Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST ngày 19/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 7 - Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2025/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 10/2025/HNGĐ-ST ngày 19/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 7 - Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 7 - Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị |
| Số hiệu: | 10/2025/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 19/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Vụ án ly hôn tranh chấp về nuôi con khi ly hôn Q - H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 7
TỈNH QUẢNG TRỊ
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 10/2025/HNGĐ-ST
Ngày 19 - 9 - 2025
V/v “Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 7, TỈNH QUẢNG TRỊ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Ngọc Huy.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Trương Thị Tố Uyên và bà Đoàn Thị Kim Dung.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đinh Đức Thiện - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
khu vực 7, tỉnh Quảng Trị.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 7, tỉnh Quảng Trị tham gia
phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hải Hòa - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 7, tỉnh Quảng
Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 25/2025/TLST-
HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2025 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly
hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2025/QĐXXST - HNGĐ ngày
22/8/2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2025/QĐST-HNGĐ ngày
10/9/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Như Q, sinh năm 2001; Số định danh cá
nhân: 045301002804; Nơi đăng ký thường trú: Khối 2, xã H, tỉnh Quảng Trị. Nơi
ở hiện nay: Thôn Long Giang, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị; Có mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá Đức H, sinh năm 2000; Số định danh cá nhân:
045200007571; Nơi thường trú: Khối 2, xã Hướng Hiệp, tỉnh Quảng Trị; Vắng
mặt lần thứ 02 không có lý do.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Đặng Quang
L - Văn phòng luật sư LĐ thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Trị; Địa chỉ: Số 331
đường L, phường N, tỉnh Quảng Trị; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn
chị Nguyễn Thị Như Q trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Như Q và anh Nguyễn Bá Đức H
đăng ký kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện vào ngày 12/7/2022 tại UBND xã
Tân Long, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị (nay là UBND xã Lao Bảo, tỉnh
2
Quảng Trị). Sau một thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều bất đồng
trong lối sống, suy nghĩ và cách ứng xử, do đó dẫn đến thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn, cải vả. Mặc dù chị Q và anh H đã nhiều lần có gắng hàn gắn nhưng không
có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm, yêu
thương, hỗ trợ lẫn nhau, không còn sống chung với nhau nữa. Nhận thấy hôn nhân
không thể tiếp tục nên chị Nguyễn Thị Như Q yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị
Nguyễn Thị Như Q được ly hôn anh Nguyễn Bá Đức H.
- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Như Q và anh Nguyễn Bá Đức H có 01 con
chung là Nguyễn Bá Đức P, sinh ngày 05/12/2022. Khi ly hôn, chị Q có nguyện
vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Bá Đức P. Không yêu
cầu anh Nguyễn Bá Đức H cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Như Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành ngày 15/8/2025,
các đương sự đã thỏa thuận:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Như Q và anh Nguyễn Bá Đức H
thuận tình ly hôn.
Về con chung: Chị Q và anh H thỏa thuận, chị Q trực tiếp nuôi dưỡng 01 con
chung là Nguyễn Bá Đức P, sinh ngày 05/12/2022. Anh H không phải cấp dưỡng
nuôi con.
Về tài sản chung: Chị Q và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị Q thuận chịu toàn bộ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Tuy nhiên, ngày 20/8/2025 bị đơn anh H nộp đơn trình bày ý kiến về việc
rút lại sự thỏa thuận hòa giải trong vụ án ly hôn, không công nhận biên bản hòa
giải thành ngày 15/8/2025. Do đó, ngày 22/8/2025 Tòa án ban hành Quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
Ngày 27/8/2025, anh H giao nộp văn bản trình bày ý kiến cho rằng mâu thuẫn
vợ chồng chưa thật sự đến mức trầm trọng, còn quá trẻ nên mong muốn được Quý
Tòa hòa giải, hàn gắn để vợ chồng cùng nhau chăm sóc, nuôi dạy con chung.
Trường hợp Tòa án vẫn giải quyết cho ly hôn thì anh H có nguyện vọng được nuôi
con là cháu Nguyễn Bá Đức P, sinh ngày 05/12/2022, hiện 32 tháng tuổi vì hiện
chị Q chưa có việc làm, không có thu nhập, điều kiện kinh tế và môi trường sống
chưa bảo đảm để chăm sóc, giáo dục cháu P. Ngoài ra, chị Q còn dính tới việc đầu
tư tiền ảo, vay mượn tiền online...sinh ra nợ nần. Anh H không yêu cầu chị Q cấp
dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Có 34 chỉ vàng 9999, yêu cầu Tòa án giải quyết chia đôi
số vàng này theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/8/2025, anh H giao nộp đơn yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ như
xác minh tại UBND xã Lao Bảo nơi chị Q cư trú về việc làm, thu nhập, chỗ ở,
3
điều kiện sinh hoạt của chị Q; làm rõ việc chị Q hiện chưa có nguồn thu nhập ổn
định để nuôi con.
Ngày 29/8/2025, anh H giao nộp bản trình bày bổ sung và kiến nghị. Đề nghị
Tòa án xác định rõ nguyên nhân do chị Q tự ý vay nợ, sử dụng tài sản chung của
vợ chồng không minh bạch.
Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 18/9/2025 và Bản luận cứ của người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân (xin được trình bày theo ý chí thân chủ): Anh H thừa
nhận vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chưa đến mức trầm trọng, vẫn còn khả năng
hàn gắn, tái hợp. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình
2014 chỉ cho phép Tòa án giải quyết ly hôn khi “mâu thuẫn trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Do đó, về mặt
pháp lý, căn cứ ly hôn chưa thực sự rõ ràng. Tuy nhiên, nếu Hội đồng xét xử vẫn
quyết định cho ly hôn thì đề nghị xem xét thật kỹ quyền nuôi con, vì đây là vấn
đề hệ trọng nhất.
- Về quyền nuôi con: Nguyễn Bá Đức P, sinh ngày 05/12/2022, nay mới 32
tháng tuổi. Tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Tòa án giao
con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào “quyền lợi mọi mặt của con” và Điều
4 Luật Trẻ em 2016 cũng quy định, cần luôn ưu tiên lợi ích tốt nhất của trẻ em
trong mọi quyết định.
+ Điều kiện thực tế của anh H: Ra trường đã hơn 3 năm, có công việc và thu
nhập ổn định, đủ khả năng lo cho con cả về ăn ở, học tập, y tế. Có chỗ ở ổn định,
an toàn. Có sự hỗ trợ từ gia đình ba, mẹ đẻ, đảm bảo môi trường nuôi dưỡng lành
mạnh.
+ Điều kiện của chị Q: Hiện tại mới tốt nghiệp ra trường, đang trong thời
gian thử việc, công việc và thu nhập chưa ổn định. Nơi cư trú có người thân thường
xuyên lui tới (cậu ruột của bà Q) từng có tiền án về hành vi bạo lực nên môi trường
sống ảnh hưởng đối với cháu bé.
+ Phân tích về lợi ích của trẻ em: Cháu P mới hơn 32 tháng tuổi, ở giai đoạn
phát triển rất cần sự ổn định về vật chất và an toàn môi trường sống. Việc giao
con cho chị Q trong hoàn cảnh hiện nay sẽ tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển của cháu. Anh H cũng thể hiện thiện chí nếu được giao nuôi con,
anh không yêu cầu chị Q cấp dưỡng và cam kết tạo điều kiện để cháu được gần
gũi, thăm nom mẹ thường xuyên.
Vì vậy, căn cứ Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình thì anh H là người
phù hợp hơn để trực tiếp nuôi con.
- Về tài sản chung: Theo tài liệu anh H đã cung cấp là tin nhắn giữa 2 vợ
chồng thì nguyên đơn thừa nhận đã bán vàng mà không nói cho anh H biết và bị
4
đơn cũng đã có yêu cầu Tòà án giải quyết chia tài sản chung là 34 chỉ vàng cưới,
sau đám cưới, chị Q cất giữ. Vậy, đề nghị Tòa án áp dụng Điều 59 Luật Hôn nhân
và Gia đình 2014, chia tài sản theo nguyên tắc: Chia đôi nhưng có tính đến hoàn
cảnh, công sức đóng góp của các bên, đảm bảo công bằng.
Vì những nội dung đã nêu, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, đặt quyền lợi
của cháu Phúc lên hàng đầu khi quyết định.
Tài liệu chứng cứ đương sự cung cấp:
Nguyên đơn cung cấp chứng cứ:
- 01 Giấy chứng nhận kết hôn (Bản chính); 01 Giấy khai sinh của con (Bản
sao); 02 CCCD chị Q và anh H (Bản phô tô chứng thực); 01 Xác nhận thông tin
nơi cư trú;
- Ngày 20/8/2025 cung cấp: 01 Giấy xác nhận lương của Nguyễn Thị Như Q
(Bản dấu đỏ); 05 hình ảnh chụp màn hình tin nhắn giữa chi Q và anh H (Bản phô
tô); 01 Đơn thuốc trầm cảm của Nguyễn Bá Đức H (Bản phô tô); 06 hình ảnh
chụp màn hình tin nhắn giữa Nguyễn Bá Đức H với người yêu cũ (Bản phô tô).
Bị đơn cung cấp:
- Ngày 15/8/2025 cung cấp: 01 Văn bản trình bày ý kiến;
- Ngày 20/8/2025 cung cấp: 01 Đơn trình bày về việc rút lại sự thỏa thuận
hòa giải thành.
- Ngày 25/8/2025 cung cấp: 01 hình ảnh chụp màn hình tin nhắn ngày
05/5/2025 số điện thoại +84934446880 nội dung: Nguyễn Thị Như Q vay tiền qua
app quá hạn (bản phô tô); 03 hình ảnh chụp hình ản tin nhắn giữa mẹ của Nguyễn
Thị Như Q là bà Đỗ Thị Mai với Q về việc làm đơn ly hôn (Bản phô tô); 02 hình
ảnh chụp màn hình tin nhắn giữa Nguyễn Thị Như Q và Nguyễn Bá Đức H về
việc Q bán vàng và chơi tiền ảo (Bản phô tô).
- Ngày 27/8/2025 cung cấp: 01 Đơn xin sao chụp hồ sơ vụ án; Sao kê chi tiết
giao dịch của Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam 05 tờ (có dấu đỏ); 01 Văn
bản trình bày ý kiến của Nguyễn Bá Đức H đề ngày 19/8/2025.
- Ngày 28/8/2025 cung cấp: 01 Đơn yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ về
việc xác minh điều kiện nuôi con của nguyên đơn.
- Ngày 29/8/2025 cung cấp: Bản trình bày bổ sung và kiến nghị về việc quyền
trực tiếp nuôi con dưới 36 tháng tuổi (Kèm theo là 06 hình ảnh chụp màn hình tin
nhắn bản phô tô và 02 hình ảnh báo Bảo vệ pháp luật)
- Ngày 03/9/2025 cung cấp: Đơn đề nghị hoãn phiên tòa để hòa giải bổ sung
và thu thập chứng cứ.
Tòa án thu thập chứng cứ: 01 Biên bản xác minh mâu thuẫn gia đình tại khóm
trưởng khóm 2, xã Hướng Hiệp, tỉnh Quảng Trị; 01 Biên bản xác minh đối với bà
Đỗ Thị Tâm là mẹ của anh Nguyễn Bá Đức H.

5
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm
phán, Thư ký được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã được thực hiện đầy đủ nhiệm
vụ, quyền hạn và việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên tòa được
tiến hành công khai, công bằng. Bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự.
Đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 48, 51, 203 của Bộ
luật tố tụng dân sự.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng
dân sự.
- Về ý kiến giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật
hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Căn cứ khoản
4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Đề
nghị Hội đồng xét xử:
Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Như Q ly hôn anh Nguyễn Bá Đức
H.
Về con chung: Giao cháu Nguyễn Bá Đức P, sinh ngày 05/12/2022 cho chị
Nguyễn Thị Như Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Bá Đức H không
phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án.
Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Về thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Như Q khởi kiện tại Tòa án nhân
dân khu vực 7, tỉnh Quảng Trị yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về con chung
khi ly hôn đối với anh Nguyễn Bá Đức H. Anh Nguyễn Bá Đức H đăng ký nơi
thường trú tại Khóm 2, xã Hướng Hiệp, tỉnh Quảng Trị nên vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết tại Tòa án nhân dân khu vực 7, tỉnh Quảng Trị theo quy định tại
Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về yêu cầu của nguyên đơn:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Như Q và anh Nguyễn Bá Đức H
tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 12/7/2022 tại UBND xã Tân Long, huyện
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị (nay là UBND xã Lao Bảo) theo Giấy chứng nhận
kết hôn số 11 ngày 12/7/2022 theo quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp

6
pháp, được pháp luật công nhận. Trong quá trình chung sống vợ chồng thì phát
sinh nhiều mâu thuẫn, mặc dù anh H có nguyện vọng vợ chồng được tiếp tục
chung sống với nhau, xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng chị Q xác định mâu
thuẩn vợ chồng đã trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống với nhau. Tòa án đã
tiến hành xác minh tại nơi đăng ký thường trú của chị Q, anh H và tại gia đình của
anh H cho biết chị Q và anh H không còn chung sống với nhau từ tháng 6 năm
2025 đến nay; chị Q đã chuyển về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ của mình tại Thôn
Long Giang, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị. Như vậy, hôn nhân của vợ chồng đã
lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần
chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị Như Q ly hôn Nguyễn
Bá Đức H.
- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Như Q và anh Nguyễn Bá Đức H có 01 con
chung là Nguyễn Bá Đức P, sinh ngày 05/12/2022. Chị Q và anh H đều có nguyện
vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và không
yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Để chứng minh điều kiện nuôi con, theo các chứng
cứ chị Q cung cấp thì từ tháng 07/2025 đến nay chị Q đã ký hợp đồng làm nhân
viên văn phòng bán vé xe nhà khách Tân Quang Dũng tại văn phòng xã Tân Long
(nay là xã Lao Bảo) của Công ty TNHHH MTV Xuân Thanh, tiền lương và thu
nhập là 10.000.000đồng/tháng theo Hợp đồng lao động số 03/25/HĐLĐ ngày
25/8/2025 giữa Công ty TNHHMTV Xuân Thanh và người lao động bà Nguyễn
Thị Như Q. Anh H cung cấp chứng cứ là Bảng sao kê ngân hàng TMCP công
thương Việt Nam thể hiện thì anh H có công việc tại Công ty cổ phần bệnh viện
Thiện Nhân - Đà Nẵng lương tháng trung bình dao động từ 6.000.000 đồng đến
7.000.000 đồng/tháng. Theo các chứng cứ do các đương sự cung cấp và qua xác
minh tại địa phương, xét thấy chị Q và anh H đều có đủ điều kiện để nuôi con.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định
“Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ nuôi, trừ trường hợp người mẹ không
đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con...”. Xem
xét về điều kiện nuôi con thì chị Q có đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con và không thuộc một trong các trường hợp “Người mẹ không
đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con” theo
hướng dẫn tại khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 01/2024/NQ-NĐTP ngày 16/5/2024
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Mặt khác, cháu Nguyễn Bá
Đức P dưới 36 tháng tuổi nên cần sự chăm sóc của người mẹ, phù hợp với sự phát
triển của cháu P. Do đó, không chấp nhận yêu cầu của bị đơn anh Nguyễn Bá Đức
H và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn về việc giao con là cháu
Nguyễn Bá Đức P cho anh H chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận yêu cầu của chị

7
Q, giao cháu Nguyễn Bá Đức P cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục là có căn cứ và phù hợp.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Như Q không yêu cầu anh Nguyễn
Bá Đức H cấp dưỡng nuôi con nên không giải quyết.
[3]. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Như Q không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
[4]. Về yêu cầu của bị đơn anh Nguyễn Bá Đức H yêu cầu Tòa án chia tài
sản chung của vợ chồng:
Ngày 22/8/2025, Tòa án đã ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, đến
ngày 27/8/2025 bị đơn anh Nguyễn Bá Đức H mới yêu cầu Tòa án phân chia 34
chỉ vàng 9999. Như vậy, sau khi Tòa án ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử
thì anh H mới yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung của vợ chồng. Tòa án đã
tiến hành làm việc và yêu cầu anh H chứng minh 34 chỉ vàng 9999 do ai quản lý
nhưng anh H không cung cấp tài liệu, chứng minh để Tòa án xem xét nên không
chấp nhận giải quyết trong vụ án. Bị đơn anh Nguyễn Bá Đức H có quyền khởi
kiện vụ án khác để yêu cầu Tòa án giải quyết về phân chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân.
[5]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm
a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án, buộc nguyên đơn chị Nguyễn Thị Như Q phải chịu
300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng các Điều 28, 35, 39; điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228
Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn
nhân và gia đình;
Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5
Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn
Thị Như Q.
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Như Q ly hôn anh Nguyễn Bá
Đức H (Giấy chứng nhận kết hôn số số 11 ngày 12/7/2022 tại UBND xã Tân
Long, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị (nay là UBND xã Lao Bảo, tỉnh Quảng
Trị).
8
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Bá Đức P, sinh ngày 05/12/2022 cho
chị Nguyễn Thị Như Q trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
Anh Nguyễn Bá Đức H không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Như Q phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn
sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000
đồng tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án ký hiệu BLTU/23 số 0000888
ngày 08 tháng 8 năm 2025 của Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị; Chị Nguyễn
Thị Như Q đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của
Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Quảng Trị;
- VKSND khu vực 7,
tỉnh Quảng Trị;
- THADS tỉnh Quảng Trị;
- UBND xã Lao Bảo,
tỉnh Quảng Trị;
- Lưu Tổ HCTP;
- Lưu Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Ngọc Huy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 29/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 24/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 24/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 24/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 20/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 16/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 15/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 11/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 10/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 10/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 10/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 09/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 04/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm