Bản án số 02/2025/DS-ST ngày 06/01/2025 của TAND TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 02/2025/DS-ST ngày 06/01/2025 của TAND TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long về y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Quan hệ pháp luật: Y/c tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Vĩnh Long (TAND tỉnh Vĩnh Long)
Số hiệu: 02/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: vô hiệu hợp đồng giữa Mai Thanh Nga - Đặng Xuân huy
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ VĨNH LONG
TỈNH VĨNH LONG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 02/2025/DS-ST.
Ngày: 06 01 - 2025
V/v tranh chấp “ Vô hiệu ủy quyền;
Vô hiệu văn bản thỏa thuận"
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Diễm.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trần Văn Mỹ Phúc.
2. Ông Phạm Văn Tư.
- Thư phiên tòa: Phạm Thị Kim Yến- Thư viên Tòa án nhân dân
thành phố Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long tham gia phiên
tòa: Bà Huỳnh Thị Yến Nhi – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 31 tháng 12 năm 2024 và ngày 06 tháng 01 năm 2025, tại
Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long xét xthẩm công khai vụ án
thụ số: 02/2023/TLST-DS ngày 10 tháng 01 năm 2023 về tranh chấp “Vô
hiệu ủy quyền; Vô hiệu văn bản thỏa thuận” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 286/2024/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Mai Thanh N, sinh năm 1978; nơi trú: Số nhà B,
Khóm C, Phường I, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (có mặt).
Đại diện hợp pháp cho nguyên đơn: Đặng Thị Bạch L, sinh năm 1960,
địa chỉ: số E, P, Phường D, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, văn bản ủy quyền
ngày 20/9/2022 (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Đặng Xuân H, sinh năm 1978 (có mặt).
2. Bà Huỳnh Kim T, sinh năm 1984 (có mặt).
Cùng nơi cư trú: Số B, Khóm C, Phường I, TP V, tỉnh Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn ông Đặng Xuân H:
Luật sư Nguyễn Cao T1 của Công ty L1 thuộc đoàn luật sư Thành Phố H.
2
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Đặng Huỳnh Xuân K, sinh năm 2005; nơi trú: Số B, Khóm C,
Phường I, TP V, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt).
2. Lương Hoàng P, sinh năm 1999; nơi trú: Số D, Khóm A, Phường I,
thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 24/9/2022, đơn khởi kiện bổ sung ngày 28/11/2022
trong quá trình giải quyết vụ án Mai Thanh N nguyên đơn Đặng
Thị Bạch L là đại diện hợp pháp cho nguyên đơn cùng trình bày như sau:
Vào năm 2013, N nhận nền đất theo phiếu bốc thăm giao nền của
Công trình cụm dân nhà vùng ngập phường I, thành phố V, lô bốc
thăm H2, nền 01. Sau khi nhận nền đất N cất căn nhà cấp 4 trên diện tích
99,0m
2
, nhà kết cấu mái lợp tole, nền lát gạch men, vách tường. Cũng vào
năm 2013, bà N cần tiền để xoay sở trong cuộc sống nên bà N có ý định vay tiền
rồi cầm cố căn nhà gắn liền thửa đất 193, tờ bản đồ số 48, tọa lạc Khóm C,
Phường I, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. Do đó, bà Nguyễn Phát M (là hàng xóm
của bà) giới thiệu ông Đặng Xuân H cho N biết. Sau khi N ông H gặp
mặt thỏa thuận xong thì cùng nhau đến Văn Phòng C ký văn bản Ủy quyền ngày
20/11/2013. Khi ký văn bản ủy quyền thì nội dung bà N không có đọc, nhưng bà
N và ông H T1 thỏa thuận miệng với nhau N vay tiền của ông H
130.000.000 đồng, ông H bà T1 sẽ nhà của N nhưng không phải trả tiền
thuê nhà tiền thuê nhà trừ vào tiền lãi N phải trả cho ông H, T1 hàng
tháng, sau 5 năm N sẽ chuộc lại, nhưng không thỏa thuận giá chuộc lại
bao nhiêu.
Đối với Thỏa thuận ngày 20/11/2013 tại Văn phòng C N tên nhưng
không có đọc lại nội dung.
Đối với Tờ thỏa thuận viết tay ngày 20/11/2013 (do ông H nộp cho Tòa) do
ai viết N không nhớ nhưng chữ chữ viết tên của N. Biên nhận
ngày 20/11/2023 cũng tại Văn phòng C là do bà N viết và ký tên.
Thời điểm N tên vào các văn bản trên do N rất cần tiền, chỉ
nghĩ đơn giản bà cầm cố nhà cho ông H bà T1 sau năm 5 bà sẽ chuộc lại cho nên
ông H yêu cầu bà làm văn bản gì, ký tên ở đâu bà đều ký.
Đến năm 2016, yêu cầu được chuộc lại nhà, đất thì ông H cho rằng giá
hiện tại lúc đó 600.000.000 đồng. về để kiếm tiền chuộc thì đến năm 2021
bà quay lại thì ông H cho rằng giá hiện tại là 2 tỷ đồng. Nếu bà giao cho ông H 2
tỷ đồng thì sẽ cho chuộc lại nhà, bà không có khả năng nên bà N yêu cầu Tòa án
giải quyết:
1. hiệu văn bản thỏa thuận ngày 20/11/2013 về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng nền đất số 01, số H2, thửa đất số 193, tờ bản đồ s48, diện
3
tích 99m
2
gắn liền căn nhà cấp 4, tọa lạc Khóm C, Phường I, TP V, tỉnh Vĩnh
Long;
2. Vô hiệu văn bản Ủy quyền ngày 20/11/2013;
3. Yêu cầu gia đình ông H T1 di dời toàn bộ tài sản nhân trả lại phần
đất gắn liền căn nhà số B, Khóm C, Phường I, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long cho
bà N.
4. N sẽ trả trả lại số tiền 130.000.000 đồng cho ông H T1 và giá
trị phần nhà mà ông H bà T1 đã sửa chữa.
5. Ông H và bà T1 trả lại phiếu bốc thăm giao nền 01, lô H2, họ và tên Mai
Thanh N cho bà N.
Hiện nay, thửa 193, tờ bản đồ số 48, tọa lạc Khóm C, Phường I, thành phố
V, tỉnh Vĩnh Long chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông Đặng Xuân H trình bày: Giữa ông và Mai Thanh N không mối
quan hệ quen biết nào hết. Vào năm 2013, vợ chồng ông muốn tìm nhà mua để ở
thì ông được bà Nguyễn Phát M giới thiệu bà N cần bán nhà nên bà M có dẫn vợ
chồng ông đến gặp bà N để thỏa thuận mua bán.
Vào ngày 20/11/2013, sau khi thỏa thuận xong vợ chồng ông cùng N
đến Văn phòng C để thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 193, tờ bản đồ số 48
gắn liền căn nhà cấp 4, tọa lạc Khóm C, Phường I, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long.
Khi hai bên ra Văn phòng Công chứng để lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thì Công chứng viên giải thích cho hai bên biết thửa đất này của
N không chuyển nhượng được, do chỉ phiếu bốc thăm nền, chưa giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nên không lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất được. Công chứng viên hướng dẫn nếu các bên muốn mua bán thửa
đất này, hiện tại chỉ lập văn bản “Thỏa thuận” “Ủy quyền” sau 10 năm khi
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các bên lập thủ tục chuyển
nhượng theo quy định của pháp luật. Ông N đồng ý theo cách hướng dẫn
của công chứng viên cho nên đồng ý tên vào hai văn bản trên. Sau đó, để
đảm bảo cho việc chuyển nhượng sau này được nhiều thuận lợi nên cùng ngày
20/11/2013 ông có viết tay thêm tờ thỏa thuận và biên nhận cho bà N ký tên. Do
đó, N cho rằng bà vay tiền của vợ chồng ông không chuyển nhượng nhà,
đất là không có căn cứ.
Theo yêu cầu của bà N ông không đồng ý, ông yêu cầu:
N tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài
sản gắn liền thửa đất đối với thửa 193, tờ bản đồ số 48 gắn liền căn nhà cấp 4,
tọa lạc Khóm C, Phường I, TP V, tỉnh Vĩnh Long cho vợ chồng ông. Vì thửa đất
này ông đã thực hiện xong nghĩa vụ đối với Nhà nước ông đã đóng thuế cho
Nhà nước, nhưng quyền sử dụng đất hiện nayN đứng tên.
Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà N, ông đồng ý trả nhà,
đất lại cho N, nhưng yêu cầu bà N hoàn giá trị căn nhà đất cho ông theo
giá thị trường của Công ty T4 là 1.284.221.000 đồng.
4
Huỳnh Kim T, em Đặng Huỳnh Xuân K thống nhất với lời trình bày và
yêu cầu của ông Đặng Xuân H.
Anh Lương Hoàng P thống nhất với lời trình bày yêu cầu của Mai
Thanh N.
Tại phiên tòa:
Đại diện nguyên đơn và nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu:
1. hiệu văn bản thỏa thuận ngày 20/11/2013 về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng nền đất số 01, số H2, thửa đất số 193, tờ bản đồ số 48, diện
tích 99m
2
gắn liền căn nhà cấp 4, tọa lạc Khóm C, Phường I, TP V, tỉnh Vĩnh
Long;
2. Vô hiệu văn bản Ủy quyền ngày 20/11/2013;
3. Yêu cầu gia đình ông H và T di dời toàn bộ tài sản nhân trả lại phần
đất gắn liền căn nhà số B, Khóm C, Phường I, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long cho
bà N.
4. N sẽ trả trả lại số tiền 130.000.000 đồng cho ông H T giá trị
phần nhà mà ông H bà T đã sửa chữa.
5. Ông H T trả lại phiếu bốc thăm giao nền 01, H, họ tên Mai
Thanh N; Quyết định số 1867/QĐ-UBND ngày 22/4/2022 của Ủy ban nhân dân
thành phố V cho bà Mai Thanh N.
Ông Nguyễn Cao T1 người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn
ông Đặng Xuân H trình bày:
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn khi
ký vào biên bản Thỏa thuận ngày 20/11/2013 bà N cho rằng bà N vay của ông H
bà T1 vào thỏa thuận chuyển nhượng quyền sdụng đất hợp đồng giả
cách không căn cứ. Vì, khi đến Văn phòng C để lập hợp đồng thì công
chứng viên giải thích ràng N chưa giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho nên không lập hợp đồng chuyển nhượng được. Trường hợp bà N, ông H,
T1 muốn mua bán với nhau thì phải lập Thỏa thuận ủy quyền. Các bên
đồng ý lập văn bản thỏa thuận ủy quyền nghĩa các bên đã giao kết điều
kiện với nhau không phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong
Thỏa thuận có ghi khi nào bà N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
N phải nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho ông H T1 bởi ông H T1 đã trả đủ tiền mua nhà đất cho bà
N đó điều kiện khi giao kết. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 125, 139,
294 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 139, 284 Bộ luật Dân sự năm 2015; Án lệ
số 39 chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn: Yêu cầu N trong hạn 15 ngày
sau ngày Tòa tuyên án N không hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thì ông H T1 được quyền lập thủ tục đăng cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất sang tên ông H, T1. Trường hợp hiệu giao dịch dân sự thì đề
5
nghị Hội đồng xét xử áp dụng giá theo gía thị trường của Công ty T4 để bồi
thường cho bị đơn.
Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố, yêu cầu nguyên đơn tiếp tục thực
hiện hợp đồng.
Trong trường hợp văn bản thỏa thuận Ủy quyền cùng ngày
20/11/2013 thì yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại theo giá của Công ty T4
là 1.284.221.000 đồng.
Huỳnh Kim T thống nhất với yêu cầu của ông Đặng Xuân H.
Anh Lương Hoàng P thống nhất với yêu cầu của bà Mai Thanh N.
Kiểm t viên Viện kiểm sát nhân n thành phố Vĩnh Long phát biểu ý
kiến:
Về việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án
cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện và tuân thủ đúng
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, chưa đảm bảo thời hạn
chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
Áp dụng Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147,
157, 165, khoản 2 Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân snăm 2015; Điều 117,
119, 122, 123, 131, 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 50, 105, 106, 136 Luật
Đất đai năm 2003; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016
quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí lphí
Tòa án; Căn cứ Điều 2 Luật Người cao tuổi. Tuyên xử:
1. Về nội dung:
1.1 Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thanh
N.
Vô hiệu thỏa thuận ngày 20/11/2013 về việc chuyển nhượng quyền sử dụng
nền đất số 01, lô số H2, thửa đất số 193, tờ bản đồ số 48, diện tích 99m
2
gắn liền
căn nhà cấp 4, tọa lạc Khóm C, Phường I, TP V, tỉnh Vĩnh Long.
Vô hiệu văn bản Ủy quyền ngày 20/11/2013.
Buộc N phải trả cho ông H bà T số tiền đã nhận 189.400.000 đồng
bồi thường số tiền 807.954.700 đồng. Tổng cộng là 997.354.700 đồng.
Buộc ông Đặng Xuân H, Huỳnh Kim T em Đặng Huỳnh Xuân K di
dời toàn bộ tài sản nhân để trả căn nhà gắn liền thửa đất s 193, tờ bản đồ số
48, diện tích 99m
2
gắn liền căn nhà cấp 4, tọa lạc Khóm C, Phường I, TP V, tỉnh
Vĩnh Long cho hộ bà Mai Thanh N.
Buộc ông Đặng Xuân H, Huỳnh Kim T trả cho Mai Thanh N phiếu
bốc thăm giao nền 01, lô H2, họ và tên Mai Thanh N và Quyết định số
6
1867/QĐUBND ngày 22/4/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố V cho Mai
Thanh N.
1.2 Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Xuân H Huỳnh
Kim T.
Án phí: Bà Mai Thanh N phải chịu 41.920.641 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Đặng Xuân H và Huỳnh Kim T phải chịu 600.000 đồng án phí dân
sự sơ thẩm.
Chi phí tố tụng khác: Buộc N phải chịu 5.740.000 đồng, ông H T
chịu 2.640.000 đồng chi phí khảo sát đo đạc, định giá xem xét thẩm định tại
chỗ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết ván: Bị đơn ttại thành phố V được
Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long thụ phù hợp về thẩm quyền quy định
điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
[1.2] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hiệu ủy
quyền và Văn bản thỏa thuận của Văn phòng C, bị đơn yêu cầu tiếp tục thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên căn cứ xác định v
án tranh chấp đất đai, tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu được quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.3] Về thủ tục tố tụng: Ngày 10/5/2024 em Đặng Huỳnh Xuân K đơn
xin vắng mặt. Tòa án tiến hành xét xvắng mặt đương sự trên phù hợp theo
quy định tại khoản 1 Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: hiệu Thỏa thuận về việc
chuyển nhượng quyền sử dụng nền đất số 01, số H2, thửa đất s193, tờ bản
đồ số 48 (gọi tắt thửa 193, tờ bản đồ 48) diện tích 99m
2
gắn liền căn nhà cấp
4, tọa lạc Khóm C, Phường I, TP V, tỉnh Vĩnh Long, ngày 20/11/2013; hiệu
văn bản Ủy quyền ngày 20/11/2013, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Ngày 20/11/2013 giữa Mai Thanh N và ông Đặng Xuân H Huỳnh
Kim T có đến Văn phòng C ký Văn bản thỏa thuận và Ủy quyền nêu trên. Trong
quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa N cho rằng vay tiền của bị đơn
130.000.000 đồng, thế chấp nhà đất thuộc thửa 193, tờ bản đồ số 48 ,
không chuyển nhượng thửa đất trên cho bị đơn nhưng lại thừa nhận giữa
bị đơn không quen biết, không mối quan hệ họ hàng gì, bị đơn cho
7
bà vay tiền không có lấy tiền lãi mà bà giao nhà cho bị đơn ở, khi nào bà trả tiền
thì bị đơn trả nhà cho bà. Thời điểm tên vào các văn bản trên do rất
cần tiền, nghĩ bà cầm cố nhà cho bị cho nên bị đơn yêu cầu làm văn bản
gì, ký tên ở đâu bà đều ký.
Tại phiên tòa, người làm chứng bà Nguyễn Phát M trình bày bà không quen
biết bị đơn, nguyên đơn hàng xóm của bà. biết nguyên đơn muốn bán căn
nhà đất nên khi bị đơn đến hỏi bà ai cần bán nhà thì M giới thiệu
nguyên đơn và bị đơn với nhau. Sau khi thỏa thuận thì nguyên đơn và bđơn
đến Văn phòng C ký hợp đồng, bà M không biết công chứng viên làm hợp đồng
nhưng xác định chữ trong “Tthỏa thuận” viết tay ngày 20/11/2013
có ký tên với tư cách là người làm chứng.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa bị đơn xác nhận giữa bị
đơn và nguyên đơn không quan hệ với nhau cho nên bị đơn không cho
nguyên đơn vay tiền. Nguyên đơn muốn bán nhà nhưng nền đất nguyên đơn
được Nhà nước cấp để tái định chưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho nên khi các bên đến Văn phòng C tcông chứng viên giải thích cho các
bên hiểu không lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập
“Văn bản thỏa thuận” “Ủy quyền” sau khi nguyên đơn có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì lập Hợp đồng chuyển nhượng sau. Nguyên đơn, bị đơn
đồng ý nên mới ký vào các văn bản trên. Vào năm 2014, bị đơn có sửa chữa nhà
có thông báo cho nguyên đơn biết.
Mặc dù, tiêu đ“Thỏa thuận” nhưng lại ghi về việc chuyển nhượng
quyền sử dụng nền đất số 01, số H2, thửa đất số 193, tờ bản đsố 48 (gọi tắt
thửa 193, tờ bản đồ 48) diện tích 99m
2
gắn liền căn nhà cấp 4, tọa lạc Khóm
C, Phường I, TP V, tỉnh Vĩnh Long trong thỏa thuận giữa nguyên đơn bị
đơn đã thống nhất về đối tượng chuyển nhượng, điều kiện mua bán, phương
thức thanh toán các cam kết thực hiện ràng theo Điều 698 Bộ luật Dân sự
năm 2005. Thực tế, bị đơn cũng đã thanh toán cho nguyên đơn hết số tiền
chuyển nhượng và trong “Ủy quyền” nguyên đơn giao cho bị đơn lập các thủ tục
pháp lý liên quan đến thửa đất và toàn quyền quản lý, sử dụng và định đoạt thửa
đất trên. Do đó, Thỏa thuận” và “Ủy quyền” cùng ngày 20/11/2013 thực chất là
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 193, tờ bản đồ
số 48 theo Điều 697 Bộ luật Dân sự năm 2005. Nguyên đơn cho rằng đó hợp
đồng vay giả cách; người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng
giao dịch giữa bị đơn nguyên đơn là giao kết điều kiện không phải hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đều không có căn cứ.
[2.2] Xét hiệu lực của “Thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng
nền đất” ngày 20/11/2013:
- Về mặt hình thức: Mặc dù tiêu đề của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ghi “Thỏa thuận” phần nội dung thể hiện đầy đủ các thông tin theo
Điều 697, 698 Bộ luật Dân snăm 2005, nhưng lại trái quy định tại Điều 106
8
Luật Đất đai năm 2003, do đó Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
bà N với ông H, bà T vi phạm pháp luật về hình thức.
- Về nội dung:
Tại Điều 1 của Thỏa thuận” thể hiện: Mai Thanh N khẳng định thửa đất
số 193, tờ bản đồ số 48 của bà; N bán đứt nền đất gắn liền nhà thửa đất
trên cho ông H bà T với giá 130.000.000 đồng;
Mặt khác, trong Điều 4 của Thỏa thuận có nội dung “…Các bên công nhận
công chứng viên đã giải thích hậu quả của việc mua bán nền đất do nhà nước
giao cấp, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng…” khẳng định
việc N chuyển nhượng nền đất thuộc thửa 193, tbản đồ số 8 khi chưa được
Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp trái quy định tại
Điều 106 Luật Đất đai năm 2003; Điều 692 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Tại Điều 4 của Khế ước mua trả chậm nền nhà ở ngày 07/12/2012 thể hiện:
Bà N được mua nền nhà trả chậm trong 10 năm kể từ khi được mua, không được
sang, bán, cầm cố hoặc chuyển nhượng.
Do đó, căn cứ vào Điều 122, 127, 128 Bộ luật Dân snăm 2005 Hội đồng
xét xchấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Mai Thanh N vviệc hiệu
Thỏa thuận và Ủy quyền cùng ngày 20/11/2013.
[2.3] Xét hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu:
Căn cứ Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa N với ông H T bị hiệu thì không làm phát sinh
quyền sử dụng của ông H, bà T đối với thửa đất số 193, tờ bản đồ số 48. Các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật thì trả bằng tiền. Bên có lỗi phải bồi thường.
- Về việc hoàn trả cho nhau những đã nhận: Tại phiên tòa, nguyên đơn
bị đơn cùng xác nhận giá chuyển nhượng của thửa đất trên 130.000.000
đồng, bị đơn đã giao đ cho nguyên đơn số tiền trên. Ông H, T đã nộp
59.400.000 đồng tiền mua nền H2-1 cụm tuyền dân vượt giai đoạn 2
theo Khế ước mua nhà trả chậm ngày 02/12/2012 nên N nghĩa vụ trả lại
cho ông H bà T 189.400.000 đồng là có căn cứ.
- Về mức độ lỗi dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
hiệu: Khi đến Văn phòng C lập hợp đồng chuyển nhượng các bên đều biết nền
H2 - nền 01 thuộc thửa 193, tờ bản đồ số 48 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên không được phép giao dịch và được công chứng viên giải
thích hậu quả pháp của việc mua bán này nhưng các bên vẫn cố ý thực hiện
việc giao kết. Do đó, hai bên cùng lỗi trong việc làm cho hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất này hiệu. Khi cấp nền tái định H2 nền 01,
N biết việc Nhà nước cấp cho nền tái định trên đến 10 năm sau bà mới
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng N cố tình chuyển
nhượng nền đất ủy quyền cho ông H, T đóng tiền mua nền, ông H, T
9
biết nhà đất chưa giấy chứng nhận quyền sdụng đất nhưng vẫn mua do đó
lỗi chính là của bà N. Do đó, bà N phải chịu lỗi 70%, ông H bà T chịu lỗi 30%.
- Về thiệt hại do hợp đồng bị hiệu: Tại phiên tòa, N yêu cầu giá theo
giá của Hội đồng định giá ngày 23/3/2023 tổng cộng nhà đất 399.499.512
đồng. Ông H yêu cầu giá thị trường của Công ty thẩm định giá Viettin V
1.284.221.157 đồng. Đồng thời tại phiên tòa bị đơn trình bày sau khi mua căn
nhà gắn liền thửa đất trên bị đơn đã sửa chữa, xây dựng và tôn tạo nhiều lần mới
được như hiện trạng bây giờ, bị đơn nghĩ nhà đã mua nên đã được toàn
quyền sử dụng, định đoạt cho nên không còn giữ lại các hóa đơn chứng từ khi
sửa chữa. Nguyên đơn cũng thừa nhận bị đơn có sửa chữa và xây dựng thêm. Do
đó, Hội đồng xét xử chấp nhận giá thị trường của Công ty thẩm định giá Viettin
V là 1.284.221.157 đồng căn cứ do bị đơn công gìn giữ, tôn tạo xây
dựng thêm. Thiệt hại của hợp đồng được tính như sau: 1.284.221.157 đồng -
130.000.000 đồng = 1.154.221.157 đồng (làm tròn 1.154.221.000 đồng).
Lỗi N là: 1.154.221.000 đồng x 70% = 807.954.700 đồng (làm tròn
807.955.000 đồng).
Lỗi ông H, T 1.154.221.000 đồng x 30% = 346.266.300 đồng (làm
tròn 346.266.000 đồng).
Cho nên, N phải bồi thường cho ông H, bà T stiền 807.955.000 đồng.
Tổng cộng N phải trả cho ông H số tiền: 189.400.000 đồng + 807.955.000
đồng = 997.355.000 đồng.
[2.4] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn vviệc tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Như đã phân tích ở mục [2.1] [2.2] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 20/11/2013 bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật nên Hội đồng xét
xử không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
[2.5] Xét lời trình bày của người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của bị
đơn luật sư Nguyễn Cao T1 là không có căn cứ chấp nhận.
[2.6] Xét quan điểm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Vĩnh Long là có căn cứ nên chấp nhận.
[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều
26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Buộc
Mai Thanh N phải chịu phải chịu 41.921.000 đồng tiền án phí dân sự thẩm.
Buộc ông Mai Xuân H1, bà Huỳnh Kim T phải chịu 600.000 đồng án phí dân sự
sơ thẩm.
[4.] Về chi phí tố tụng: Căn cứ vào Điều 157, 158, 165 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015. Buộc Mai Thanh N phải chịu 5.740.000 đồng; Ông Mai Xuân
H1, Huỳnh Kim T phải chịu 2.640.000 đồng chi phí khảo sát đo đạc, định giá
và xem xét thẩm định tại chỗ.
Vì các lẽ trên,
10
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 147 Điều 157, Điều 158, Điều 165
và Điều 235 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào các Điều 122, Điều 127, Điều 128, Điều 137, Điều 697, Điều
698 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Căn cứ vào các Điều 123, Điều 132, Điều 500, Điều 501, Điều 502 Bộ luật
Dân sự năm 2015
Căn cứ vào các Điều 106 Luật Đất đai năm 2003.
Căn cứ Điều 26, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thanh N.
1.1 Tuyên bố Thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng nền đất số
01, số H2, thửa đất số 193, tờ bản đồ số 48, diện tích 99m
2
gắn liền căn nhà
cấp 4, tọa lạc Khóm C, Phường I, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long Ủy quyền
cùng ngày 20/11/2013 giữa Mai Thanh N với ông Đặng Xuân H Huỳnh
Kim T là vô hiệu.
1.2 Buộc Mai Thanh N phải hoàn trả cho ông Đặng Xuân H Huỳnh
Kim T số tiền 189.000.000 đồng (Một trăm tám mươi chín triệu đồng).
1.3 Buộc Mai Thanh N phải bồi thường cho ông Đặng Xuân H
Huỳnh Kim T số tiền 807.955.000 đồng (T2 trăm lẻ bảy triệu chín trăm m
mươi lăm ngàn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
1.4 Buộc ông Đặng Xuân H, Huỳnh Kim T em Đặng Huỳnh Xuân K
di dời toàn bộ tài sản nhân ra khỏi căn nhà gắn liền thửa đất giao, trả cho
Mai Thanh N quyền sử dụng đất, nhà ở, vật kiến trúc và tài sản khác gắn liền với
đất thuộc thửa số 193, tờ bản đồ số 48, diện tích 99m
2
tọa lạc K, Phường I, thành
phố V, tỉnh Vĩnh Long.
1.5 Buộc ông Đặng Xuân H, Huỳnh Kim T trả cho Mai Thanh N
phiếu bốc thăm giao nền công trình cụm dân nhà vùng ngập Phường
11
I, thành phố V; Quyết định số 1867/QĐ-UBND ngày 22/4/2022 của Ủy ban
nhân dân thành phố V cho bà Mai Thanh N.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Xuân H Huỳnh
Kim T về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
3. Về án phí:
Buộc bà Mai Thanh N phải chịu 41.921.000 đồng (Bốn mươi mốt triệu chín
trăm hai mươi mốt ngàn đồng) tiền án phí dân sự thẩm. Khấu trừ số tiền tạm
ứng án phí là 900.000 đồng (Chín trăm ngàn đồng) bà N đã nộp theo biên lai thu
số N
0
0001757 nộp ngày 22/12/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố
Vĩnh Long. N còn phải nộp thêm 41.021.000 đồng (Bốn mươi mốt triệu
không trăm hai mươi mốt ngàn đồng).
Buộc ông Mai Xuân H1, Huỳnh Kim T phải chịu 600.000 đồng án phí
dân sự thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn
đồng) ông H1, T đã nộp theo biên lai thu số N
0
0007031 nộp ngày 24/6/2024
của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vĩnh Long. Ông H1, bà T không phải
nộp thêm.
4. Về chi phí tố tụng: Buộc Mai Thanh N phải chịu 5.740.000 đồng
(Năm triệu bảy trăm bốn mươi ngàn đồng); Ông Mai Xuân H1, bà Huỳnh Kim T
phải chịu 2.640.000 đồng (Hai triệu sáu trăm bốn ơi ngàn đồng) chi phí khảo
sát đo đạc, định giá xem xét thẩm định tại chỗ. N đã nộp 2.200.000 đồng
(Hai triệu hai trăm ngàn đồng), ông H1, T đã nộp 6.000.000 đồng (Sáu triệu
đồng) nên N phải hoàn trả cho ông H1 số tiền 3.540.000 đồng (Ba triệu năm
trăm bốn mươi ngàn đồng).
5. Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành
theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan Lương Hoàng P quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày
kể từ ngày tuyên án. Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đặng Huỳnh Xuân
K quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản
án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Vĩnh Long;
- VKSND TPVL;
- CCTHADS TPVL;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
12
Nguyễn Ngọc Diễm
Tải về
Bản án số 02/2025/DS-ST Bản án số 02/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2025/DS-ST Bản án số 02/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất