ngày 07/01/1978).
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 552994 do Ủy ban nhân dân
thành phố V cấp ngày 20/9/2005 cho ông (bà) Bùi Văn T2 – Cao Thị T1, đối với
thửa đất số 77 + 78 + 79, tờ bản đồ số 34, phường A, diện tích 941m
2
, gồm 500m
2
đất ở đô thị và 441m
2
đất trồng cây lâu năm khác.
Theo hạn mức đất ở tại thành phố V được xác định cho thửa đất vườn ao
có nhà trước ngày 18/10/1980 tại thành phố V là 5x150m
2
= 750m
2
. Như vậy phần
diện tích của ông Bùi Thế T đã bị thu hồi tại quyết định số 10612/QĐ-UBND
ngày 24/08/2021 là 172m
2
(đã bồi thường 55,5m
2
theo giá đất ở và 116,5m
2
theo
giá đất trồng cây lâu năm) phải được xác định lại phần diện tích 116,5m
2
là đất ở
(500m
2
+ 116,5m
2
= 616,5m
2
, vẫn nằm trong hạn mức 750m
2
đất ở theo quy định).
[2]. Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người bị kiện và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện thống nhất trình bày:
6
2.1. Về nội dung yêu cầu Tòa án hủy Mục A Điều 1 phần “Bồi thường giá
trị quyền sử dụng đất” tại Quyết định số 10612/QĐ-UBND ngày 24/08/2021 của
Ủy ban nhân dân thành phố V, buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường
116,50m
2
/172m
2
đất bị thu hồi theo giá đất ở.
a) Nguồn gốc, quá trình sử dụng đất:
Căn cứ hồ sơ bồi thường, hỗ trợ, giấy tờ pháp lý thì phần diện tích đất của
ông Bùi Thế T đang sử dụng tại địa chỉ số A đường C, Phường A, thành phố V bị
Nhà nước thu hồi thuộc dự án Đường C, có nguồn gốc do ông Bùi Văn T2 khai
phá và sử dụng từ năm 1967 và đã được Ủy ban nhân dân thành phố V cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 552994, ngày 20/9/2005 với diện tích 941m
2
(500m
2
đất ở và 441m
2
đất nông nghiệp) thuộc thửa đất số 77 + 78 + 79, tờ bản
đồ số 34, phường A, thành phố V.
Sau đó, từ thửa đất trên ông Bùi Văn T2 tách riêng 01 thửa và tặng cho con
trai là ông Bùi Thế T, được Ủy ban nhân dân thành phố V cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG
592858 ngày 15/8/2011, diện tích 346,5m
2
(gồm 230m
2
đất ở và 116,5m
2
đất nông
nghiệp), thuộc thửa đất số 06, tờ bản đồ số 09, bản đồ địa chính phường A.
b) Quá trình thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
Ngày 27/4/2020, Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Thông báo số
2425/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Đường C (đoạn từ đường
C đến đường C) thành phố V.
Ngày 22/9/2020, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định 2280/QĐ-
UBND về việc phê duyệt giá đất cụ thể để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
để thực hiện dự án Đường C (đoạn từ đường C đến đường C) thành phố V.
Ngày 05/6/2020, Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với các đơn vị, cá
nhân có liên quan lập Biên bản kiểm đếm, thống kê nhà cửa, tài sản khác gắn liền
với đất thuộc dự án Đường C (đoạn từ đường C đến đường C) thành phố V (khu
vực thuộc Phường A) đối với ông Bùi Thế T, ghi nhận: Thu hồi 172m
2
đất, thửa
58 tờ bản đồ thu hồi đất; nhà và vật kiến trúc.
Ngày 02/11/2020, Ủy ban nhân dân phường A1 lập Biên bản xét duyệt phục
vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Đường C (đoạn từ đường C
đến đường C) thành phố V (khu vực thuộc Phường A), đối với ông Bùi Thế T,
xác định:
“Nguồn gốc đất: Ông Bùi Thế T được Ủy ban nhân dân thành phố V cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số BG 592858 ngày 15/8/2011 với diện tích 346,5m
2
gồm 230m
2
đất ở đô
thị và 116,5m
2
đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa đất số 06, tờ bản đồ số 09.
Thu hồi 172m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG 592858”.
7
Ngày 24/08/2021, Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số
10605/QĐ-UBND về việc thu hồi 172m2 đất của ông Bùi Thế T đang sử dụng tại
Phường A để xây dựng dự án Đường C (Đoạn từ đường C đến đường C), thành
phố V.
Ngày 24/8/2021, Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số
10612/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
cho ông (bà) Bùi Thế T, địa chỉ số A đường C, Phường A, thành phố V do Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện dự án Đường C (Đoạn từ đường C đến đường C),
thành phố V, theo đó: “Diện tích đất thu hồi 172m
2
. Trong đó: bồi thường 55,5m
2
đất ở vị trí E, đường loại 2 - đường C; bồi thường 116,5m
2
đất nông nghiệp vị trí
E, đường loại 2 - đường C, hỗ trợ nhà, vật kiến trúc; các khoản bồi thường, hỗ trợ
khác.”
c) Về yêu cầu bồi thường 116,50m
2
/172m
2
đất bị thu hồi theo giá đất ở:
Theo nguồn gốc sử dụng đất nêu trên thì diện tích đất mà ông Bùi Thế T
đang sử dụng tại địa chỉ số A đường C, Phường A, thành phố V do Nhà nước thu
hồi thuộc công trình Đường C, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG 592858 ngày 15/8/2011
trên cơ sở tách ra từ thửa đất gốc của ông Bùi Văn T2 đã được Ủy ban nhân dân
thành phố V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 552994 ngày
20/9/2005 với diện tích 941m
2
(gồm 500m
2
đất ở và 441m
2
đất nông nghiệp) thuộc
thửa đất số 77 + 78 + 79, tờ bản đồ số 34, phường A, thành phố V.
Tại hồ sơ sao lục về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng số AC 552994,
thì toàn bộ diện tích 941m
2
đất mà ông Bùi Văn T2 đang sử dụng đã được Ủy ban
nhân dân thành phố V công nhận 500m
2
đất ở/941m
2
đất đang sử dụng trong
trường hợp thửa đất có vườn ao, theo đó:
Ủy ban nhân dân thành phố V đã căn cứ Khoản 1, Điều 50, Luật Đất đai
năm 2003; khoản 1, Điều 87, Luật Đất đai năm 2003 và Khoản 1, Điều 2, Quyết
định số 1131/2005/QĐ-UB ngày 11/4/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh B quy định
hạn mức đất ở khi giao đất, hạn mức công nhận đất ở trong trường hợp sử dụng
đất vườn ao, hạn mức đất ở khi bán nhà thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu, cụ thể:
“Điều 2: Hạn mức đất ở được công nhận trong trường hợp thửa đất ở có
vườn, ao:
1. Đối với trường hợp đất ở có vườn ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc
khu dân cư được sử dụng trước ngày 18/12/1980 mà trong hồ sơ địa chính hoặc
các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50
Luật Đất đai 2003 có ghi nhận rõ ranh giới thửa đất ở (hoặc thổ cư) thì toàn bộ
diện tích đất đó được xác định là đất ở, trường hợp ranh giới thửa đất chưa xác
định trong hồ sơ địa chính hoặc trên các giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định
tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 thì diện tích đất ở được xác
định bằng năm (05) lần hạn mức giao đất ở tối đa được quy định tại Điểm 2 Điều
1 Quyết định này nhưng tổng diện tích đất không vượt quá diện tích đất mà hộ gia
8
đình, cá nhân đang sử dụng; phần diện tích đất còn lại sau khi đã xác định thửa
đất ở thì được xác định theo hiện trạng sử dụng đất.
Tại Đ, Điều 1, Quyết định số 1131/2005/QĐ-UB, quy định hạn mức đất ở
cho các phường thuộc thành phố V, thị xã B: không quá 100m
2
/1 hộ gia đình, cá
nhân.”
Như vậy:
Tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu nêu trên thì
thửa đất gốc của hộ ông (bà) Bùi Văn T2 – Cao Thị T1 đã được xác định diện tích
đất ở vườn, ao theo quy định bằng 05 lần hạn mức đất ở được quy định tại Khoản
1, Điều 2, Quyết định số 1131/2005/QĐ-UB.
Mặt khác, thửa đất của ông T hiện nay được tách ra từ thửa đất gốc nêu
trên, nên không đủ điều kiện để xác định lại đất ở vườn ao theo yêu cầu của ông
T, cụ thể:
Căn cứ theo Khoản 5, Điều 24, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ, quy định:
“5. Diện tích đất ở của hộ gia đình, cá nhân trong trường hợp thửa đất ở có
vườn, ao đã được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 được xác
định như sau:
a) Hộ gia đình, cá nhân sử dụng thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở đã
được cấp Giấy chứng nhận trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì diện tích đất ở
được xác định là diện tích ghi trên Giấy chứng nhận đã cấp
b) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận trước đây mà người sử
dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100
của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này nhưng diện tích đất ở chưa được
xác định theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai, Khoản
3 Điều này và chưa được xác định lại theo quy định tại Điểm b và Đ c Khoản 1
Điều 45 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính
phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, nay người sử dụng đất có đơn đề nghị xác
định lại diện tích đất ở hoặc khi Nhà nước thu hồi đất thì diện tích đất ở được xác
định lại theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai và Khoản
3 Điều này; hộ gia đình, cá nhân không phải nộp tiền sử dụng đất, được bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất đối với diện tích đã được xác định lại là đất ở.”
Theo quy định nêu trên thì thửa đất mà ông T đang sử dụng (tách ra từ thửa
đất gốc đã được xác định đất ở vườn, ao) nên không có căn cứ pháp luật để xem
xét bồi thường 116,50m
2
/172m
2
đất bị thu hồi theo giá đất ở.
2.2. Về nội dung yêu cầu buộc Ủy ban nhân dân thành phố V xác định toàn
bộ diện tích đất thu hồi 172m
2
theo vị trí 4 đường C:
Trong quá trình giải quyết khiếu nại, Thanh tra thành phố V đã kiểm tra
thực địa nhà ông T ngày 26/10/2021 (có biên bản và bản đồ hiện trạng kèm theo),
9
ghi nhận: khoảng cách từ ranh đất nhà ông T ra đường 30/4 dài 202,0m, chiều
rộng hẻm trước nhà lớn hơn 4m, tuy nhiên đầu hẻm A có đoạn rộng dưới 4m.
Căn cứ Điểm b, Khoản 1, Điều 4, Quyết định 38/2019/QĐ-UBND ngày
20/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B, quy định:
“Vị trí 3: Áp dụng đối với thửa đất nằm ở mặt tiền đường hẻm, đường ngõ
xóm có chiều rộng lớn hơn 1,5m và nhỏ hơn 4m, kéo dài đến 100m tính từ đường
chính; vị trí 4 được tính sau mét thứ 100 đến mét thứ 200; vị trí 5 được tính sau
mét thứ 200.”
Như vậy, theo quy định nêu trên thì vị trí thửa đất của ông T được xác định
là vị trí 5, đường C.
Do đó, việc khởi kiện yêu cầu xác định lại vị trí đất đối với diện tích 172m
2
đất thu hồi theo vị trí 4 đường 30/4 là không có căn cứ pháp luật để giải quyết.
Tuy nhiên, người khởi kiện có đơn đề nghị rút yêu cầu khởi kiện đối với
nội dung: Huỷ một phần Quyết định số 12025/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố V đối với nội dung bác khiếu nại yêu cầu:
Xác định lại vị trí đất bị thu hồi là vị trí 4 đường C; Buộc Ủy ban nhân dân thành
phố V xác định toàn bộ phần diện tích thu hồi và bồi thường 172m
2
theo vị trí 04
đường C - phường A - thành phố V. Do đó, Ủy ban nhân dân thành phố V đề nghị
Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu nêu
trên của ông Bùi Thế T.
Từ những cơ sở nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố V đề nghị Tòa án
nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bác đơn khởi kiện của ông Bùi Thế T.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 28/2024/HC-ST ngày 16 tháng 4
năm 2024 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quyết định:
Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 116, Điều 157, Điều 158, Khoản 2 Điều
173, Điều 193 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ Khoản 2 Điều 66, Khoản 3 Điều 69, Khoản 2 Điều 103 Luật đất
đai;
Căn cứ Điểm b Khoản 5 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/05/2014 của Chính phủ về hường dẫn thi hành Luật đất đai;
Căn cứ Điều 5; Điều 14; Điều 18 Luật khiếu nại;
Căn cứ Quyết định số 1131/2005/QĐ-UB ngày 11/4/2005 của Ủy ban nhân
dân tỉnh B;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội khóa 14.
Tuyên xử:
[1] Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Thế T đối với các yêu
cầu khởi kiện: Hủy một phần Quyết định 12025/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố V về phần yêu cầu xác định lại vị trí đất là
10
vị trí 4 đường loại 2, đường C; yêu cầu hủy một phần Quyết định phê duyệt
phương án bồi thường số 10612/QĐ-UBND ngày 24/8/2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố V đối với phần yêu cầu xác định lại vị trí; yêu cầu buộc Ủy ban nhân
dân thành phố V xác định toàn bộ phần diện tích thu hồi và bồi thường 172m2
theo vị trí 04 đường C - phường A - thành phố V..
[2] Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Thế T yêu cầu:
- Hủy một phần một Quyết định số 10612/QĐ-UBND ngày 24/08/2021 của
Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư cho ông (bà) Bùi Thế T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố
V do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Đường C (đoạn từ đường C đến
đường C), thành phố V về việc xác định loại đất bồi thường là đất trồng cây lâu
năm.
Cụ thể: Hủy Mục A và mục G của Điều 1 phần “Bồi thường giá trị quyền
sử dụng đất”.
- Huỷ một phần Quyết định số 12025/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố V Về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Thế
T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố V.
Cụ thể: Huỷ phần Bác nội dung khiếu nại yêu cầu bồi thường toàn bộ diện
tích 172m2 đất bị thu hồi theo giá đất ở.
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường toàn bộ phần diện tích thu
hồi và bồi thường theo giá đất ở.
Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm trong hạn luật định ông ông Bùi Thế T có đơn kháng
cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông T.
Tại phiên tòa phúc thẩm người khởi kiện vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện,
các đương sự không đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án, người kháng cáo
vẫn giữ nguyên đơn kháng cáo.
Trong phần phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án Đại diện Viện
Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng: Thẩm phán -
Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật
Tố tụng hành chính. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền nghĩa vụ của mình.
Về nội dung vụ án; Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của
người kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các
đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn
diện và đầy đủ chứng cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
11
Tố tụng; Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của người
kháng cáo có đơn xin xét xử vắng mặt; Hội đồng xét xử vắng mặt người kháng
cáo theo quy định chung.
[1] Ngày 27/4/2020, Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Thông báo số
2425/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Đường C (đoạn từ đường
C đến đường C) thành phố V (BL 79).
Ngày 05/6/2020, Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với các đơn vị, cá
nhân có liên quan lập Biên bản kiểm đếm, thống kê nhà cửa, tài sản khác gắn liền
với đất thuộc dự án Đường C (đoạn từ đường C đến đường C) thành phố V (khu
vực thuộc Phường A) đối với ông Bùi Thế T, ghi nhận: Thu hồi 172m
2
đất, thửa
58 tờ bản đồ thu hồi đất; nhà và vật kiến trúc. Biên bản đã được ký và xác nhận
bởi đầy đủ các bên tham gia (BL 80-81).
Ngày 22/9/2020, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định 2280/QĐ-
UBND về việc phê duyệt giá đất cụ thể để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
để thực hiện dự án Đường C (đoạn từ đường C đến đường C) thành phố V.
Ngày 02/11/2020, Ủy ban nhân dân phường A1 lập Biên bản xét duyệt phục
vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Đường C (đoạn từ đường C
đến đường C) thành phố V (khu vực thuộc Phường A), đối với ông Bùi Thế T (BL
82).
Ngày 24/08/2021, Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số
10605/QĐ-UBND về việc thu hồi 172m2 đất của ông Bùi Thế T đang sử dụng tại
Phường A để xây dựng dự án Đường C (Đoạn từ đường C đến đường C), thành
phố V. (BL 84)
Ngày 24/8/2021, Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số
10612/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
cho ông (bà) Bùi Thế T, địa chỉ số A đường C, Phường A, thành phố V do Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện dự án Đường C (Đoạn từ đường C đến đường C),
thành phố V (BL 85-87).
[2] Xét đơn kháng cáo của ông Bùi Thế T; Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại thời điểm cấp giấy lần đầu nêu trên thì thửa đất được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lần đầu của hộ ông (bà) Bùi Văn T2 – Cao Thị T1 đã
được Ủy ban nhân dân thành phố V xác định diện tích đất ở, đất vườn, ao theo
Quyết định số 1131/2005/QĐ-UB ngày 11/4/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh B
(quyết định này có hiệu lực tại thời điểm áp dụng) để cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông T2, bà T1 là đúng quy định pháp luật. Cụ thể, diện tích đất ở
của ông T2 – bà T1 được cấp theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được
xác định bằng 05 lần hạn mức đất ở cao nhất theo quy định tại Khoản 1, Điều 2,
Quyết định số 1131/2005/QĐ-UB.
Tại điểm 2 Điều 1, Quyết định số 1131/2005/QĐ-UB trên, quy định hạn
mức đất ở cho các phường thuộc thành phố V, thị xã B: không quá 100m
2
/1 hộ
gia đình, cá nhân.
12
Do vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 552994 ngày 20/9/2005
cấp lần đầu của ông T2 – bà T1 đã thể hiện rõ diện tích đất ở tại đô thị được công
nhận sử dụng là 100m
2
hạn mức đất ở x 5 = 500m
2
là phù hợp quy định pháp luật
tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu.
Người khởi kiện căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 1 Quyết định
5201/2005/QĐ-UBND ngày 30/12/2005; Điểm a, Khoản 2, Điều 2 và Điểm b,
Khoản 1, Điều 1 Quyết định số 51/2014/QĐ-UBND ngày 29/10/2014 của Ủy ban
nhân dân tỉnh B về hạn mức đất ở và Đ b Khoản 5 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-
CP Nghị định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành luật đất đai để yêu cầu xác
định diện tích đất ở là 5x150m
2
= 750m
2
là không đúng với trường hợp này. Bởi
lẽ, thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T2, bà T1 là tháng
9 năm 2005 trước thời điểm ban hành Quyết định số 5201/2005/QĐ-UBND nói
trên. Mặt khác tại Điểm a Khoản 2 Điều 2 Quyết định 5201/2005/QĐ-UBND thì
hạn mức cấp đất cao nhất cho hộ gia đình cá nhân theo quyết định này cũng chỉ
bằng 03 lần hạn mức giao đất ở tối đa, cụ thể là 150m
2
x 3 = 450 m
2
đất ở. Đối
chiếu với quy định tại Điểm b Khoản 5 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì
chỉ khi chưa xác định rõ diện tích đất ở, người sử dụng đất mới có thể yêu cầu xác
định lại diện tích đất ở hoặc khi bị thu hồi, bồi thường thì xác định lại diện tích
đất ở, đất vườn ao để bồi thường theo loại đất ở như ông L trình bày.
Như phân tích trên, thời điểm cấp giấy lần đầu đối với Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AC 552994 ngày 20/9/2005 cho ông T2 – bà T1, Ủy ban
nhân dân thành phố V đã xác định diện tích đất ở 500m
2
(05 lần hạn mức giao đất
ở tối đa: 5x100m
2
= 500m
2
) là phù hợp với các quy định pháp luật có hiệu lực tại
thời điểm đó. Việc tách thửa đất thành các thửa đất nhỏ hơn tương ứng với các
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới không phải là cơ sở để xác định lại diện
tích đất ở theo quy định tại Quyết định số 51/2014/QĐ-UBND; Điều 24 Nghị định
43/2014/NĐ-CP nêu trên. Do vậy, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu hủy một
phần Quyết định số 10612/QĐ-UBND ngày 24/08/2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho ông
(bà) Bùi Thế T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố V do Nhà nước thu
hồi đất để thực hiện dự án: Đường C (đoạn từ đường C đến đường C), thành phố
V và yêu cầu buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường toàn bộ phần diện
tích thu hồi theo giá đất ở. Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông T là có căn cứ. Ông T kháng cáo nhưng không cung cấp chứng cứ nào
mới làm thay đổi nội dung của Bản án sơ thẩm, do vậy kháng cáo của ông T không
có căn cứ được chấp nhận.
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do các yêu cầu kháng cáo của ông
Bùi Thế T không được chấp nhận nên ông T phải chịu án phí là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
13
Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Bùi Thế T. Giữ nguyên Bản án
hành chính sơ thẩm số 28/2024/HC-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024 của Toà án
nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 116, Điều 157, Điều 158, Khoản 2 Điều
173, Điều 193 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ Khoản 2 Điều 66, Khoản 3 Điều 69, Khoản 2 Điều 103 Luật đất
đai;
Căn cứ Điểm b Khoản 5 Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/05/2014 của Chính phủ về hường dẫn thi hành Luật đất đai;
Căn cứ Điều 5; Điều 14; Điều 18 Luật khiếu nại;
Căn cứ Quyết định số 1131/2005/QĐ-UB ngày 11/4/2005 của Ủy ban nhân
dân tỉnh B;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội khóa 14.
Tuyên xử:
[1] Đình chỉ xét xử yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Thế T đối với các yêu
cầu khởi kiện: Hủy một phần Quyết định 12025/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố V về phần yêu cầu xác định lại vị trí đất là
vị trí 4 đường loại 2, đường C; yêu cầu hủy một phần Quyết định phê duyệt
phương án bồi thường số 10612/QĐ-UBND ngày 24/8/2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố V đối với phần yêu cầu xác định lại vị trí; yêu cầu buộc Ủy ban nhân
dân thành phố V xác định toàn bộ phần diện tích thu hồi và bồi thường 172m
2
theo vị trí 04 đường C - phường A - thành phố V..
[2] Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Thế T yêu cầu:
- Hủy một phần một Quyết định số 10612/QĐ-UBND ngày 24/08/2021 của
Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư cho ông (bà) Bùi Thế T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố V
do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Đường C (đoạn từ đường C đến
đường C), thành phố V về việc xác định loại đất bồi thường là đất trồng cây lâu
năm.
Cụ thể: Hủy Mục A và mục G của Điều 1 phần “Bồi thường giá trị quyền
sử dụng đất”.
- Huỷ một phần Quyết định số 12025/QĐ-UBND ngày 05/10/2022 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố V Về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Thế
T, địa chỉ số A đường C, phường A, thành phố V.
Cụ thể: Huỷ phần Bác nội dung khiếu nại yêu cầu bồi thường toàn bộ diện
tích 172m2 đất bị thu hồi theo giá đất ở.
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường toàn bộ phần diện tích thu
hồi và bồi thường theo giá đất ở.
14
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Bùi Thế T phải chịu 300.000
đồng án phí hành chính phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án
phí ông đã nộp theo Biên lai thu tiền số 005971 ngày 10/5/2024 của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ông Bùi Thế T đã nộp đủ án phí hành chính
phúc thẩm.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
- VKSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
- Cục THADS tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
- Người khởi kiện;
- Người bị kiện;
- NCQLNVLQ;
- Lưu VT (5), HS (2) (BA- Tâm).
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Mai Xuân Thành
Tải về
Bản án số 1060/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1060/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 175/2024/HNGĐ-PT ngày 12/12/2024 của TAND TP. Hà Nội về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm