Bản án số 102/2024/DS-PT ngày 24/09/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 102/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 102/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 102/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 102/2024/DS-PT ngày 24/09/2024 của TAND tỉnh Gia Lai về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Gia Lai |
Số hiệu: | 102/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Phúc và Doanh tranh chấp đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 102/2024/DSPT
Ngày: 24-9-2024
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh P
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
- Thành phần Hội đồng xét xử P thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Thưởng.
Các Thẩm phán: Bà Đinh Thị Như Phượng; ông Lưu Anh Tuấn.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Nga - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai tham gia phiên tòa: Bà Trịnh
Thị Mỹ Hiền – Kiểm sát viên trung cấp.
Trong các ngày 24 tháng 7 và ngày 24 tháng 9 năm 2024, tại Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai xét xử P thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 48/2024/TLPT-DS ngày
20-6-2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 19/2024/DS-ST ngày 17-5-2024 của Tòa án nhân
dân thị xã A, tỉnh Gia Lai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử P thẩm số: 83/2024/QĐ-PT ngày 01-7-2024;
Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 92/2024/QĐ-PT ngày 24-7-2024; Quyết định hoãn
phiên tòa số: 84/2024/QĐ-PT ngày 22-8-2024; Thông báo mở lại phiên tòa xét xử P
thẩm số: 85/2024/TB-TA ngày 20-9-2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Kế P; địa chỉ: Tổ dân phố 4, phường N, thị xã A, tỉnh
Gia Lai. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Dương Thế D và bà Phan Thị N; cùng địa chỉ: 96 Q, phường N, thị
xã A, tỉnh Gia Lai. Bà N có mặt.
Đại diện theo ủy quyền của ông D: Bà Nguyễn Thị T; địa chỉ: Thôn 2, thị trấn E ,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Lương Ngọc Phương, là
Luật sư Văn phòng luật sư Lương Gia Phát, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Gia Lai; địa chỉ:
228 Hoàng Hoa Th, phường An T, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người kháng cáo: Bị đơn là bà Phan Thị N.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn trình bày: Ông P có một lô đất diện tích đất 131,6m
2
, thửa đất số
350, tờ bản đồ số 11 đã được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là: GCNQSDĐ) số CU 786249 ngày 19-03-
2020 tại tổ 4, phường N, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Ông Dương Thế D và bà Phan Thị N ở
bên cạnh đã lấn chiếm một phần diện tích đất của ông P. Do đó, ông P yêu cầu Tòa án
giải quyết buộc ông D và bà N phải trả lại phần diện tích đất bị lấn chiếm theo như kết
quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 16-01-2024 là 87,9m
2
thuộc thửa đất số 350, tờ bản
đồ số 11 tại tổ 4, phường N, thị xã A, tỉnh Gia Lai.
Bị đơn trình bày: Nguồn gốc thửa đất số 245, tờ bản đồ số 21, diện tích 1.276m
2
là do cha bà N cho và đã được cấp GCNQSDĐ số 296888 ngày 26-5-2000 tại tổ 4,
phường N, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Ngày 22-12-2015, UBND thị xã A cấp đổi
GCNQSDĐ số BR 923788 cho vợ chồng bà N, đã sử dụng từ trước đến nay và có khai
phá thêm, không lấn chiếm của ông P. Vì vậy, bà N và ông D không đồng ý theo yêu
cầu khởi kiện của ông P.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 19/2024/DS-ST ngày 17-5-2024 của Tòa án nhân dân
thị xã A, tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Căn cứ các Điều: 26, 35, 39, 147, 157, 165, 266, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều
160, 166, 175, 221, 503 Bộ luật dân sự; Điều 95, 98, 99, 100,101, 166, 170, 202, 202
Luật Đất đai; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Kế P.
Buộc ông Dương Thế D và bà Phan Thị N phải trả lại phần diện tích đất đã lấn
chiếm là 87,9m
2
, thửa đất 350, tờ bản đồ số 11 tại tổ 4, phường N, thị xã A, tỉnh Gia
Lai. Vị trí, kích thước: Phía Đông giáp thửa đất số 52 của ông D và bà N, dài 41,15m;
phía Tây giáp phần đất còn lại của ông P, dài 40,75m; phía Nam giáp đường Quang
Trung, rộng 2,31m; phía Bắc giáp sân vận động, rộng 2,16m.
Ông D và bà N có nghĩa vụ tháo dỡ hàng rào, thu hoạch, di dời các tài sản trên
đất (nếu có) để trả lại đất cho ông P. Ông Phan Kế P được quyền liên hệ cơ quan có
thẩm quyền làm thủ tục đăng ký biến động để cấp lại GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản gắn liền với đất theo quy định.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm; chi phí
tố tụng, nghĩa vụ chịu khoản lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ; thông báo quyền yêu cầu,
tự nguyện hoặc cưỡng chế thi hành án và thời hiệu thi hành án; quyền kháng cáo của
đương sự.
Ngày 29-5-2024, bà Phan Thị N làm đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp P thẩm
sửa Bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa P thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện;
3
Bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo với lý do trước đây Nhà nước cấp đất cho
ông P 10m chiều ngang, nhưng sau khi ông P chuyển nhượng cho ông Thọ 9m, chuyển
nhượng cho ông Thịnh 2m mà còn lại 4m theo GCNQSDĐ cấp năm 2020 là không có
căn cứ. Thực tế diện tích đất còn lại của ông P là phần đất phía sau đất đã chuyển
nhượng cho ông Thọ chứ không phải phần đất phía trước 4m giáp đường Quang Trung.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai phát biểu ý kiến về việc tuân theo
pháp luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án ở giai đoạn P thẩm. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử P thẩm
căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo
của bị đơn, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 19/2024/DS-ST ngày 17-5-2024 của
Tòa án nhân dân thị xã A.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa,
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của người kháng cáo trong hạn luật định và đã nộp
tạm ứng án phí dân sự P thẩm nên được xem xét theo trình tự P thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bà Phan Thị N về yêu cầu Tòa án cấp P thẩm không chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
2.1. Nguồn gốc thửa đất của ông Phan Kế P và thửa đất của vợ chồng ông Dương
Thế D, bà Phan Thị N được ông Phan Văn Thức tặng cho, cụ thể:
Thửa đất số 350, tờ bản đồ số 11, diện tích là 131,6m
2
của ông Phan Kế P được
tách ra từ thửa đất số 426, tờ bản đồ số 21 của cha ông P là ông Phan Văn Thức tặng
cho, diện tích 620m
2
và được UBND thị xã A cấp GCNQSDĐ cho Hộ ông Phan Văn P
(đã được đính chính ông Phan Kế P) vào tháng 12 năm 1999. Ngày 22-11-2019, gia
đình ông P chuyển nhượng cho ông Đặng Văn Th và bà Võ Thị Kim T một phần diện
tích đất là 379,1m
2
(200m
2
đất ở đô thị, 179,1m
2
đất trồng cây lâu năm); chuyển nhượng
cho ông Phan Văn Th và bà Nguyễn Thị L một phần diện tích đất có hình tam giác, đỉnh
tam giác giáp chỉ giới đường Quang Trung ra phía sau mỗi bên dài 46,50m và 45,05m,
chiều rộng phía sau 5m, tổng diện tích đất chuyển nhượng là 109,3m
2
. Phần diện tích
đất còn lại, ông P đã được UBND thị xã A cấp GCNQSDĐ số CU 786249 ngày 19-3-
2020, thửa đất số 350, tờ bản đồ số 11, diện tích 131,6m
2
(100m
2
đất ở đô thị, 31,6m
2
đất trồng cây lâu năm).
Thửa đất số 52, tờ bản đồ số 11, diện tích 1.252,8m
2
của ông Dương Thế D và bà
Phan Thị N trước đây là thửa đất số 425, tờ bản đồ số 21, do cha bà N là ông Phan Văn
Thức tặng cho và được UBND thị xã A cấp GCNQSDĐ số R 296888 năm 2000, diện
4
tích 1.276m
2
(400m
2
đất ở đô thị, 876m
2
đất trồng cây lâu năm). Ngày 22-12-2015,
UBND thị xã A cấp đổi GCNQSDĐ số BR 923788 với diện tích là 1.252,8m
2
.
2.2. Tại phiên tòa P thẩm ngày 24-7-2024, bà N và ông D cung cấp hình ảnh thể
hiện ranh giới đất phía Đông của ông P và bà N là hàng rào do họ tự dựng lên sau khi
Tòa án cấp sơ thẩm xem xét thẩm định tại chỗ, nhưng cho rằng hàng rào đó có từ trước
nên đã yêu cầu Tòa án cấp P thẩm xem xét, thẩm định tại chỗ lại. Ngày 02-8-2024, Tòa
án đã tiến hành xem xét, thẩm định lại hiện trạng sử dụng đất trên cơ sở ranh giới do các
bên xác định. Tuy nhiên, các bên xác định ranh giới không đúng với hiện trạng thực tế
đang sử dụng, dẫn đến kết quả việc xem xét, thẩm định không chính xác. Do đó, ngày
19-9-2024, Tòa án đã tiến hành xem xét, thẩm định bổ sung có sự chứng kiếm của các
chủ sử dụng đất liền kề, kết quả xác định:
Diện tích đất thực tế ông Phan Kế P xác định là 41,4 m
2
+ 5,6m
2
+ 109,5m
2
(109,5m
2
này là phần đất tranh chấp ông D và bà N đang sử dụng); phía Đông giáp đất
ông D và bà N, dài 37,29m + 2,21m; phía Tây giáp đất ông Đặng Văn Thọ, dài 41,2m;
phía Nam giáp đường Quang Trung, rộng 0,51m + 2,3m + 1,19m; phía Bắc giáp sân
bóng của làng, rộng 2,24m + 1,76m.
Diện tích đất của ông D và bà N theo thực tế và theo GCNQSDĐ số BR 923788
là: 1.341,8m
2
(109,5m
2
+ 1039,5m
2
+ 192,8m
2
); phía Đông giáp đất bà Nguyễn Thị N và
ranh giới Miếu làng, dài 6,73m + 0,95m + 14,89m + 31,01m; phía Tây giáp đất ông P,
dài 2,21m + 2,26m + 10,45m + 24,43m + 2,78m; phía Nam giáp đường Quang Trung,
rộng 34,34m + 9,3m + 1,19m + 2,3m; phía Bắc giáp sân bóng của làng, rộng 28m.
Phần đất tranh chấp do ông Phan Kế P xác định có diện tích 109,5m
2
; phía Đông
giáp đất ông D và bà N, dài 37,29m; phía Tây giáp đất còn lại của ông P, dài 2,78m +
24,43m + 10,45m; phía Nam giáp đường Quang Trung, rộng 2,3m + 1,19m; phía Bắc
giáp đất ông P, rộng 2,26m.
Diện tích đất thực tế của ông D và bà N sử dụng chiều rộng tiếp giáp đường
Quang Trung rộng hơn chiều rộng theo GCNQSDĐ là 2,30m nhưng theo ranh giới do
ông P xác định thì chiều rộng đất thiếu 1,19m.
Qua xem xét, thẩm định tại chỗ lại và xem xét, thẩm định tại chỗ bổ sung như đã
nêu trên thì thấy rằng bị đơn đã không khách quan trong việc xác định ranh giới đất của
mình, không phù hợp với ranh giới hiện trạng đất mà bị đơn đang sử dụng theo
GCNQSDĐ nên Tòa án cấp P thẩm không lấy kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ lại và
bổ sung để làm chứng cứ đánh giá mà lấy kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ lần 1 do
Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Việc cấp đổi GCNQSDĐ của vợ chồng ông D và bà N đảm bảo đúng trình tự,
thủ tục, không có khiếu nại hoặc tranh chấp. Theo đó, diện tích đất của vợ chồng ông D
và bà N có tổng diện tích là 1.252,8m
2
, chiều rộng phía Nam giáp đường Quang Trung
là: 10,49m + 34,34m = 44,83m; chiều dài phía Đông giáp đất bà N và đất Miếu làng;
chiều rộng phía Bắc giáp sân bóng của làng đều có ranh giới ổn định, không có tranh
5
chấp và phù hợp với kích thước thể hiện trong GCNQSDĐ, chủ sử dụng đất là ông D
và bà N thống nhất với diện tích đất được sử dụng thể hiện trong GCNQSDĐ nên đây là
chứng cứ quan trọng chứng minh quyền sử dụng đất của ông D và bà N.
Quá trình tham gia tố tụng, ông D và bà N đều cho rằng không có chứng cứ
chứng minh cha mẹ ông P cho ông P diện tích đất 13m chiều ngang; theo giấy tờ gốc
thể hiện chiều dài đất của ông P 54m chứ không phải 41,20m và 39,50m thể hiện trong
GCNQSDĐ của ông P; đất của ông Thịnh chỉ có 6m chứ không phải 8m. Vì vậy, phần
2m chiều ngang đó là của ông D và bà N nên ranh giới đất theo hiện trạng từ mép
tường nhà củ như hiện nay là đúng vì hàng rào này đã được ông D và bà N rào và trồng
cây từ trước đến nay, ý kiến và yêu cầu của ông D và bà N như trên là không có căn cứ
nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận, vì nếu phía bên ông Thịnh hoặc ông P có
diện tích đất rộng hơn theo giấy chứng nhận thì phần diện tích đó không thuộc quyền sử
dụng hợp pháp của ông D, bà N. Như vậy, đã đủ căn cứ xác định ông D và bà N đã lấn
chiếm một phần diện tích đất của ông P 87,9m
2
như Tòa án cấp sơ thẩm xác định là có
căn cứ.
Tại phiên tòa sơ thẩm và P thẩm, ông P yêu cầu Tòa án buộc ông D và bà N phải
trả phần diện tích đất đã lấn chiếm theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ lần 1 là
87,9m
2
. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P là có căn
cứ. Do đó, kháng cáo của bị đơn là không có căn cứ nên không được Tòa án chấp nhận.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí dân
sự P thẩm theo quy định của pháp luật.
[3] Về chi phí tố tụng: Do việc xem xét thẩm định lần 2, lần 3 không có cơ sở nên
bà Phan Thị N và ông Dương Thế D phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ lần 2,
lần 3 với tổng số tiền là 22.800.000 đồng. Nhưng ông Phan Kế P tự nguyện chịu
5.000.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ lần 3. Do đó, buộc ông D và bà N
phải chịu số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là: 17.800.000 đồng. Ông D và bà
N đã nộp đủ số tiền trên và đã được hoàn trả lại số tiền chênh lệch tạm ứng chi phí tố
tụng là: 2.200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
-Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
-Áp dụng các Điều: 160, 166, 175, 221, 503 Bộ luật dân sự; các Điều: 95, 98, 99,
100,101, 166, 170 Luật Đất đai năm 2013;
Tuyên xử:
6
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn là bà Phan Thị N. Giữ nguyên Bản án
dân sự sơ thẩm số: 19/2024/DS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị
xã A, tỉnh Gia Lai.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Kế P.
Buộc ông Dương Thế D và bà Phan Thị N phải tháo dỡ hàng rào, tháo dỡ một
phần chuồng bò, di dời các tài sản gắn liền với đất trên phần đất đã lấn chiếm của ông P;
trả lại cho ông P phần diện tích đất đã lấn chiếm là: 87,9m
2
; phía Nam giáp đường
Quang Trung, rộng 2,31m; phía Bắc giáp sân vận động, rộng 2,16m; phía Đông giáp đất
ông D và bà N, dài 41,15m; phía Tây giáp đất ông P, dài 40,75m, thuộc thửa đất 350, tờ
bản đồ số 11; vị trí tại tổ 4, phường N, thị xã A, tỉnh Gia Lai. (Có sơ đồ hiện trạng thửa
đất đang tranh chấp kèm theo).
Ông Phan Kế P được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm
thủ tục đăng ký biến động hoặc cấp lại GCNQSDĐ cho phù hợp với diện tích đất thực
tế; và được thực hiện các quyền về dân sự đối với phần diện tích đất sử dụng theo quy
định của pháp luật.
3. Về án phí:
3.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Dương Thế D và bà Phan Thị N phải chịu
300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Phan Kế P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; trả lại cho ông P số tiền
300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo Biên lai số: 0006882 ngày 09-
10-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A, tỉnh Gia Lai.
3.2. Án phí dân sự P thẩm: Buộc bà Phan Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự P thẩm và được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí dân sự
P thẩm theo Biên lai số 0013097 ngày 03-6-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã
A, tỉnh Gia Lai. Bà N đã nộp đủ án phí P thẩm.
4. Chi phí tố tụng:
Buộc ông Dương Thế D và bà Phan Thị N phải hoàn trả cho ông Phan Kế P số
tiền đã chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản lần 1 là: 5.000.000 đồng.
Buộc bà Phan Thị N và ông Dương Thế D phải chịu và đã nộp đủ số tiền chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ lần 2 và lần 3 là: 17.800.000 đồng.
Ghi nhận việc ông Phan Kế P tự nguyện chịu và đã nộp đủ số tiền chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ lần 3 là: 5.000.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
7
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 của Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án
dân sự.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án P thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- TAND thị xã A;
- Chi cục THADS thị xã A;
- VKSND tỉnh Gia Lai;
- Lưu hồ sơ, Toà DS, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ P THẨMTHẨM PHÁN –
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Thưởng
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
8
Đinh Thị Như Phượng Lưu Anh Tuấn Trần Văn Thưởng
9
F
Tải về
Bản án số 102/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 102/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 988/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm