Bản án số 174/2025/DS-PT ngày 25/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 174/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 174/2025/DS-PT ngày 25/08/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 174/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Kỳ Q; giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 05/6/2025 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4 – Lâm Đồng).
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 174/2025/DS-PT
Ngày: 25-8-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng đặt
cọc, có phạt cọc”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Vân
Ông Võ Văn Vinh
- Thư ký phiên toà: Trần Thị Tâm – Thư Tòa án, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh m Đồng: Ông Đinh Tiến Hòa
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 25 tháng 8 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét xử
phúc thẩm ng khai ván thụ số 174/2025/TLPT-DS ngày 28 tháng 7 năm
2025 về tranh chấp: “Hợp đồng đặt cọc, có phạt cọc”.
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2025 của
Toà án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu vực
4 Lâm Đồng) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 316/2025/QĐ-PT ngày 06 tháng 8
năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Kỳ Q, sinh năm: 1982; ttại số A, đường A,
phường A, thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.
Bị đơn: Vợ chồng ông Minh Đ, sinh năm: 1958, Thị T, sinh năm:
1961; cư trú tại thôn B, xã B, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông Đ: Ông Phạm C, sinh năm: 1967; trú tại
số E, đường H, tổ C, B, tỉnh Lâm Đồng, người đại diện theo ủy quyền (Văn
bản ủy quyền số 720, quyển số 01/2024 SCT/CK, ĐC do Văn phòng C1 chứng
nhận ngày 11/10/2024), có mặt.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Kỳ Q Nguyên đơn.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 14/9/2024, lời trình bày tại các bản tự
khai trong quá trình tham gia ttụng tại giai đoạn thẩm của ông Nguyễn Kỳ
Q thì: Ngày 10/3/2022 ông và vợ chồng ông Lê Minh Đ, bà Võ Thị T “Văn bản
thoả thuận” để vợ chồng ông Đ, bà T chuyển nhượng cho ông 02 thửa đất, cụ thể:
Thửa 135, tờ bản đồ số 94 tọa lạc tại L, huyện B đã được Ủy ban nhân dân
huyện B, tỉnh Lâm Đồng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 639309
ngày 08/5/2014 diện ch 4.837m² nhưng theo trích lục bản đồ do Ủy ban nhân dân
L, huyện B cấp ngày 26/7/2021 thì diện tích là 5.206,2m²; thửa 136, tờ bản
đồ số 94, L, huyện B theo trích lục bản đồ do Ủy ban nhân dân L, huyện B
cấp ngày 26/7/2021 có diện tích là 8.167,9m², giá trị chuyển nhượng của 02 thửa là
4.145.971.000đ. Ngoài ra, hai bên còn thoả thuận nếu diện tích thay đổi thì tùy
thuộc vào diện tích được cấp trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giá chuyển
nhượng sẽ tính theo mức 310.000.000đ/1.000m².
Theo thoả thuận, sau 75 ngày ktừ ngày 11/3/2022 vchồng ông Đ, T
trách nhiệm thông báo cho ông để hợp đồng công chứng, sau đó ông sẽ giao
toàn bộ tiền chuyển nhượng, số tiền đã đặt cọc sẽ được trừ vào tiền chuyển
nhượng. Khi giao đủ tiền vợ chồng ông Đ, bà T sẽ bớt 30.000.000đ cho ông. Ngoài
ra, vợ chồng ông Đ, T trách nhiệm liên hquan nhà nước để cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 136 để hợp đồng chuyển nhượng
hai thửa đất trên cho ông Q.
Ngày 11/3/2022 ông Q đặt cọc 500.000.000đ cho vợ chồng ông Đ, bà T để
đảm bảo giao kết hợp đồng chuyển nhượng hai thửa đất 135, 136 nêu trên. Khi đặt
cọc ông Q và vợ chồng ông Đ, bà T đến Văn phòng thừa phát lại thành phố B, tỉnh
Lâm Đồng lập vi bằng, đến ngày 21/4/2022 ông Q đặt cọc thêm 500.000.000đ cho
bị đơn, cả hai lần giao dịch ông đều dùng tài khoản số 155555788 (A, Chi nhánh
thành phố H mang tên Nguyễn Kỳ Q) chuyển khoản o số tài khoản
5495215003652 của A1 mang tên Thị T. Sau khi hết thời gian 75 ngày kể từ
ngày 11/3/2022, ông nhiều lần gọi điện thoại yêu cầu nhưng vợ chồng ông Đ, bà T
không thực hiện theo thoả thuận.
Đến ngày 10/11/2023 ông đến L, huyện B gặp vợ chồng ông Đ, T để
thương lượng giải quyết nhưng không được. Đến ngày 26/02/2024 T chuyển
khoản trả lại cho ông số tiền 1.000.000.000đ nhưng không thông báo số tiền này là
khoản tiền nào.
Nay ông có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Đ, bà
T phải chịu số tiền phạt cọc 1.000.000.000đ. Lý do: vợ chồng ông Đ, bà T vi phạm
3
thỏa thuận theo văn bản thỏa thuận ngày 10/3/2022, nếu vi phạm thì bị phạt cọc
được Văn phòng thừa phát lại thành phố B lập ngày 11/3/2022.
- Theo lời trình bày của ông Phạm C, người đại diện theo uỷ quyền của ông
Minh Đ, thì: Bị đơn thừa nhận hai bên kết văn bản thoả thuận ngày
10/3/2022 về việc đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giao nhận tiền như
ông Q trình bày.
Sau ngày 10/3/2022 ông Q đến Ủy ban nhân dân L nộp các giấy tờ liên
quan để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Ủy ban nhân dân L
lập tờ trình số 70/TTr-UB ngày 06/4/2022 để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Q. Nhưng vì lý do khách quan, đến nay đối với thửa đất 136, tờ bản đồ
94, L, huyện B chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hai bên
không tiến hành kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được. Đến
ngày 26/02/2024 T đã chuyển khoản trả lại số tiền 1.000.000.000đ cho ông Q.
Do vậy, ông Đ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Q.
- Thị T đã nhận được Thông báo thụ vụ án, triệu tập hợp lệ nhưng
có đơn đề nghị vắng nên không trình bày.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án số 27/2025/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2025; Toà án nhân dân
huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng (nay Tòa án nhân dân khu vực 4 Lâm Đồng)
đã xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Kỳ Q về
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc, có phạt cọc” đối với bị đơn vợ chồng ông Lê Minh
Đ, bà Võ Thị T .
Tuyên huỷ “Văn bản thoả thuận” ngày 10/3/2022 giữa ông Minh Đ và
Võ Thị T với ông Nguyễn Kỳ Q.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kỳ Q về yêu cầu buộc
ông Lê Minh Đ, Võ Thị T phải chịu phạt cọc với số tiền 1.000.000.000đ.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo.
Ngày 15/6/2025 ông Nguyễn Kỳ Q có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm,
đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa,
Ông Nguyễn Kỳ Q thay đổi một phần nội dung kháng cáo, yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm tính tiền lãi suất trên số tiền 1.000.000.000đ bị đơn đã nhận với
số tiền là 228.000.000đ.
4
Ông Phạm C, người đại diện theo ủy quyền của ông Đ, không đồng ý với
kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Về nội dung: Đề nghị không chấp
nhận kháng cáo của ông Nguyễn Kỳ Q, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của ông Nguyễn Kỳ Q; thủ tục
kháng cáo được thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015 nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Qua xem xét thì thấy rằng:
[2.1] Việc thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giá trị chuyển
nhượng, số tiền đặt cọc; thời hạn đặt cọc đều được các bên thừa nhận; nay chỉ
tranh chấp về việc yêu cầu hủy giao dịch nói trên cũng như số tiền phạt cọc. Do đó,
căn cứ Điều 92 Bộ luật Tố tụng n sự năm 2015 thì đây những tình tiết, sự
kiện không phải chứng minh.
[2.2] Theo hồ thể hiện thì đất các bên thỏa thuận chuyển nhượng
diện tích 4.837m
2
thuộc thửa 135, tờ bản đồ số 94, tọa lạc tại xã L, huyện B, tỉnh
Lâm Đồng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 639309 do Ủy
ban nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 08/5/2014 (theo trích lục bản đồ
địa chính ngày 26/7/2021 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng diện
tích 5.206,2m
2
thuộc thửa 135, tờ bản đồ số 94) còn thửa 136, tờ bản đồ số 94
diện tích 8.167,9m
2
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (có trích
lục bản đồ địa chính). Do vậy, tại “Văn bản thỏa thuận” ngày 10/3/2022 thể hiện
nội dung “Bên A (chuyển nhượng đất) ông Minh Đ, ThT..bên B (bên
nhận chuyển nhượng) ông Nguyễn Kỳ Q..., chúng tôi cùng thống nhất xác nhận
thỏa thuận các nội dung như sau: Ông Lê Minh Đ, bà Võ Thị T (sau đây gọi là bên
A) chủ sở hữu, sử dụng quyền sử dụng đất của các thửa đất sau đây: Thửa 135,
tờ bản đồ số 94, diện tích 4.837m
2
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số hiệu BS 639309 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp ngày 08/5/2024 (theo
trích lục bản đồ do Ủy ban nhân dân xã L cấp ngày 26/7/2021 thửa 135, tờ bản đồ
số 94, diện tích 5.206,2m
2
). Thửa 136, tờ bản đồ số 94, diện tích 8.167,9m
2
, theo
trích lục bản đồ do Ủy ban nhân dân xã L cấp ngày 26/7/2021. Các thửa đất thuộc
thôn B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
5
...Ông Nguyễn Kỳ Q (sau đây gọi tắt bên B) đồng ý nhận chuyển nhượng
của diện tích trên với giá chuyển nhượng tạm tính 4.145.971.000đ. Giá trị
chuyển nhượng sẽ thay đổi tùy thuộc vào tổng diện tích của hai thửa đất trên được
ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với cách tính 310.000.000đ/1000m
2
.
Bên A đồng ý chuyển nhượng toàn bộ diện tích trên với giá tiền trên cho bên B. Để
đảm bảo cho giao dịch các bên cam kết”.
Thực hiện thỏa thuận nói trên, ngày 11/3/2022 ông Q đặt cọc cho vợ chồng
ông Đ, T 500.000.000đ để đảm bảo giao kết hợp đồng chuyển nhượng hai thửa
đất 135, 136 nêu trên. Khi đặt cọc hai bên đã đến Văn phòng thừa phát lại thành
phố B, tỉnh Lâm Đồng lập vi bằng. Ngày 21/4/2022 ông Q đặt cọc thêm stiền
500.000.000đ cho bị đơn. Tuy nhiên, ngày 26/02/2024 T đã chuyển khoản trả
lại cho ông Q số tiền 1.000.000.000đ nói trên.
Ông Q thừa nhận đã nhận số tiền này nhưng không biết khoản tiền . Việc
trình bày này sự mâu thuẫn bởi lgiữa nguyên đơn bị đơn chỉ quan hệ
đặt cọc với nhau; không có vay tiền gì khác nên phải xem khoản tiền này là tiền đặt
cọc mà bị đơn trả lại cho bị đơn. Sau một thời gian dài thì nguyên đơn cũng không
ý kiến gì đối với việc trả lại tiền cọc này.
[2.3] Tại thông báo thu hồi đất số 113/TB-UBND ngày 13/7/2023 của Ủy ban
nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng vviệc để thực hiện khai thác quặng Bauxit 5
năm giai đoạn 3, mỏ Bauxit Tây T thuộc dự án Tổ hợp Bauxit - nhôm L tại huyện
B, tỉnh Lâm Đồng đã thể hiện: “Căn cứ văn bản số 4343/UBND-ĐC ngày
16/6/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh L về việc chấp thuận ranh giới, diện ch đất
thu hồi đthực hiện các bước tiếp theo triển khai dự án tổ hợp Bauxit Nhôm L
tại huyện B...Lý do thu hồi đất, vị trí, ranh giới, diện tích: để thực hiện khai thác
quặng Bauxit 5 năm giai đoạn 3 mỏ Bauxit Tây T thuộc dự án tổ H - Nhôm L. Diện
tích đất dự kiến thu hồi 4.282.139,1m
2
, trong đó địa phận thị trấn L 1.710.565,8m
2
,
địa phận L 2.571.573,3m
2
. Vị trí, ranh giới: theo bản đồ do Trung tâm K
phát triển quỹ đất tỉnh Lâm Đồng tỉnh lập, được Sở Tài nguyên môi trường
thẩm định, phê duyệt. Người đất thu hồi, thửa đất, tờ bẩn đồ, loại đất thu hồi:
danh sách chi tiết cụ thể kèm theo...Trong thời gian bắt đầu từ tháng 7 năm
2023, hoàn thành chậm nhất vào năm 2024...”.
Tại danh sách người đất, thu hồi, diện tích, thửa đất, tờ bản đồ, loại đất dự
án khai thác quặng Bauxit 05 năm (giai đoạn 3) thuộc dự án tổ hợp Bauxit Nhôm
L, địa điểm: thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng (kèm theo Thông báo số 133/TB-
UBND ngày 13/7/2023 của Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng) thể hiện:
“Thửa đất 135 136, tờ bản đồ 94, L, huyện B bị thu hồi để thực hiện khai
thác quặng bauxit 5 năm, giai đoạn 3, mỏ bauxit Tây Tân Rai thuộc dự án Tổ hợp
bauxit- nhôm L tại huyện B, tỉnh Lâm Đồng”.
6
Như vậy, việc bị đơn không thực hiện được thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với thửa 136, tờ bản đồ 94, L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng
để thực hiện kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất được do
khách quan, do vậy vợ chồng ông Đ, T không lỗi dẫn đến các bên không
thực hiện việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa đất nói trên nên
không có căn cứ để buộc bị đơn phải chịu phạt cọc.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn đồng ý hỗ trợ cho nguyên đơn số tiền
50.000.000đ, tuy nhiên ông Q không đồng ý nhận nên không có căn cứ để ghi nhận
sự tự nguyện của các bên.
[3] Từ những phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông
Nguyễn Kỳ Q; giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn Kỳ Q
phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm đồng thời phải chịu án phí Dân sự thẩm do
yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí Dân sự thẩm
không có giá ngạch đối với việc hủy văn bản thỏa thuận ngày 10/3/2022.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ các khoản 1, 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Kỳ Q; giữ nguyên Bản án n
sự thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 05/6/2025 của Tòa án nhân dân huyện Bảo
Lâm, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4 – Lâm Đồng).
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kỳ Q về việc “Tranh
chấp hợp đồng đặt cọc, phạt cọc” đối với vợ chồng ông Minh Đ, Thị
T.
1.1. Tuyên bố “Văn bản thỏa thuận” ngày 10/3/2022 giữa ông Nguyễn Kỳ Q
và vợ chồng ông Lê Minh Đ, bà Võ Thị T là vô hiệu.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Kỳ Q về việc u
cầu vợ chồng ông Minh Đ, bà Thị T phải chịu phạt cọc số tiền
1.000.000.000đ.
2. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
7
Buộc ông Nguyễn Kỳ Q phải chịu 42.000.000đ án phí Dân sự thẩm, được
trừ vào số tiền 21.000.000đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007271 ngày 08/10/2024 của Chi cục Thi
hành án Dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng (nay là Phòng Thi hành án Dân sự
khu vực 4 – Lâm Đồng). Ông Q còn phải nộp 21.000.000đ án phí còn thiếu.
Buộc vợ chồng ông Minh Đ, Thị T phải chịu 300.000đ án phí Dân
sự sơ thẩm.
- Án phí phúc thẩm:
Ông Nguyễn Kỳ Q phải chịu 300.000đ án phí Dân sự phúc thẩm, được trừ vào
số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000057 ngày 09/7/2025 của Thi hành án Dân sự tỉnh
Lâm Đồng (chị Lê Thị P nộp thay); ông Q đã nộp đủ án phí Dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng Gđ, Ktr, Ttr & THA (01);
- TAND khu vực 4 – Lâm Đồng (01);
- THADS tỉnh Lâm Đồng (01);
- Các đương sự (02);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 174/2025/DS-PT Bản án số 174/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 174/2025/DS-PT Bản án số 174/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất