Bản án số 09/2024/HC-PT ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 09/2024/HC-PT ngày 29/08/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Phúc |
Số hiệu: | 09/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | thấy thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15 tại thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đã được gia đình ông D sử dụng ổn định, liên tục từ năm 1992, đất sử dụng không theo quyết định giao thầu, giao khoán của UBND xã đối với trường hợp đất thuộc quỹ đất công ích và đủ điều kiện để được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vì vậy, việc UBND xã T đưa ra lý do thửa đất thuộc quỹ đất công ích của xã, trong khi UBND xã không đưa ra được căn cứ đề chứng minh đây là đất công ích do UBND xã quản lý, để từ chối hoàn thiện hồ sơ cho gia đình ông D là không đúng quy định pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông D. Do đó, ông D yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tam Dương |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 09/2024/HC-PT
Ngày 29-8-2024
“V/v khiếu kiện hành vi hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Văn Mạnh
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Thu Hà;
Ông Nguyễn Văn Nghĩa.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hà- Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên tham gia phiên
tòa: Bà Cao Thị Thanh Huyền - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án Hành chính thụ lý số: 13/2023/TLPT- HC ngày
01/11/2023 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất
đai”.
Do bản án 02/2023/TLST- HC ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Tòa án
nhân dân huyện Tam Dương bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 11/2023/QĐ-PT ngày 29 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Phan Văn D, sinh năm 1955; địa chỉ: Thôn X, xã
T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo ủy quyền của ông D: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm
1980 (Theo văn bản ủy quyền ngày 11/11/2022); địa chỉ: Số D, đường N,
phường Đ, thành phố V Vĩnh Phúc.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân xã T; địa chỉ: xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh
Phúc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hồng T - Phó chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã T; địa chỉ: xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc (Theo văn bản ủy
quyền ngày 27/3/2023);
2
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Hoàng Thị N, sinh năm
1955; địa chỉ: thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm
1980; địa chỉ: Số D, đường N, phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (Theo
văn bản ủy quyền ngày 30/05/2023).
Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn H là đại diện theo ủy quyền của ông
Phan Văn D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 07/11/2022 và đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi
kiện và quá trình tố tụng, người khởi kiện ông Phan Văn D, người đại diện theo
uỷ quyền của Phan Văn D là ông Nguyễn Văn H trình bày:
Ông D là chủ sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất 3600m
2
đất thuộc
thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15, địa chỉ thửa đất tại thôn X, xã T, huyện T, tỉnh
Vĩnh Phúc. Nguồn gốc thửa đất trên là do gia đình ông khai hoang để trồng cây
lâu năm từ năm 1992. Từ thời điểm khai hoang đất đến nay, gia đình ông trồng
rừng và sử dụng ổn định, liên tục, không tranh chấp với ai. Thửa đất này trước
đó là của bà Phan Thị B, sau đó bà B về P sinh sống và giao lại thửa đất này cho
ông D canh tác, sử dụng. Ngày 17/7/2019, ông D đã gửi hồ sơ xin cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên tới Ủy ban nhân dân xã T.
Sau rất nhiều thời gian liên hệ, Ủy ban nhân dân xã T chưa hoàn thiện thủ tục
xác nhận đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông.
Ngày 14/10/2019, ông D khởi kiện hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã
T ra Tòa án nhân dân huyện Tam Dương để yêu cầu Tòa án tuyên buộc Ủy ban
nhân dân xã T hoàn thiện, trả kết quả thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông. Ngày 24/7/2020, UBND xã T ban hành Công văn số
132/HC-UBND về việc không xác nhận đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và trả lại
hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông D. Ông D tiếp tục khởi kiện
UBND xã T đến TAND huyện Tam Dương với yêu cầu “Tuyên hủy văn bản số
132/HC-UBND ngày 24/7/2020 của UBND xã T”. Quá trình TAND huyện Tam
Dương giải quyết vụ án, UBND xã T đã hủy bỏ văn bản số 132/HC-UBND,
đồng ý thực hiện các thủ tục thuộc thẩm quyền để hoàn thiện hồ sơ, ông D đã rút
đơn khởi kiện và TAND huyện Tam Dương đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên
ngày 23/9/2022, ông D có nhận được Công văn số 254/CV-UBND về việc giải
quyết hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất của UBND xã T. Nội dung thể hiện thửa đất ông D đăng ký cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất thuộc quỹ đất công ích do Ủy ban nhân dân xã Q1, không đủ điều kiện cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất. Việc không giải quyết hồ sơ và trả lời bằng văn bản của UBND xã T là
không đúng quy định của pháp luật. Vì:
3
Thứ nhất, khoản 1, khoản 3 Điều 132 Luật Đất đai năm 2013 quy định về
quản lý đất công ích như sau:
“1. Căn cứ vào quỹ đất, đặc điểm và nhu cầu của địa phương, mỗi xã,
phường, thị trấn được lập quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích
không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm,
đất nuôi trồng thủy sản để phục vụ cho các nhu cầu công ích của địa phương....
3. Đối với diện tích đất chưa sử dụng vào muc đích quy định tại khoản 2
Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp xã cho hộ gia đình, cá nhân tại địa phương
thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hình thức đấu giá để cho
thuê. Thời hạn sử dụng đất đối với mỗi lần thuê không quá 05 năm.”.
Như vậy, trong trường hợp đất thuộc quỹ đất công ích của Uỷ ban nhân
dân xã nhưng chưa sử dụng vào mục đích công ích thì phải có văn bản giao thầu,
giao khoán cho hộ gia đình, cá nhân để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản. Tuy nhiên, thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15 là đất do gia đình ông khai
hoang trồng trọt từ năm 1992, từ đó đến nay ông D cũng không nhận được bất
kỳ quyết định giao thầu, giao khoán nào của UBND xã và sử dụng liên tục, ổn
định vào mục đích trồng rừng. Ngoài ra, từ khi sử dụng đất đến nay, gia đình
chưa nhận được bất kỳ biên bản hay quyết định xử phạt vi phạm hành chính nào
và hàng năm ông vẫn đóng thuế đầy đủ cho nhà nước.
Thứ hai, khoản 5 Điều 33 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định về
chứng nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng như sau: “Trường hợp hộ
gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư không có giấy tờ quy định tại các Khoản 1,
2, 3 và 4 Điều này mà đã trồng rừng sản xuất bằng vốn của mình thì phải được
Văn phòng đăng ký đất đai xác nhận có đủ điều kiện được công nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai”. Đồng thời, khoản 2 Điều 101
Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất
không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử
dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về
đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp,
phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy
hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
Từ những luận điểm nêu trên cho thấy thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15 tại
thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đã được gia đình ông D sử dụng ổn định,
liên tục từ năm 1992, đất sử dụng không theo quyết định giao thầu, giao khoán
của UBND xã đối với trường hợp đất thuộc quỹ đất công ích và đủ điều kiện để
được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vì vậy,
việc UBND xã T đưa ra lý do thửa đất thuộc quỹ đất công ích của xã, trong khi
UBND xã không đưa ra được căn cứ đề chứng minh đây là đất công ích do
UBND xã quản lý, để từ chối hoàn thiện hồ sơ cho gia đình ông D là không
đúng quy định pháp luật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của gia đình ông D. Do đó, ông D yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tam
4
Dương:
- Tuyên hành vi không giải quyết hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên ông Phan Văn D đối với
thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15 của UBND xã T là trái quy định của pháp luật.
- Tuyên hủy Công văn số 254/CV-UBND ngày 23/9/2022 của UBND xã
T về việc giải quyết hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất của UBND xã T; tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ đề
nghị cấp GCNQSDĐ của ông Phan Văn D.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện, ông Nguyễn Hồng T
vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã trình bày:
Thửa đất ông D đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc
quỹ đất công ích do Ủy ban nhân dân xã T quản lý, không đủ điều kiện để cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất theo khoản 2 Điều 19 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai. Việc ông D
trình bày sử dụng trồng rừng trên thửa đất từ năm 1992 đến nay không có hợp
đồng, quyết định giao thầu hay biên bản quyết định xử phạt hành chính nào của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền bởi lẽ từ trước đến nay các khu đất chưa sử
dụng trên địa bàn xã, Ủy ban nhân dân xã giao cho các thôn trực tiếp quản lý và
giao thầu đến từng hộ gia đình, cá nhân trong đó có hộ ông D hàng năm lập
phương án thu thuế, sản nộp về Uỷ ban nhân dân xã. Nay quan điểm của Ủy ban
nhân dân xã T đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D.
Người làm chứng:
Ông Nguyễn Văn S vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày
13/6/2023, trình bày: Ông là người dân ở thôn X (nay là thôn X) và là trưởng
thôn từ năm 2015 đến năm 2019. Diện tích đất ông D đề nghị cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là đất hoang hóa do Ủy Ban nhân dân xã quản lý Và thu
thuế hàng năm. Ông D sử dụng đất này từ năm 1980, trên diện tích đất này ông
D trồng sắn và bạch đàn. Tại phiếu lấy ý kiến của khu dân cư không ghi ngày
tháng năm, phần những người tham gia cuộc họp có ghi tên Nguyễn Văn S, ông
khẳng định không có cuộc họp này, chữ ký và chữ viết Nguyễn Văn S không
phải của ông. Diện tích đất ông D đang đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là đất của Kho Xăng quân đội từ những năm 1975. Sau đó không sử
dụng nữa nên Ủy ban nhân dân xã thu hồi và giao cho các thôn để các thôn giao
khoán đến các hộ gia đình canh tác có nộp thuế sản hàng năm là 8kg thóc/1 sào.
Khoảng 02 năm nay ông D không canh tác gì mà chỉ thuê máy vào cải tạo đất.
Ông Phan Đức Q vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày
13/6/2023, trình bày: Ông Quế sinh ra và lớn lên tại thôn X, xã T. Diện tích đất
mà ông D đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông D khai hoang
từ năm nào ông không nhớ. Trên diện tích đất đó trước đây ông D trồng sắn,
bạch đàn, hiện tại ông D trồng gì ông không biết. Tại phiếu lấy ý kiến của khu
dân cư không ghi ngày tháng năm ông khẳng định không có cuộc họp này; phần
5
ghi những người tham gia cuộc họp, chữ viết “Phan Đức Q” không phải là chữ
viết của ông; chữ ký “Quế” đúng là chữ ký của ông. Gia đình ông cũng có một
phần đất cạnh diện tích đất gia đình ông D đang đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Hàng năm gia đình ông vẫn đóng thuế cho thôn đầy đủ. Việc
nộp thuế bắt đầu từ năm 1995 đến nay, còn ủy ban nhân dân xã có giao đất về
cho các thôn và các thôn có tổ chức giao đất cho các hộ dân hay không thì ông
không nhớ.
Ông Phan Xuân D1 vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày
13/6/2023, trình bày: Ông sinh ra và lớn lên tại thôn X (nay là thôn X), xã T.
Thửa đất hiện ông D đang đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất
khai hoang, ông thấy ông D sử dụng thửa đất trên khoảng gần 40 năm. Tại phiếu
lấy ý kiến của khu dân cư không ghi ngày tháng năm, ông D1 khẳng định không
có cuộc họp này, chữ viết Phan Xuân D1 không phải là chữ viết của ông; chữ ký
“Dương” thì ông không nhớ có ký hay không.
Ông Nguyễn Văn M vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày
13/6/2023 trình bày: Ông sinh ra và lớn lên ở thôn X, xã T, là trưởng thôn từ
tháng 7/2020 đến nay. Diện tích đất ông D đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ông nghe người dân nói là đất Kho Xăng, ông D sử dụng đất này từ
thời gian nào ông không biết. Khi ông làm trưởng thôn, ông có được bàn giao
phương án thu thuế vụ mùa năm 2019 của trưởng thôn cũ, trong đó có hộ ông
Phan Văn D nộp thuế Đồi Gò = 14kg thóc/1 năm nhưng ông không biết diện tích
đất ông D nộp thuế nằm ở vị trí nào. Từ khi ông làm trưởng thôn đến nay, ông D
không nộp thuế đất cho thôn lần nào.
Tại bản án số 02/2023/TLST- HC ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Tòa án
nhân dân huyện Tam Dương đã Quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31; Điều 193; khoản 1 Điều
348 Luật tố tụng Hành chính; Luật Đất đai 2013; Nghị định 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn D về việc yêu cầu Ủy ban nhân
dân xã T chấm dứt hành vi vi phạm, tiếp nhận và giải quyết hồ sơ đề nghị cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất của ông Phan Văn D ở địa chỉ: Thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngoài ra bản án còn quyết định về quyền kháng cáo và án phí đối với các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 14 tháng 8 năm 2023, ông Nguyễn Văn H đại diện theo ủy quyền
của ông Phan Văn D kháng cáo, không nhất trí với quyết định của bản án sơ
thẩm. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc sửa đối với Bản án sơ thẩm số
02/2023/TLST- HC ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tam
Dương theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm người khởi kiện có quan điểm: Đề nghị Hội đồng
6
xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu quan điểm:
Từ khi Tòa án thụ lý vụ án Thẩm phán đã thực hiện theo đúng quy định
của Luật tố tụng hành chính. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện
đúng, đầy đủ quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Người khởi kiện, người bị kiện cơ bản chấp hành đúng các quy định của
Luật Tố tụng hành chính về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải
quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo pháp luật của người bị
kiện vắng mặt, nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và có đơn xin xét xử vắng
mặt, căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án tiếp tục xét xử
vụ án là đúng quy định.
Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Khoản 1 Điều 241
Luật Tố tụng hành chính 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, đề nghị: Bác kháng cáo của
ông Phan Văn D do ông Nguyễn Văn H (đại diện theo ủy quyền kháng cáo), giữ
nguyên Bản án sơ thẩm số 02/2023/HC-ST ngày 14/8/2023 của Tòa án nhân dân
huyệnTam Dương.
Về án phí: Ông Phan Văn D là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ án
phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về thủ tục tố tụng, thẩm quyền giải quyết:
[1.1] Đơn kháng cáo của người đại diện cho người khởi kiện làm trong
hạn luật định được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Đại diện người bị kiện có đơn xin xét xử vắng mặt nên tòa án xét xử
vụ án theo quy định tại Điều 225 Luật tố tụng hành chính..
[1.3] Về đối tượng khởi kiện vụ án hành chính:
Ngày 17/7/2019, ông Phan Văn D gửi hồ sơ, đơn đăng ký cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đề
nghị UBND xã T xác nhận nguồn gốc đất, Văn phòng ĐKĐĐ – Chi nhánh
huyện T và UBND huyện T cấp Giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cho ông Phan Văn D đối với thửa đất số 253, tờ bản đồ 15
tại thôn X, xã T, huyện T, diện tích 3.660m
2
. Theo ông D nguồn gốc sử dụng đất
là do gia đình tự khai hoang sử dụng vào mục đích trồng cây lâu năm từ trước
năm 1992. Ngày 23/9/2022, UBND xã T ban hành Công văn số 254/CV-UBND
trả lời ông D về việc giải quyết hồ sơ đăng ký cấp giấy CNQSDĐ quyền sở hữu
7
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, nội dung xác định thửa đất ông D đăng ký
cấp giấy chứng nhận ... thuộc quỹ đất công ích do UBND xã quản lý, không đủ
điều kiện cấp giấy CNQSDĐ quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.
Ngày 07/11/2022, ông Phan Văn D khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hành vi
không xác nhận vào đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của Ủy ban nhân dân xã T là trái
quy định pháp luật. Buộc Ủy ban nhân dân xã T hủy bỏ Công văn số 254/CV-
UBND ngày 23/9/2022 về việc giải quyết hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của Ủy
ban nhân dân xã T; tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông D. Do vậy, hành vi không xác nhận vào đơn
đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất của Ủy ban nhân dân xã T được thể hiện thông qua Công
văn số 254/CV-UBND ngày 23/9/2022 là đối tượng khởi kiện theo quy định tại
khoản 4 Điều 3; khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng Hành chính.
[1.4] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện như trên thuộc
thẩm quyền của Tòa án. TAND huyện Tam Dương giải quyết vụ án là đúng theo
quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31 Luật tố tụng hành chính.
[1.5] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 23/9/2022, UBND xã T ban hành
Công văn số 254/CV-UBND trả lời ông D về việc giải quyết hồ sơ đăng ký cấp
giấy CNQSDĐ quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, nội dung
xác định thửa đất ông D đăng ký cấp giấychứng nhận ... thuộc quỹ đất công ích
do UBND xã quản lý, không đủ điều kiện cấp giấy CNQSDĐ quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật đất đai. Ngày 07/11/2022, ông Phan Văn D khởi kiện yêu cầu
Tòa án tuyên hành vi không xác nhận vào đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của Ủy
ban nhân dân xã T là trái quy định pháp luật là đảm bảo thời hiệu khởi kiện 01
năm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính năm
2015.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn H là đại diện theo
ủy quyền của ông Phan Văn D cho rằng Bản án số 02/2023/HC-ST ngày
14/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Tam Dương không xem xét, đánh giá
chứng cứ khách quan, đầy đủ đề nghị TAND tỉnh Vĩnh Phúc sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, nhận thấy:
Ông D trong đơn khởi kiện và trình bày tại Tòa án cho rằng gia đình ông
là chủ sử dụng hợp pháp đối với diện tích đất 3600m
2
đất thuộc thửa đất số 253,
tờ bản đồ số 15, địa chỉ thửa đất tại thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Nguồn gốc thửa đất trên là do gia đình ông khai hoang để trồng cây lâu năm từ
năm 1992; đất sử dụng không theo quyết định giao thầu, giao khoán của UBND
8
xã đối với trường hợp đất thuộc quỹ đất công ích và đủ điều kiện để được công
nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai. Vì vậy, việc UBND
xã T đưa ra lý do thửa đất thuộc quỹ đất công ích của xã và không đưa ra được
căn cứ đề chứng minh đây là đất công ích do UBND xã quản lý để từ chối hoàn
thiện hồ sơ cho gia đình ông D là không đúng quy định pháp luật, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông D. Do đó,
ông D yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Tuyên hành vi không giải quyết hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên ông Phan Văn D đối với
thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15 của UBND xã T là trái quy định của pháp luật.
- Tuyên hủy Công văn số 254/CV-UBND ngày 23/9/2022 của UBND xã
T “V/v giải quyết hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất của UBND xã T; tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ đề nghị
cấp GCNQSDĐ của ông Phan Văn D.
[2.1]. Về nguồn gốc thửa đất và quá trình quản lý sử dụng:
Tại biên bản làm việc của xã T ngày 11/9/2020; 28/7/2021 ngày
05/6/2023; ngày 16/6/2023 (BL 43, 50, 51); Biên bản xác minh tại Văn phòng Đ
chi nhánh huyện T và các tài liệu thu thập được xác định: từ trước năm 1975,
khu vực ông D yêu cầu xác định nguồn gốc sử dụng để cấp GCN là khu vực Đồi
Gò thuộc kho xăng của Quân đội và Gò C, sau đó Nhà nước không sử dụng làm
kho xăng thì các hộ dân ra canh tác.
Năm 1995, Nhà nước thu hồi phần diện tích đất trên giao cho UBND xã T
quản lý, sau đó UBND xã giao toàn bộ diện tích đất khu vực kho xăng cho các
thôn, sau đó các thôn giao khoán lại cho các hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu
canh tác trồng cây nhận thầu khoán với thôn, hàng năm nộp thuế sản cho thôn để
thôn nộp cho UBND xã. Khi giao đất cho thôn, UBND xã có lập biên bản giao
khoán, sau đó thôn lập sổ thu thuế sản đối với các hộ nhận giao khoán.
Ủy ban nhân dân xã, Văn phòng đăng ký đất đai cũng xác định thửa đất số
253, tờ bản đồ số 15 ở địa chỉ thôn X (nay là thôn X), xã T do gia đình ông D tự
cập nhật, điều chỉnh bản đồ với Văn phòng Đ rồi đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ... là đất Đồi Gò khu vực Kho xăng và Gò
Chùa thuộc quỹ đất công ích do Ủy ban nhân dân xã Q1 (BL 104), diện tích
trong phạm vi khu đất 1,5 ha trong đó có diện tích đất ông D đang canh tác, sử
dụng.
Tại bản đồ 299, đo vẽ năm 1986 không thể hiện diện tích đất 3.660,6m
2
trên bản đồ. Tại sổ mục kê đất quyển số 01 không ghi năm lập, không thể hiện
diện tích đất 3660m
2
và không quy chủ tên người sử dụng đất.
Theo bản đồ VN 2000 đo vẽ năm 2009 (bản gốc) và sổ mục kê lập năm
2009 thì thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15 là một phần của thửa đất số 144, 145
và 66, loại đất nông nghiệp (LNK). Thửa đất số 145, 66 quy chủ sử dụng đất là
Ủy ban nhân dân xã T (BL 104); thửa số 144 quy chủ sử dụng đất là hộ bà Phan
Thị B- Phan Sâm . Danh sách các hộ chưa đóng sản Đồi Gò thể hiện ông Phan
9
Văn D chưa đóng 10.4kg, trưởng thôn Phan Văn L lập ngày 26/10/2006 (BL78).
Tại Phương án thu vụ mùa năm 2014 thể hiện việc thu vụ mùa đối với hộ ông D
đất Đồi Gò là 14kg thóc, rác thải là 74.000 đồng, xây tường chùa là 350.000
đồng (BL81).
Tại trang số 80 của sổ mục kê tờ bản đồ số 04 chỉ thể hiện tại thửa số 11
tên chủ sử dụng đất Phan Văn D đối với diện tích đất 2.187m
2
, trong đó đất thổ
cư 300m
2
, đất vườn 1.887m
2
ở thôn X, xã T, huyện T. Hiện tại gia đình ông D
đang sinh sống trên thửa đất này.
Ông Phan Văn D trình bày thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15 có diện tích
3660m
2
do gia đình ông khai hoang và sử dụng ổn định từ năm 1992 đến nay
nhưng ông không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh đã được nhà
nước giao đất hay do gia đình khai hoang mà có để có căn cứ xác định ông D là
chủ sử dụng hợp pháp đối với thửa đất trên; ngoài thuế nộp thầu khoán sản hàng
năm, ông D không thực hiện việc nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác đối
với nhà nước.
Quá trình Tòa án giải quyết, ông D trình bày nguồn gốc thửa đất 253 mà
ông D đề nghị cấp giấy chứng nhận là của bà Phan Thị B cho ông D quản lý, sử
dụng từ năm 1992. Tại biên bản xác minh lập ngày 07/8/2023 của Công ty L1
với bà Phan Thị B (là bản photo), bà B trình bày thửa đất nông nghiệp ở khu vực
kho xăng bà không được Nhà nước giao đất hay cấp đất, năm 1982 bà B quay về
quê hương có dựng một ngôi nhà (đắp đất, trát vách) tại khu vực Kho xăng thôn
Đ, xã T để ở nhưng sau đó do hoàn cảnh gia đình bà về P sinh sống có giao cho
ông D (là cháu bà) sử dụng ngôi nhà vách đất. Nguồn gốc thửa đất bà B thừa
nhận không được Nhà nước giao đất hay cấp đất. Do vậy việc ông D cho rằng
thửa đất 253 gia đình ông khai hoang từ năm 1992 mà có là không có căn cứ.
[2.2]. Xét về hành vi hành chính bị kiện và nội dung Công văn số
254/CV- UBND ngày 23/9/2022 của UBND xã T: Ngày 17/7/2019, thông qua
đường bưu điện, ông D có gửi 01 bộ hồ sơ đề nghị đăng ký cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đến Ủy ban nhân dân xã T. Sau nhiều lần liên hệ ông D chưa
nhận được trả lời của Ủy ban nhân dân xã T, đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa đất số 253, tờ bản đố số 15, diện tích khoảng 3600m
2
ở
địa chỉ thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 14/10/2019, ông D khởi
kiện đến Tòa án nhân dân huyện Tam Dương sau đó đã rút đơn khởi kiện. Ngày
24/7/2020, Ủy ban nhân dân xã T ban hành công văn số 132/HC-UBND về việc
không xác nhận đơn đề nghị đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho gia đình ông D. Ông D tiếp tục có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện
Tam Dương đề nghị hủy văn bản số 132/HC-UBND ngày 24/7/2020 của Ủy ban
nhân dân xã T. Quá trình giải quyết vụ án, Ủy ban nhân dân xã T đã hủy bỏ
công văn số 132/HC-UBND ngày 24/7/2020 nên sau đó ông D rút đơn khởi kiện
và tiếp tục đề nghị UBND xã T tiến hành giải quyết hồ sơ xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và các tài sản khác gắn liền với đất
đối với thửa đất số 253, tờ bản đồ số 15, diện tích 3660,6m
2
tại thôn X, xã T,
huyện T. Khi ông D nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
10
đối với thửa đất số 253, ông có nộp Phiếu lấy ý kiến của khu dân cư về nguồn
gốc và thời điểm sử dụng đất thể hiện có chữ ký của các ông bà Nguyễn Văn S,
Phan Đức Q, Phan Quốc P, Phan Xuân D1, Lê Văn C1. Tuy nhiên, phiếu này
không có ngày tháng năm; tại biên bản làm việc ngày 11/9/2020 các ông S, ông
Q, ông P, ông D1, ông C1 đều trình bày không có cuộc họp lấy phiếu ý kiến của
khu dân cư; chữ ký trong mục “Ký tên” không phải là chữ lý của các ông; quá
trình làm việc với TAND huyện Tam Dương ông S, ông Q, ông D1 và ông
Nguyễn Văn M (là trưởng thôn từ tháng 7/2020 đến nay) đều trình bày nguồn
gốc thửa đất 253 ông D đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước
đây là kho xăng, sau đó UBND xã giao cho các thôn để giao cho các cá nhân, hộ
gia đình trong thôn thầu khoán, không phải đất do gia đình ông D khai hoang mà
có. Mặt khác, theo các tài liệu xác minh về nguồn gốc đất cho thấy, thửa đất số
253, tờ bản đồ số 15, trước đây là các thửa đất 144, 145, 66 trong đó thửa 145,
66 quy chủ sử dụng đất là Ủy ban nhân dân xã T; thửa 144 quy chủ sử dụng là
hộ bà Phan Thị B - Phan Sâm . Không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện thửa đất
trên do gia đình ông D khai hoang từ năm 1992.
Hơn nữa, vị trí thửa đất 253 ông D dề nghị xác định nguồn gốc để cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân xã xác định nằm
trong khu quy hoạch là khu ký túc xá của trường đại học (BL 49) được UBND
tỉnh V phê duyệt tại Quyết định số 804/QĐ-UBND ngày 03/4/2013 và Quyết
định số 211/QĐ-UBND ngày 20/01/2016. Ngày 23/9/2022, Ủy ban nhân dân xã
T ban hành Công văn số 254/CV-UBND trả lời ông D về thửa đất ông D đề nghị
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đủ điều kiện để xác nhận và cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lý do: Thửa đất số 253 tờ bản đồ 15, diện
tích 3660m
2
(theo đơn đề nghị) không trùng khớp với số thửa, diện tích trong
bản đồ quản lý tại xã; thửa đất ông D đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ... thuộc quỹ đất công ích do Ủy ban nhân dân xã Q1, không đủ điều
kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất theo khoản 2 Điều 19 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.
[2.3]. Sau khi tòa án tạm ngừng phiên tòa để xác minh thêm, tòa án đã có
công văn số 29/2024/CV-HC ngày 01/8/2024 đề nghị Phòng Tài nguyên và Môi
trường huyện T xác định, trả lời về nguồn gốc thửa đất, về diện tích đất của ông
D có nằm trong quy hoạch của tỉnh Vĩnh Phúc không. Tại công văn số 511/HC-
TNMT của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T đã trả lời: Về nguồn gốc
đất, quá trình sử dụng đất do UBND cấp xã xác định; UBND xã trực tiếp quản
lý đất công ích. Theo quy định tại Điều 19 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ, đất công ích (Đất của Nhà nước –tài sản công) không
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...Theo quy hoạch sử dụng đất
huyện T thời kỳ 2021-2030 được Ủy ban nhân dân tỉnh V phê duyệt tại Quyết
đinh 3100/QĐ-UBND ngày 12/11/2021, vị trí thửa đất có quy hoạch ký túc xá...
[2.4]. Do ông D không đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và hơn
nữa phần đất ông D đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ... là không
11
phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị theo
khoản 2 Điều 101 Luật đất đai, nên việc UBND xã T không tiến hành xác nhận
vào đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 253 mà ông D đề nghị và ban
hành Công văn số 254/CV-UBND trả lời ông D là có căn cứ theo quy định tại
khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 19, Điều 70 Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật đất đai năm 2013; Thông tư 33/2017/TT- BTNMT ngày
29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết nghị định số
01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị
định, quy định chi tiết thi hành Luật đất đai và sửa đổi, bổ sung một số điều của
các thông tư hướng dẫn thi hành Luật đất đai.
Từ những phân tích, nhận định nêu trên xác định: Việc Tòa án cấp sơ
thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn D là có căn cứ, do vậy kháng cáo
của người khởi kiện yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa bản án sơ
thẩm ngày 14/8/2023 của TAND huyện Tam Dương theo hướng chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông Phan Văn D là không có căn cứ để chấp nhận.
[3] Về án phí: Do kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của ông
Phan Văn D không được chấp nhận, nên ông D phải chịu án phí hành chính
phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên ông D đã trên 60 tuổi nên căn
cứ điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326 của Ủy ban TVQH, miễn án phí
hành chính phúc thẩm cho ông D.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa là có
căn cứ cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn D. Giữ nguyên bản
án hành chính sơ thẩm số 02/2023/TLST- HC ngày 14 tháng 8 năm 2023 của
Tòa án nhân dân huyện Tam Dương.
2. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho ông Phan Văn D.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
12
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND huyện Tam Dương
- VKSND huyện Tam Dương;
- Chi cục THADS huyện Tam Dương;
- Các đương sự.
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Văn Mạnh
Tải về
Bản án số 09/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 09/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm